Thường Ngọc Thanh nghe mà dở khóc dở
cười, A Mạch là một tướng lãnh hết sức quan trọng của quân Giang Bắc,
bao nhiêu năm qua Nam Hạ mới có được, vậy mà qua miệng Thôi Diễn lại
thành “chẳng qua chỉ là một nữ nhân”! Lại thấy vẻ mặt tức giận cùng
khinh thường của Thôi Diễn, Thường Ngọc Thanh đành phải trầm mặt, giáo
huấn: “Ngươi quá loạn ngôn rồi đấy, nàng là tướng lãnh Nam Hạ, sao có
thể dễ dàng để ngươi cướp đoạt? Lại còn gạo nấu thành cơm, ngươi coi ta
là loại người nào?”
Thôi Diễn gân cổ, trừng mắt nói: “Cái gì mà tướng lãnh Nam Hạ, chẳng phải chỉ là một nữ nhân thôi sao, chúng
ta chỉ cần vạch trần thân thế của nàng, ta không tin đám mọi rợ Nam Hạ
có thể chấp nhận một tướng quân là nữ nhi! Đến lúc đó đại ca…”
“Thôi Diễn!” Thường Ngọc Thanh đột
nhiên lớn tiếng quát, cắt ngang lời Thôi Diễn, sắc mặt đầy vẻ giận dữ,
lạnh giọng nói: “Ngươi và ta thân là đại trượng phu, trên chiến trường
lại thất bại trong tay nữ nhân đã là một nỗi sỉ nhục rồi, sao có thể lợi dụng thân phận nữ nhân của nàng để bức bách người ta ủy thân cho
mình!”
Thôi Diễn thấy Thường Ngọc Thanh thật sự tức giận, sợ tới mức cúi đầu, miệng cũng chỉ dám nhỏ giọng nói thầm: “Ta cũng chỉ nói thế thôi, đại ca đừng giận a.”
Sắc mặt Thường Ngọc Thanh vẫn lạnh
lùng như trước, nói: “A Diễn, dù ta có muốn cướp người, thì cũng là ở
trên chiến trường quang minh chính đại cướp lấy, tuyệt sẽ không ngấm
ngầm dùng thủ đoạn hạ lưu này, ngươi đánh giá đại ca ngươi quá thấp rồi
đấy!”
Thôi Diễn nghe xong vội vàng nói: “Đại ca, ta không có ý đó.”
“Tốt nhất là không có,” sắc mặt
Thường Ngọc Thanh thoáng dịu đi, ngừng lại một chút rồi nói thêm: “Về
sau đừng bao giờ nhắc lại những lời này nữa!”
Thôi Diễn vội vàng vâng vâng dạ dạ,
nhưng trong đầu vẫn vương vẫn chút thắc mắc, chần chờ một lát lại hỏi:
“Đại ca, chẳng phải lần này chúng ta sẽ nghị hòa với bọn mọi rợ Nam Hạ
hay sao? Chờ nghị hòa xong, đại ca và nàng không còn đánh trận nữa, thế
thì làm sao ở trên chiến trường mà cướp người được?”
Thường Ngọc Thanh bị hỏi nhất thời
nghẹn giọng, chằm chằm nhìn Thôi Diễn một lúc lâu, thấy trên mặt Thôi
Diễn không hề có vẻ đùa giỡn, đúng là thật sự đang thắc mắc về vấn đề
này. Thường Ngọc Thanh cười, bất đắc dĩ nói: “Chẳng qua chỉ là một cách
nói khác mà thôi, chứ ta đâu thể ở trên chiến trường, trước mặt thiên
binh vạn mã mà cướp người được! Lại nói lần này chúng ta nghị hòa cũng
không biết là được bao nhiêu năm, chẳng lẽ không bao giờ còn đánh trận
nữa sao? Hôm nay nghị hòa, ngày sau lại đánh, chỉ cần Bắc Mạc ta một
ngày chưa bình định thiên hạ, thì trận chiến này chỉ là đánh trước hay
đánh sau mà thôi.” Thường Ngọc Thanh dừng lại, nhẹ nhàng nhếch môi cười, lại nói tiếp: “Huống chi ta và nàng lại ở hai đầu chiến tuyến, trên tay ta dính máu mười mấy vạn tính mạng người Nam Hạ, trên tay nàng cũng
dính máu mấy vạn nam nhi Bắc Mạc chúng ta, vậy thì còn có thể như thế
nào được nữa?”
Những lời này khiến tâm tư Thôi Diễn càng thêm rối rắm, lấy tay gãi đầu, rất là khó xử hỏi: “Vậy làm sao bây giờ?”
Thường Ngọc Thanh mày kiếm khẽ nhếch lên, hỏi ngược lại: “Cái gì làm sao bây giờ?”
“Đại ca không phải thích nàng sao?”
Thường Ngọc Thanh nhìn Thôi Diễn, bật cười sang sảng, sắc mặt nặng nề, cười nói: “Bây giờ nên làm thế nào thì cứ làm thế ấy đi, ngươi không phải cũng đã nói rồi sao? Chẳng qua cũng
chỉ là một nữ nhân!” Vừa nói, vừa từ dưới tàng cây đứng dậy, tùy ý vỗ vỗ bụi đất bám trên người, rồi một mình xoay người rời đi.
