Tức Vinh Nương nói tiếp: “Ta biết
ngài bất mãn với lão hoàng đế vì đã chắp tay dâng tặng vùng Giang Bắc
của chúng ta cho lũ thát tử, cho nên mang binh làm phản ở Thái Hưng,
nghìn dặm đông tiến đến Thanh Châu, sau lại đánh tan mấy vạn kỵ binh
tinh nhuệ của Thường Ngọc Thanh, che chở cho bách tính Thái Hành, Thanh
Phong trại chúng ta tuy là cường đạo, nhưng đối với ngài cũng là thập
phần kính nể.”
A Mạch nhạt nhẽo cười không nói gì,
nhưng trong lòng lại nghĩ thì ra cô nương này miệng lưỡi cũng thật lanh
lợi, bất kể tiếp theo muốn nói gì, trước hết phải đem mông ngựa mà vỗ
một phen.
Tức Vinh Nương hơi ngưng thần, chuyển lời nói tiếp: “Ta đoán ngài hẳn biết rõ ẩn tình đằng sau việc Đường đại ca rời khỏi quân Giang Bắc.”
Đáy mắt A Mạch chợt lóe lên, trầm tĩnh nhìn Tức Vinh Nương, chờ nàng ta nói tiếp.
“Lúc Đường đại ca gia nhập Thanh
Phong trại, Chiêm Sơn Vương đang bao vây tiêu diệt sơn trại chúng ta,
cha ta bị trọng thương, các thúc bá trong trại mặc dù không nói gì,
nhưng trong lòng bọn họ đều nghĩ lần này nhất định là bị Chiêm Sơn Vương đánh bại. Cha ta thậm chí đã âm thầm an bài thân tín, muốn lén đưa ta
ra khỏi trại. Đúng lúc này thì Đường đại ca gia nhập Thanh Phong trại,
ban đầu mọi người cũng không tin huynh ấy, huynh ấy chịu không ít khổ
cực, rốt cuộc về sau mang theo một số huynh đệ đánh bại Chiêm Sơn Vương, trước trận đánh còn chém chết huynh đệ Chiêm Sơn Vương.”
A Mạch nói: “Ta đã nghe Đường tướng quân nói qua việc này.”
Tức Vinh Nương khẽ nhướn chân mày,
hỏi ngược lại: “Vậy Đường đại ca có nói qua với ngài chuyện huynh ấy đã
từng bị thương rất nặng chưa?”
A Mạch rùng mình, mi mắt buông xuống che khuất thần sắc trong mắt, chậm rãi lắc đầu nói: “Chưa từng.”
Tức Vinh Nương cười nhạt, tiếp tục
nói: “Tuy Đường đại ca võ nghệ cao cường, nhưng huynh ấy không phải là
người trong giang hồ chúng ta, bản lĩnh chém giết trên chiến trường khác với thủ đoạn trên giang hồ, trong trận chiến đó, Đường đại ca tuy đánh
bại Chiêm Sơn Vương, thế nhưng cũng bị thủ hạ của Chiêm Sơn Vương là một cao thủ dùng ám khí gây thương tích, ngay cả xương sườn cũng bị chặt
đứt làm hai đoạn.”
Việc này, Đường Thiệu Nghĩa đúng là
không chịu nói với nàng, huống chi nàng lại dựa vào thân tình giữa hai
người để dùng kế lừa anh ta đến Thái Hành… Trong lòng A Mạch nổi lên một tia chua xót cùng áy náy, khó trách lúc chia tay, Đường Thiệu Nghĩa lại chủ động nhắc lại câu nói kia “Chúng ta nhất định phải còn sống”.
“Đường đại ca hôn mê suốt bốn, năm
ngày liền, đều là ta một tay chăm sóc, lúc đó tất cả mọi người đều cho
rằng huynh ấy sẽ không thể chịu đựng nổi nữa, huynh ấy luôn sốt cao
không hạ, nhưng trong cơn mê sảng huynh ấy luôn nhắc đi nhắc lại một
câu.”
Tức Vinh Nương nói đến đây thì ngừng lại, giương mắt nhìn A Mạch một chút, lưỡng lự không biết có nên tiếp
tục nói nữa hay không. Một lời đã nói ra thì sẽ không thể thu hồi lại,
không biết sẽ mang lại hậu họa gì, mà nếu không nói, vậy chỉ có thể chôn ở trong lòng nỗi băn khoăn về Đường Thiệu Nghĩa, không bằng thẳng thắn
hỏi anh ta cho ra nhẽ, cũng là để biết rõ ngọn ngành.