——————-
Tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên,
trên bàn đàm phán của hai nước Bắc Mạc và Nam Hạ nóng như trên chảo lửa, Bắc Mạc từng bước ép sát, ngoài phần lớn lượng tiền cống hàng năm, còn
ép buộc Nam Hạ cắt nhường vùng Giang Bắc gồm tám châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, Ký. Ngoài bàn đàm phán, Chu Chí Nhẫn đã tập trung
hơn mười vạn quân hướng vào phía bắc thành Thái Hưng, chỉ đợi nghị hòa
thất bại liền tấn công Nam Hạ.
Sáu châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh,
Tương đã bị Bắc Mạc khống chế, cắt nhượng thì đã đành, nhưng hai châu
Thanh, Ký vẫn còn nằm trong tay mình, cứ như vậy mà đem những vùng đất
trong thực tế không hề bị khống chế dâng cho địch, sao tránh được miệng
lưỡi thiên hạ? Nhưng nếu nghị hòa không thành thì lại tiếp tục đánh,
trong khi chuyện bình định ở Vân Tây mãi không thấy có kết quả, chưa nói đến quốc khố không thể duy trì chi phí quân sự khổng lồ này, mà chỉ cần nói vạn nhất đại quân Bắc Mạc thuận theo sông Uyển đánh xuống Giang
Nam, cùng phản quân Vân Tây hai mặt giáp công Thịnh Đô, thì Nam Hạ lập
tức sẽ rơi vào hiểm cảnh mất nước.
Triều đình Nam Hạ thực khó xử, những
biện thủ(1) trên bàn đàm phán lại càng khó xử. Tuy rằng sứ thần nghị hòa mới tới là Thương tiểu Hầu gia đã mang chỉ thị mới nhất của triều đình
đến – cắt nhường những vùng bị chiếm đóng ở Giang Bắc để đổi lấy hòa
bình, nhưng không ngờ rằng cái miệng sư tử của Bắc Mạc hóa ra lại rất
lớn, ngay cả hai châu chưa công chiếm được là Thanh, Ký cũng đều muốn!
Nếu nhất định phải cắt nhường hai
châu đó thì thật uất ức! Nếu không cắt nhường thì lại rất nguy hiểm! Rốt cuộc phải làm thế nào mới tốt?
Biện thủ Nam Hạ quay đầu nhìn thần
sắc của sứ thần nghị hòa Thương Dịch Chi, chỉ thấy anh ta vẫn cúi thấp
đầu, không nhanh không chậm thổi chén trà trong tay, khuôn mặt vẫn trầm
lắng không lộ chút thanh sắc như mọi khi! Nhìn là biết không chịu đồng
ý, vậy thì phải tiếp tục đàm phán rồi!
Nhưng phải đàm phán thế nào đây? Biện thủ Nam Hạ vừa khổ sở buồn phiền lại vừa mê man. Vị sứ thần nghị hòa
mới tới này đúng là đại Phật gia a, chỉ biết ngồi đó mà chẳng chịu nói
gì. Bộ dạng của vị Phật gia này trên bàn đàm phán nếu không phải híp mắt ngủ gà ngủ gật thì là bưng chén nhàn nhã tự tại phẩm trà, đến nửa phần
cũng không bằng sứ thần nghị hòa Cao Cát trước đây.
Vẫn phải quay lại cùng Bắc Mạc tiếp
tục thương lượng thôi: Nếu không làm như thế này đi, chúng ta cắt nhường sáu châu là Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, tiền cống hàng năm cho các
ngươi sẽ nhiều lên một chút, được không?
Cầm đầu đám biện thủ Bắc Mạc: Không
được, tiền cống hàng năm các ngươi không thể ít hơn, mà hai châu Thanh,
Ký chúng ta nhất định cũng phải lấy.
Biện thủ Nam Hạ phẫn uất: Các ngươi
đừng khinh người quá đáng, hai châu này vẫn nằm trong tay chúng ta, dựa
vào cái gì chúng ta phải cho các ngươi?
Biện thủ Bắc Mạc khinh thường nói:
Chúng ta ở phía tây thành Thanh Châu có đại quân đóng giữ, ít ngày nữa
liền đánh hạ Thanh Châu, sau đó đông tiến đánh chiếm Ký Châu, hạ Sơn
Đông, chúng ta có thừa sức lấy sông Uyển làm gianh giới!
Biện thủ Nam Hạ nóng nảy: Ngươi nói
ngươi có có thừa sức? Nói suông vô dụng, ngươi cứ thử đem thực lực của
ngươi chiếm lĩnh toàn bộ phía bắc sông Uyển để chứng minh thực lực của
ngươi đi, không cần phải “Phân tích” nhiều! Trên bàn đàm phán tất cả
những thứ phân tích đều không thể thừa nhận được.
Biện thủ Bắc Mạc đứng bật dậy vỗ mông nói: Tốt lắm, vậy thì chúng ta đánh tiếp.
Biện thủ Nam Hạ vô lực… Đánh tiếp?
Binh lực triều đình chủ yếu đã tập trung bình định Vân Tây, sao còn có
tinh lực cho phương bắc nữa!
Biện thủ Nam Hạ vội vàng đưa tay lên: Đừng nóng vội, ngồi xuống, ngồi xuống đã, có gì chúng ta cứ tiếp tục
thương lượng, thương lượng…
Cuối tháng bảy năm thứ tư Thịnh
Nguyên, Nam Hạ và Bắc Mạc cuối cùng đã đạt được hòa ước: Thứ nhất, phía
tây lấy sông Uyển làm gianh giới, phía đông lấy Thái Hành Sơn làm gianh
giới, lấy phía bắc nối liền Bắc Mạc, lấy phía nam nối liền Nam Hạ; thứ
hai, Nam Hạ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh
cho Bắc Mạc; thứ ba, hàng năm Nam Hạ phải tiến cống cho Bắc Mạc bạc, lụa mỗi loại năm mươi vạn lượng, tấm; từ năm thứ năm Thịnh Nguyên sẽ bắt
đầu, hàng năm vào mùa xuân sẽ đưa tới Thái Hưng giao nộp.
Đến đây, hòa ước Thái Hưng chính thức được ký kết, có người vui mừng có người buồn bã, còn có người nhìn không thấu.
Bên trong dịch quán Thái Hưng, Khương Thành Dực cúi đầu xem kỹ các điều khoản của hòa ước, đến khi nhìn đến
điều khoản Nam Hạ chỉ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh,
Tương, Thanh, thì ngẩng đầu hỏi Trần Khởi: “Nguyên soái, tại sao không
lấy nốt cả Ký Châu?”
Trần Khởi một thân thường phục, thẳng lưng ngồi trước án thư, lật một trang của cuốn sách cầm trong tay, tùy ý đáp: “Có Thanh Châu sẽ không cần Ký Châu, bức ép bọn họ quá ngược lại
cũng không tốt.”
Khương Thành Dực vẫn khó hiểu, hỏi: “Chẳng phải nói chỉ tiến cống thôi sao? Sao bọn họ lại đổi ý?”
Trần Khởi nghe vậy ngẩng đầu liếc mắt nhìn tâm phúc của mình, khóe miệng lộ ra một ý cười thản nhiên, nói:
“Lời nói của Nam Hạ thì làm sao mà chuẩn xác được, hơn nữa thành trì chỉ có tự mình đánh hạ thì mới có ý nghĩa, Thanh Châu có thể cho chúng ta
cũng đã là ngoài ý muốn rồi, có thể thấy được Thường gia cũng thật công
phu, biết cũng nhiều!”
Khương Thành Dực nghe xong gật đầu,
nói: “Khó trách lão hồ li Thường gia lại để Thường Ngọc Thanh đến Thịnh
Đô, Thường gia tấn công đã lâu mà không hạ được Thanh Châu, nay mượn cơ
hội này lấy được Thanh Châu, về sau làm bàn đạp tấn công hạ Ký Châu.
Thường Ngọc Thanh vốn có công phá Tĩnh Dương quan, nếu có thể tiếp tục
cướp lấy Ký Châu, e rằng Thường gia có lẽ sẽ được phong hầu.”
Trần Khởi cười cười, khẽ lắc lắc đầu, Thường gia đã tồn tại cả trăm năm, sao chỉ ham muốn một Ký Châu nhỏ bé như vậy!
Khương Thành Dực do dự một lát, lại
hỏi: “Nguyên soái, ta vẫn không hiểu vì sao chúng ta phải nghị hòa với
Nam Hạ, hiện giờ tình thế của chúng ta đang rất tốt, sao không tiếp tục
truy kích, thừa cơ tấn công Nam Hạ? Cùng quân Vân Tây hình thành thế
giáp công Thịnh Đô, chắc chắn sẽ diệt được Nam Hạ!”
Trần Khởi buông cuốn sách trong tay xuống, ngẩng đầu nhìn Khương Thành Dực, nói: “Thời cơ tiêu diệt Nam Hạ chưa tới.”
“Vì sao?” Khương Thành Dực hỏi.
Trần Khởi cân nhắc một chút rồi chậm
rãi nói: “Quân ta sở dĩ có thể công chiếm Giang Bắc, chẳng qua chỉ dựa
vào ưu thế của kỵ binh, thực hiện tấn công thọc sâu, sau đó quay ngược
trở lại tấn công Tĩnh Dương quan, mở được biên quan Nam Hạ. Sau khi đại
quân lọt qua quan ải cũng là tận dụng lợi thế tốc độ của kỵ binh, áp
dụng nhiều hướng đột tiến, tiến công trọng điểm chiến lược. Mặc dù đã
đánh hạ được đại bộ phận Giang Bắc, nhưng vốn chiến tuyến vừa trải rộng
lại kéo dài, kết quả là binh lực bị phân tán, việc cấp dưỡng cung ứng
gặp nhiều khó khăn. Mà Nam Hạ dù bị sa lầy trong vũng bùn bình định Vân
Tây, nhưng quốc lực chiếm thế thượng phong, lại có sông Uyển hiểm trở,
phòng thủ chiến tuyến tại sông Uyển vững chắc…”
Khương Thành Dực chỉ cảm thấy trong
lòng được khai sáng, không khỏi nói tiếp: “Mà quân ta nếu một mình xâm
nhập quá sâu, sẽ rơi vào thế hai mặt thụ địch, thêm nữa, càng đi về phía nam, ưu thế của kỵ binh quân ta lại càng giảm, tiếp viện cũng gặp nhiều khó khăn hơn.”