Tức Vinh Nương hạ quyết tâm, nhìn
thẳng A Mạch nói: “Huynh ấy luôn mơ hồ gọi hai chữ, ban đầu, mọi người
đều không nghe rõ huynh ấy gọi gì, sau đó có một đêm ta một mình trông
coi huynh ấy, ta gọi huynh ấy một tiếng ‘Đường đại ca’, huynh ấy rốt
cuộc rõ ràng trả lời ta một câu ‘A Mạch’!”
Tức Vinh Nương bắt chước ngữ điệu
Đường Thiệu Nghĩa lúc đó, giọng nàng ta trong trẻo, hoàn toàn không
giống như thanh âm trầm thấp của Đường Thiệu Nghĩa, nhưng chỉ một tiếng
như vậy lại khiến A Mạch hết hồn, kín đáo xiết chặt quân phục mới có thể tiếp tục làm như không có chuyện gì ngồi yên ở đó, giương mặt nhìn Tức
Vinh Nương.
A Mạch lạnh nhạt cười, nói: “A Mạch
là nhũ danh của tại hạ, tại hạ cùng Đường tướng quân từ lúc rời khỏi
thành Hán Bảo đều cùng sống trong quân ngũ, đồng sinh cộng tử, tình như
huynh đệ.”
Thấy A Mạch sơ sài nói qua như vậy,
trong lòng Tức Vinh Nương liền thở phào nhẹ nhõm, nhưng không biết vì
sao lại có chút thất vọng, cảm thấy không đáng thay cho Đường Thiệu
Nghĩa. Tức Vinh Nương thờ ơ nói rằng: “Về sau ta hỏi Đường đại ca, huynh ấy cũng trả lời giống như nguyên soái vậy.”
A Mạch bình thản nhìn Tức Vinh Nương.
Tức Vinh Nương lại nói: “Sau đó cha
ta qua đời, đem Thanh Phong trại giao cho Đường đại ca, đồng thời cũng
đem ta phó thác cho Đường đại ca, ta biết ý cha muốn Đường đại ca cưới
ta, Đường đại ca anh hùng cái thế, ta đã sớm ái mộ huynh ấy, trong lòng
đương nhiên cũng rất vui mừng.”
A Mạch trầm mặc một lát, sau lại nhẹ giọng nói: “Tức đại đương gia tài mạo song toàn, cùng với Đường tướng quân rất xứng đôi.”
Tức Vinh Nương nghe xong lại trào phúng cười, nhướn mày hỏi A Mạch: “Ngài quả thật không biết tâm ý của Đường đại ca sao?”
A Mạch né tránh ánh mắt Tức Vinh
Nương, nhàn nhạt đáp: “Đường tướng quân một lòng vì nước, chỉ mong sớm
ngày loại trừ thát tử, khôi phục Giang Bắc.”
Tức Vinh Nương cười nhạo một tiếng,
nói: “Nguyên soái, lúc này ta mới nhận ra rằng ngài rõ ràng là giả bộ hồ đồ. Nếu quả thật ngài không hiểu ý tứ của ta, ắt hẳn sẽ không trả lời
như vậy.”
A Mạch đưa mắt nhìn Tức Vinh Nương im lặng không nói.
Tức Vinh Nương còn nói thêm: “Ta là
nữ tử sống trong núi, da mặt quả thật rất dày, hôm nay ta cũng không sợ
ngài chê cười, muốn cùng ngài nói rõ, tuy rằng Đường đại ca tiếp quản
Thanh Phong trại nhưng cũng không đồng ý lấy ta, ta đã nói chỉ cần ta
vẫn còn làm cái chức Đại đương gia này, ta sẽ không buông tha cho huynh
ấy, huynh ấy lại nói nếu một ngày ta không muốn chứa chấp huynh ấy,
huynh ấy sẽ rời đi, tuyệt không mang theo bất kỳ thứ gì ra khỏi trại, dù chỉ là một người, một ngựa. Lúc đó, ta bắt đầu nghĩ vì Đường đại ca
trong nhà hẳn đã có thê thất hoặc là có người trong lòng, nhưng hỏi
huynh ấy lại nói không có. Ta lại nghĩ đến mấy tiếng huynh ấy gọi trong
lúc mê sảng liền hỏi ‘A Mạch là ai’, huynh ấy rất kinh ngạc, không biết
ta từ đâu mà biết được cái tên này, lúc đầu không chịu nói ra, cuối cùng không chịu được ta quấn lấy không thôi nên nói cho ta biết đó là một
người huynh đệ kết nghĩa của huynh ấy.”