Trần Khởi cười, nói: “Không sai, cho
nên hiện giờ không phải thời cơ tốt nhất để tiêu diệt Nam Hạ, cùng đối
đầu với Nam Hạ, không bằng quay lại tập trung lực lượng giải trừ nỗi lo
về sau(2), trước phân tán lực lượng phản kháng ở Giang Bắc, đợi Nam Hạ
dốc toàn lực đối phó Vân Tây, binh lực bảo vệ sông Uyển không đủ, lúc đó chúng ta tấn công Nam Hạ cũng không muộn, trước từ Thanh Châu xuống Ký
Châu, Sơn Đông, sau đó vượt qua Giang Nam, đó là thời khắc bại vong của
Nam Hạ.”
Khương Thành Dực nghe được kêu lớn
một tiếng tuyệt, khen: “Khó trách lần này nguyên soái cùng Thường gia
lại thống nhất ý kiến, không để ý đến sự phản đối trong triều mà nghị
hòa, thì ra là sớm tính toán kỹ càng rồi.”
Trần Khởi cười mà không nói, lại cúi
đầu đọc sách. Khương Thành Dực nghĩ nghĩ, lại có nghi vấn khác, nhịn
không được lại hỏi: “Nhưng trước thì hòa ước, sau lại bội ước khởi binh, sợ là không hay cho lắm.”
Trần Khởi cười liếc nhìn anh ta, vui
đùa nói: “Đến lúc đó tùy tiện tìm cái cớ nào mà chẳng được? Ngươi cũng
không phải ngày đầu tiên mang binh đánh giặc, chẳng lẽ điều đơn giản như vậy cũng không biết đấy chứ?”
Khương Thành Dực đỏ mặt, đang muốn
biện giải vài câu, lại nghe thấy ngoài cửa có thân binh bẩm báo sứ thần
nghị hòa Tạ Thừa Ân cầu kiến. Khương Thành Dực ngẩn ra, không khỏi nhìn
về phía Trần Khởi, thấy trên mặt Trần Khởi cũng hiện lên một tia ngạc
nhiên, hiển nhiên cũng không biết Tạ Thừa Ân sao lại đến đây. Khương
Thành Dực đang lúc cảm thấy lạ thì Trần Khởi đã lên tiếng: “Mời Tạ đại
nhân vào.”
Sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc Tạ Thừa
Ân từ bên ngoài tiến vào, đồng thời mang đến một tin tức ngoài dự liệu
cho Trần Khởi và Khương Thành Dực. Đó là nguyên soái Vệ Hưng của quân
Giang Bắc yêu cầu để quân Giang Bắc đóng ở phía tây thành Thái Hưng hội
ngộ cùng quân giữ thành Thái Hưng, trước tiến vào thành, đi qua cửa nam
thành Thái Hưng, ra khỏi thành Thái Hưng rồi hành quân về hướng Giang
Nam.
Trong hòa ước Thái Hưng đã viết rất
rõ ràng rằng Thái Hưng là thành trì lệ thuộc Bắc Mạc, cũng quy định quân Giang Bắc nhất định phải đi về Giang Nam, nhưng lại không quy định quân Giang Bắc là đi thẳng về Giang Nam hay là vào thành Thái Hưng rồi mới
độ nam(3), vì thế mới sinh ra nghĩa khác, Vệ Hưng liền đưa ra yêu cầu
này. Đừng nói Tạ Thừa Ân cảm thấy hồ đồ, mà ngay cả Trần Khởi nghe vậy
cũng nhất thời không hiểu.
Vệ Hưng định làm gì?
Tạ Thừa Ân nói: “Vệ Hưng nói quân
Giang Bắc vốn là vì Thái Hưng mới ra khỏi núi Ô Lan, vì thế tám vạn đại
quân thiệt hại mất quá nửa, hiện nay nhất định phải độ nam, nói cái gì
mà muốn cho tướng sĩ được một lần tiến vào thành Thái Hưng.”
Trần Khởi trầm mặc không nói gì,
giống như đang cân nhắc. Khương Thành Dực đưa mắt nhìn Trần Khởi, ngạc
nhiên nói: “Trong thành Thái Hưng, quân giữ thành đã độ nam hơn phân
nửa, chỉ còn lại mấy ngàn người ở trong thành duy trì trị an. Quân Giang Bắc hiện tại không đủ ba vạn, vào thành Thái Hưng thì có thể làm được
gì? Chẳng lẽ còn dám thủ thành? Như thế chẳng phải thành cá trong chậu
sao?”
Trần Khởi đưa mắt nhìn Tạ Thừa Ân, hỏi: “Tạ đại nhân thấy thế nào?”
Trên mặt Tạ Thừa Ân hiện lên vẻ
ngượng nghịu, do dự một chút rồi nói: “Hiện tại hòa ước mặc dù đã ký
kết, nhưng hạ quan cảm thấy quân Giang Bắc một ngày chưa di chuyển về
phía nam, hòa ước có khả năng sẽ xảy ra chuyện xấu, ý của hạ quan là,
chi bằng…”
“Chi bằng trước hết làm theo ý bọn
họ, cho bọn họ vào thành Thái Hưng, cũng sớm hoàn thành việc nghị hòa.”
Trần Khởi cười, anh ta biết rõ tâm tư của Tạ Thừa Ân, thân là sứ thần
nghị hòa, đương nhiên mọi sự đều lấy việc nghị hòa đặt lên hàng đầu.
Tạ Thừa Ân thấy Trần Khởi nói thẳng
tâm tư của mình ra, không khỏi có chút ngượng ngùng, vội vàng nói thêm:
“Hạ quan không hiểu việc quân, cũng không đoán ra Vệ Hưng rốt cuộc là có ý đồ gì, vẫn là thỉnh Trần soái định đoạt.”
Tuy Trần Khởi nắm trong tay hơn nửa
binh quyền của quốc gia, nhưng cách xử sự làm người lại vẫn vô cùng nhũn nhặn, khi kết giao với đám quan văn lại càng khách khí hơn, nghe Tạ
Thừa Ân nói thế, liền cười nói: “Tạ đại nhân quá khiêm nhường rồi. Hoàng Thượng lệnh cho ta đưa quân đến Thái Hưng chẳng qua là để đề phòng việc đàm phán thất bại có thể bất ngờ sinh biến cố. Này Hoàng Thượng đã giao việc nghị hòa cho Tạ đại nhân, vậy thì Tạ đại nhân cứ tuỳ cơ mà ứng
biến.”
Trần Khởi tuy nói như vậy, nhưng Tạ
Thừa Ân cũng không dám vượt mặt đại nguyên soái chinh nam mà tỏ ra
chuyên quyền độc đoán, lại vội vàng cùng Trần Khởi khách khí đưa đẩy,
thấy Trần Khởi cũng không cố ý làm ra vẻ ta đây, liền đứng dậy cáo từ,
nói rằng sẽ đi chuyển thông cáo cho người phụ trách việc nghị hòa của
Nam Hạ, cho phép quân Giang Bắc đi qua thành Thái Hưng thành nam độ.
Trần Khởi lại gọi Tạ Thừa Ân lại,
cười nói: “Đàm phán đã thành công, ta ở lại trong thành cũng không có
tác dụng nữa, hai ngày sau sẽ rút khỏi Thái Hưng đến đại doanh của Chu
Chí Nhẫn, sau này sẽ cùng đại quân vào thành.”
Lời này vừa nói ra, lập tức khiến Tạ
Thừa Ân giật mình, chỉ có điều ông ta có thể trở thành sứ thần nghị hòa
của Bắc Mạc, thì có nghĩa cũng là người rất thông minh, chỉ một lát sau
liền hiểu được ý của Trần Khởi, lập tức nói: “Cũng tốt, đợi mấy ngày nữa hạ quan tiếp quản thành Thái Hưng, chắc chắn sẽ đốt pháo nghênh đón
Trần soái vào thành!”
Trần Khởi cười tiễn Tạ Thừa Ân đến
tận cửa, lại lệnh cho Khương Thành Dực thay mình đưa ông ta ra ngoài.
Một lúc sau, Khương Thành Dực trở về, lúc này mới hỏi Trần Khởi về nỗi
nghi hoặc trong lòng: “Nguyên soái sợ Vệ Hưng vào thành là vì chúng ta
sao?”
Khuôn mặt Trần Khởi bình tĩnh, ánh
mắt trầm ổn, thản nhiên đáp: “Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng ngươi và đều ở trong thành, mặc dù là âm thầm vào thành, nhưng khó tránh khỏi có người nhận ra.” Nói tới đây, Trần Khởi bất giác khẽ giật mình mà ngừng
lại, song rất nhanh lại phục hồi tinh thần, tiếp tục nói: “Mặc dù đại
quân chỉ cách Thái Hưng khoảng một trăm dặm, nhưng vạn nhất khi Vệ Hưng
đưa quân Giang Bắc vào thành, sau đó đột nhiên gây khó dễ, mấy người
chúng ta e là khó có thể ứng phó được. Cho nên… không thể không đề
phòng.”
Ngày hai mươi tám tháng bảy, Trần
Khởi, Khương Thành Dực, Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng các tướng lĩnh Bắc Mạc âm thầm ra khỏi thành Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, cùng ngày hôm đó, sứ thần nghị hòa Bắc Mạc là Tạ Thừa Ân đồng ý cho
quân Giang Bắc của Nam Hạ đi qua thành Thái Hưng mà nam độ.
Đại doanh Chu Chí Nhẫn cách Thái Hưng cùng lắm chỉ một trăm dặm, đám người Trần Khởi chưa đến buổi trưa đã
đến bên ngoài đại doanh, chỉ thấy bên trong quân doanh kỷ luật nghiêm
minh, hàng ngũ nghiêm chỉnh, phòng vệ chặt chẽ, thỉnh thoảng còn có quân sĩ mặc trang phục cấm vệ quân ra vào cổng doanh trại. Trần Khởi nhìn
thấy trong lòng vừa động, Khương Thành Dực ở bên cạnh đã nhỏ giọng hỏi:
“Nguyên soái, sao cấm vệ quân cũng đến đây?”