A Mạch thản nhiên hỏi: “Tức đại đương gia định nói gì?”
Tức Vinh Nương cắn cắn môi, đón nhận ánh mắt của A Mạch, thẳng thắn đáp: “Điều ta muốn nói chính là Đường đại ca thích ngài.”
A Mạch ngẩn người, lập tức đứng lên
cất tiếng cười lớn, phải một lúc lâu mới dừng lại được, nhìn Tức Vinh
Nương cười hỏi: “Tức đại tiểu thư, ngươi cũng biết ngươi đang nói gì
chứ?”
Tức Vinh Nương bị A Mạch vừa rồi cười lớn nên có chút xấu hổ, khẽ vênh cằm, đáp: “Ta nói trong lòng Đường đại ca thích ngài, ngài đừng cảm thấy buồn cười, cũng đừng coi thường Đường đại ca, trên đời này cũng có nam tử chỉ thích nam tử, trong sơn trại
chúng ta cũng có. Hơn nữa đừng nói, đừng nói ngài…”
“Đừng nói ta cái gì?” Ánh mắt A Mạch đột nhiên sắc bén, tựa như lưỡi gươm nhìn thẳng vào mắt Tức Vinh Nương.
Tức Vinh Nương bị ánh mắt của A Mạch
làm cho giật mình, nhưng trước mặt A Mạch lại không chịu tỏ ra yếu thế,
vẫn vênh cằm mạnh miệng nói: “Càng đừng nói ngài khi trưởng thành lại có dáng vẻ này, so với tướng mạo của nữ tử còn đẹp hơn vài phần, nếu không phải trên mặt ngài có râu, cổ họng rõ ràng có yết hầu, thì ngay cả ta
cũng sẽ nghĩ ngài là một nữ tử!”
A Mạch lạnh lùng nhìn Tức Vinh Nương, lạnh giọng nói: “Tức đại tiểu thư, ngươi cũng biết ngươi đang nói gì
chứ? Nếu không phải nể mặt Đường tướng quân, hôm nay Mạch mỗ nhất định
sẽ không cho ngươi ra khỏi phủ nguyên soái này!”
Trong giọng nói của A Mạch lộ ra sát
khí lạnh lẽo, khiến cho Tức Vinh Nương nhất thời nói không nên lời, lúc
này nàng mới nhớ ra nam tử tao nhã trước mặt mình chính là nguyên soái
quân Giang Bắc danh chấn tứ quốc, một trận tiêu diệt mấy vạn kỵ binh
thát tử.
Tức Vinh Nương sững sờ im lặng, A
Mạch hừ lạnh một tiếng, nói: “Xem ra việc ngươi tới Ký Châu, Đường Thiệu Nghĩa không hề hay biết, nếu không anh ta tuyệt đối sẽ không để cho
ngươi nói những chuyện xằng bậy như vậy! Nể mặt anh ta, hôm nay ta không muốn so đo với ngươi, tốt nhất là ngươi mau trở lại Thanh Phong trại
đi!”
Nói xong liền đứng dậy, phất tay áo
muốn gọi người tiễn khách. Tức Vinh Nương nghe vậy đột nhiên bừng tỉnh,
tiến lên kéo lấy ống tay áo A Mạch, vội la lên: “Nguyên soái! Nếu ngài
coi Đường đại ca là huynh đệ, chẳng lẽ ngài nhẫn tâm nhìn huynh ấy vì
ngài mà cô độc suốt đời sao?”
Tay nàng ta sử dụng thủ pháp cầm nã
thủ(1), A Mạch vài lần dùng sức cũng không giãy ra được, lại không dám
để nàng ta lại gần, cuối cùng chỉ có thể bất đắc dĩ xoay người lại nhìn
nàng, hỏi: “Ngươi rốt cục muốn thế nào?”