Trần Khởi vẫn chưa trả lời, chỉ xuống ngựa chờ trước cổng doanh trại, sai người vào thông báo cho Chu Chí
Nhẫn. Thôi Diễn mất kiên nhẫn, nhịn không được lên tiếng nói: “Nguyên
soái sao còn phải cho người thông báo làm gì, quân giữ cổng doanh trại
nhìn thấy chúng ta kiểu gì chẳng nhận ra, cứ bảo thẳng hắn mở cổng doanh trại ra là được.” Nói xong liền đi lên định tìm tên quan giữ cổng, vừa
nhấc được một bước chân đã bị Thường Ngọc Thanh kéo lại. Thôi Diễn nhìn
vẻ mặt trầm mặc của Trần Khởi, lại liếc mắt nhìn Thường Ngọc Thanh đang
nhếch khóe miệng cười, tuy không rõ điều gì nhưng cũng dừng cước bộ lại.
Một lát sau, cổng doanh trại mở ra,
phó tướng của Chu Chí Nhẫn vội vàng từ trong doanh trại bước ra, một mặt đón đoàn người Trần Khởi vào trong doanh trại, một mặt thấp giọng nói
với Trần Khởi: “Hoàng thượng tới, Chu tướng quân đang ở trong đại trướng tiếp thánh giá.”
Trong lòng Trần Khởi mặc dù sớm đã đoán ra, nhưng vẫn kinh ngạc hỏi: “Sao Hoàng Thượng lại đến đây?”
Phía sau, Thường Ngọc Thanh đột nhiên khẽ bật ra tiếng cười chế nhạo, khiến cho mấy người bên cạnh đều đưa
mắt nhìn sang, Thường Ngọc Thanh lại cười giải thích với Thôi Diễn: “Đột nhiên nhớ tới câu chuyện cười ngươi kể hôm qua, nhất thời không nhịn
được.” Thôi Diễn lần này không ngốc đến nỗi hỏi lại anh ta hôm qua mình
kể chuyện cười gì, nhưng cũng không tự chủ được mà liếc mắt nhìn Trần
Khởi. Sắc mặt Trần Khởi vẫn bình tĩnh, như thể không nghe thấy Thường
Ngọc Thanh nói gì, thấp giọng hỏi viên phó tướng: “Hoàng Thượng tuyên
triệu ta vào yết kiến sao?”
Viên phó tướng gật đầu nói: “Hoàng Thượng tuyên một mình nguyên soái vào yết kiến.”
Bên ngoài đại trướng, binh khí như
rừng, bảo vệ nghiêm ngặt, quân sĩ bảo vệ mặc áo giáp sáng chói, đều là
phục sức cấm vệ quân. Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc đang nghe
lão tướng Chu Chí Nhẫn báo cáo dự trù kế hoạch kiến tạo thành lập thuỷ
quân, nghe thấy thông báo Trần Khởi đã đến, liền vội vàng cho người
triệu Trần Khởi vào trướng.
Trần Khởi tiến vào đại trướng, cung
kính hành lễ với tiểu hoàng đế, sau đó ngay lập tức dùng trực ngôn can
gián mà nói rằng: “Quân Nam Hạ chỉ cách nơi này hơn một trăm dặm, Hoàng
Thượng không nên mạo hiểm đến đây.”
Tiểu hoàng đế Bắc Mạc mới mười bảy,
mười tám tuổi, trong ánh mắt vẫn còn lộ vẻ non nớt của một thiếu niên ít tuổi, cười nói: “Ngươi và Chu lão tướng quân đều ở đây, trẫm đâu thể
gặp nguy hiểm được!”
Khóe miệng Trần Khởi mấp máy, muốn
nói lại thôi. Tiểu hoàng đế thấy vậy lại trêu ghẹo nói: “Ngươi chớ có
học Thái Hậu mà suốt ngày nhẩm nhẩm niệm niệm đấy nhé, trẫm đợi ở Dự
Châu ước chừng đã hơn một năm nay, thật sự rất nhàm chán, Thái Hậu lại
còn truy theo, ngày ngày đều nhắn nhủ nhớ trẫm, giục trẫm quay về, trẫm
có lẽ cũng sớm phải chạy về kinh đô mất thôi.”
Hoàng đế kể chuyện cười ai dám không
cười? Trong trướng, mọi người đều vội vàng mỉm cười. Trần Khởi cũng
cười, mượn cơ hội này không nói lời khuyên can nữa, đợi khi tiểu hoàng
đế hỏi về việc tại thành Thái Hưng, liền đem chuyện Vệ Hưng nhất định
đòi vào thành Thái Hưng nói ra, tiểu hoàng đế vừa nghe đến trong tay Vệ
Hưng không có đủ hai vạn quân, thì chẳng buồn để ý, thậm chí còn nói đùa một câu: “Nghe nói Vệ Hưng trước kia từng làm thị vệ của hoàng đế Nam
Hạ, một thân nội gia công phu rất cao, cứ để hắn ta chạy đi như vậy cũng thật đáng tiếc.”
Trần Khởi khẽ nhếch khóe môi, nhưng lại không nói gì.
Tiểu hoàng đế lại hỏi Trần Khởi một
chút tình hình trong thành Thái Hưng, cuối cùng mới lệnh cho Trần Khởi
lui xuống nghỉ ngơi. Khi Trần Khởi trở lại trong doanh trướng của mình,
Khương Thành Dực đã là chờ ở đó, hai người chưa kịp nói chuyện, lại thấy tiểu công công hầu hạ bên cạnh hoàng đế tiến vào, trên mặt lộ nụ cười
lấy lòng, đem một phong thư đặt vào tay Trần Khởi, nói: “Hoàng Thượng
lệnh cho nô tỳ giao tận tay cho Trần soái, nói là vừa rồi quên mất.”
Trần Khởi trịnh trọng tiếp nhận, tạ ơn tiểu công công kia rồi nói: “Làm phiền tiểu công công rồi.”
Tiểu công công kia đưa xong rồi cũng
không chịu đi, vừa cười vừa nói: “Hoàng Thượng phân phó nô tỳ phải nhìn
Trần soái đọc thư xong rồi mới được đi.”
Trong lòng Trần Khởi kinh ngạc, theo
lời mở phong thư ra, rút ra một bức thư màu hồng nhạt, bất giác ngẩn
người. Khương Thành Dực đứng bên cạnh cũng ngửi thấy có mùi thơm thoang
thoảng từ lá thư kia bay ra, nhất thời cũng sửng sốt. Tiểu công công
cũng che miệng cười, nói: “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ chuyển lời tới
Trần soái, nếu muốn hồi âm thì cứ viết một phong thư để Hoàng Thượng
mang trở về, Trần soái yên tâm, Hoàng thượng nhất định sẽ không đọc
đâu.”
Trần Khởi dở khóc dở cười, hướng về phía tiểu công công nói: “Đa tạ ý tốt của Hoàng Thượng.”
Tiểu công công lúc này mới đi. Khương Thành Dực vui tươi hớn hở nhìn Trần Khởi, cười hỏi: “Nguyên soái, là
Ninh Quốc trưởng công chúa?”
Trần Khởi khẽ gật đầu, tùy ý đưa mắt
nhìn nội dung bức thư, rồi nhét lại vào phong thư đặt lên góc án, nghĩ
nghĩ, cảm thấy thế cũng không hay, lại cầm lá thư lên.
Khương Thành Dực vốn rất thân cận với Trần Khởi, khi nói chuyện cũng không câu thúc, lại biết Ninh Quốc
Trưởng công chúa từ nhỏ vốn ái mộ Trần Khởi, không khỏi cười nói:
“Nguyên soái vốn đã sớm đến tuổi cưới vợ sinh con rồi. Xem ra Hoàng
Thượng có ý tác hợp nguyên soái cùng Ninh Quốc Trưởng công chúa, nghe
nói Ninh Quốc công chúa vừa xinh đẹp lại vừa hiền thục…”
Trên mặt Trần Khởi lại chẳng hề lộ
chút vui mừng nào, trong lòng đột nhiên hiện lên bóng dáng của A Mạch,
khi đó nàng mới mười ba, mười bốn tuổi, vẫn thường nắm lấy tay áo mình
hỏi khi nào thì sẽ lấy tiểu nha đầu là nàng… Trần Khởi khẽ mỉm cười,
chẳng nói gì.
Khương Thành Dực thấy thần sắc Trần
Khởi không tốt, liền thôi không nói tiếp chuyện đó nữa, chuyển sang hỏi
những ngày tới nên an bài như thế nào. Cõi lòng Trần Khởi đã bình ổn
lại, thản nhiên cười nói: “Trước cứ chờ xem đã.”
Ngày mùng một tháng tám, sứ thần nghị hòa của Nam Hạ là Thương Dịch Chi quay về Thịnh Đô phục mệnh, thử thành Thái Hưng là Vạn Lương ở lại thành tiếp tục cai quản Thái Hưng.
Ngày mùng ba tháng tám, Vệ Hưng mang
quân Giang Bắc từ phía tây thành Thái Hưng vào thành, nhưng không đi ra
theo cửa phía nam như đã nói mà lại trú lại trong thành, ép Vạn Lương
đóng tất cả bốn cửa thành lại, cũng không động chạm gì đến phái đoàn
nghị hòa của Bắc Mạc, ngược lại, dung túng cho quân binh cướp phá cửa
hàng của các phú hộ trong thành.
Vì sao Vệ Hưng lại cứ nhất quyết phải vào thành Thái Hưng cho bằng được, giờ thì mọi người đã nhất thời sáng
tỏ, chẳng qua mắt thấy Thái Hưng sẽ được cấp cho Bắc Mạc, liền bất chấp
nguyên tắc, lúc sắp đi muốn cướp phá sạch sẽ rồi mới tiến về phía nam.
Quả nhiên chẳng thể phân biệt được là binh lính hay giặc phỉ a!
Quân Bắc Mạc nhất thời đều ngạc
nhiên. Lặng im một lát, tiểu hoàng đế mới than nhẹ một tiếng: “Vệ Hưng
đã từng làm cận thần cho hoàng đế Nam Hạ, sao mới vào quân Giang Bắc
chưa đầy một năm lại biến thành phường lưu manh vô lại thế này, quân
Giang Bắc chẳng lẽ chính là một nhóm sơn tặc thổ phỉ hay sao?”