Trên mặt Tức Vinh Nương lộ ra vẻ đắc ý của tiểu nữ nhi, trong miệng lại năn nỉ nói: “Nguyên soái, ngay từ
đầu ngài đã đáp ứng với ta, ngài là đại trượng phu đầu đội trời chân đạp đất, sẽ không tức giận với lời nói của ta.”
A Mạch tánh khỏi cái nắm tay của Tức
Vinh Nương, trở lại ghế của mình, một lần nữa ngồi xuống, nhắm mắt một
lát rồi mở ra, hỏi: “Ngươi nói đi, ngươi muốn thế nào?”
Tức Vinh Nương đáp: “Ngài đã có thê
thất, lại không thích Đường đại ca, không bằng trực tiếp nói rõ cho
Đường đại ca biết, cũng khiến cho huynh ấy chết tâm tư.”
A Mạch cảm thấy vô lực, lấy tay day
day huyệt Thái Dương, nói: “Anh ta chưa hề nói gì với ta, ngươi đã bảo
ta tự nhiên đi tới trước mặt anh ta, nói rằng ta đã có thê thất, cũng
không thích anh ta, để anh ta mất đi phần tâm tư này, cần đón dâu thì
đón dâu, nên sinh con thì sinh con à? Ngươi nghĩ cách này có thể làm
được sao?”
Thực ra Tức Vinh Nương nghe xong cũng tự mình hiểu được biện pháp này có phần không thể, liền hỏi lại A Mạch: “Vậy ngài nói nên làm thế nào bây giờ?”
A Mạch yên lặng nhìn Tức Vinh Nương,
cũng không biết nên nói gì. Hai người chỉ yên lặng nhìn nhau, chợt nghe
bên ngoài truyền đến một tiếng nổ chấn động đến nỗi song cửa sổ cũng rào rào rơi xuống đất, ngay cả căn phòng cũng theo đó mà rung lên. Hai
người cả kinh, đều đứng bật dậy chạy ra cửa, mới ra đến cửa phòng, Lâm
Mẫn Thận và Trương Sĩ Cường một trước, một sau cũng từ trong viện chạy
tới.
A Mạch hỏi: “Chuyện gì vậy? Tiếng nổ ở đâu vậy?”
Trương Sĩ Cường đáp: “Hình như là phía tây phủ truyền tới.”
Quả nhiên, chỉ chốc lát sau liền có
thân binh trở về bẩm báo, tiếng nổ là từ một gian phòng phía tây phủ
nguyên soái vọng lại, bên đó vốn là nhà kho quân nhu, tích trữ khí giới
các loại, không biết tại sao lại phát nổ, nhưng không có người nào bị
thương vong.
A Mạch nghe vậy thì nhíu mày, bây giờ là mùa thu, trời hanh khô, cũng may mà không xảy ra hỏa hoạn, nếu không thì chẳng biết sẽ hỗn loạn đến thế nào. A Mạch nghiêm mặt lạnh lùng
phân phó thân binh đi tìm Lý Thiếu Hướng đến hỏi.
Một lúc sau, Lý Thiếu Hướng mang theo khuôn mặt u ám đi tới, phía sau còn dẫn theo một người, chỉ thấy người
nọ trên người chẳng những quần áo cháy xém rách tả tơi, bám đầy bụi bặm, mà ngay cả khuôn mặt cũng một mảnh đen thui như mực, tóc và lông mày
đều bị cháy sém. Người nọ đi đến trước mặt A Mạch quỳ xuống hành lễ,
phía sau, Lý Thiếu Hướng một cước đạp hắn ngã nhào trên mặt đất, mắng:
“Nguyên soái, chính là tiểu tử này gây họa, thiếu chút nữa đã khiến cho
gian phòng kia của ta nổ tung rồi!”
——————————-
Chú thích:
1- Cầm nã thủ: Bạn nào là fan của tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung hẳn sẽ không cảm thấy xa lạ với thuật ngữ này.
Trong tiếng Hoa, Cầm có nghĩa là bắt, chộp theo kiểu một con đại bàng bắt mồi hay một viên cảnh sát bắt một
tội phạm. Nã có nghĩa giữ gìn kiểm soát. Thủ có nghĩa là tay. Như vậy,
Cầm Nã Thủ là nghệ thuật bắt giữ, chộp và kiểm soát. Bên cạnh những kỹ
thuật khóa đúng theo tên gọi còn có những kỹ thuật ấn, áp, điểm …