Chư tướng trong trướng phần nhiều đã
cùng giao chiến với quân Giang Bắc, đều biết rằng sự lợi hại của quân
Giang Bắc thì sơn tặc thổ phỉ còn lâu mới sánh bằng, riêng Thôi Diễn vốn nhanh mồm nhanh miệng, chỉ có điều những câu vọt ra miệng thường chưa
thông qua đầu óc, lập tức nói: “Cũng không phải vậy! Đường Thiệu Nghĩa
vốn cũng từng làm phỉ, trước kia từng mang theo một đám kỵ binh đánh
cướp quân ta ở Tây Hồ. Trong đó còn có kẻ gọi là Mạch Tuệ, lại…”
Thôi Diễn nói đến đây mới đột nhiên
tỉnh ngộ, trong giây lát liền ngậm miệng. A Mạch tuy có rất nhiều điểm
không tốt nhưng cũng là người mà Thường Ngọc Thanh thích, há có thể
trước mặt hoàng đế và bao nhiêu người khác mà mắng nàng sao.
Tiểu hoàng đế vốn đang nghe, thấy
Thôi Diễn đột nhiên không nói nữa, không khỏi có chút kỳ quái, hỏi:
“Mạch Tuệ có phải là kẻ đã mai phục Thường Ngọc Tông không? Lại thế nào, sao không nói tiếp?”
Khóe mắt Thôi Diễn cẩn thận liếc nhìn Thường Ngọc Thanh, ý nghĩ trong đầu đã xoay chuyển vài vòng, trên mặt
liền hiện ra vẻ xấu hổ, ngượng ngùng nói: “Thần là bại tướng dưới tay
hắn ta, không có mặt mũi nào để nói hắn.”
Tiểu hoàng đế cũng đang lúc vui vẻ,
nên chẳng những không có trách cứ Thôi Diễn, ngược lại còn an ủi anh ta: “Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, cũng không cần phải như vậy.”
Thấy tiểu hoàng đế như thế, Chu Chí
Nhẫn và Thường Ngọc Thanh bất giác đều nhẹ nhàng thở ra, thầm nghĩ tiểu
tử Thôi Diễn này đúng là một tên ngốc thành thực, vận khí cũng không
tồi, gặp đúng lúc tâm tình của tiểu hoàng đế đang rất tốt. Vệ Hưng dung
túng cho binh lính đánh cướp dân chúng Thái Hưng, chính là tự hủy căn cơ của mình, tiểu hoàng đế mừng rỡ chế giễu, cười nói: “Cứ để mặc cho Vệ
Hưng cướp bóc mấy ngày nữa rồi chúng ta dán thông báo an dân, thể hiện
rằng quân ta chính là đội quân nhân nghĩa yêu dân.”
Tuy nói như thế, song tiểu hoàng đế
vẫn hạ lệnh cho đại quân Bắc Mạc chuẩn bị có thể nhổ trại bất cứ lúc nào để “Cứu” dân chúng Thái Hưng khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Ai ngờ đại
quân Bắc Mạc còn chưa kịp nhổ trại, thì từ thành Thái Hưng lại truyền ra tin tức: Vệ Hưng bị thủ hạ là hữu phó tướng quân Mạch Tuệ giết, đoạt
lấy binh quyền, sau đó dán thông báo an dân, tiếp đó lại bố cáo trước
dân chúng tuyên ngôn chống giặc ngoại xâm, rồi đưa binh ra khỏi Thái
Hưng đi về hướng đông!
Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc
Mạc sắc mặt âm trầm ngồi sau ngự án, viên tiểu công công từ ngoài trướng đi vào, dâng một tờ giấy được cuộn tròn lên trước án. Tiểu hoàng đế
thản nhiên nhìn lướt qua, lạnh giọng phân phó: “Đọc đi.”
Trong trướng lập tức vang lên thanh âm the thé của tiểu công công:
“Mạch Tuệ, quê quán không rõ, sinh năm Đinh Hợi.
Năm Thiên Hạnh thứ bảy, theo thủ
thành Thanh Châu là tướng Thương Dịch Chi gia nhập quân đội, trước khi
tới Dự Châu là thân vệ của Thương Dịch Chi, sau gia nhập vào quân số bộ
binh doanh của quân Thanh Châu, trong chiến dịch Dã Lang Câu chém hai
mươi ba quân sĩ Bắc Mạc, được thăng làm Ngũ trưởng.
……
Năm Thiên Hạnh thứ tám, trong chiến
dịch Ô Lan, dùng ba trăm tàn quân dụ Thường Ngọc Thanh liều lĩnh vượt
ngàn dặm tiến vào núi Ô Lan, được thăng làm thiên tướng quan doanh.
Năm Thiên Hạnh thứ chín, trong chiến
dịch Thái Hưng, cho quân mai phục tại Bạch Cốt Hạp giết hại ba vạn kỵ
binh của Thường Ngọc Tông, sau tại bờ phía đông sông Tử Nha đánh tan
truy binh của Thôi Diễn…”
———————-
Chú thích:
1- Biện thủ: người phụ trách việc biện luận trong cuộc nghị hòa.