A Mạch biết tính nết Từ Tĩnh, thấy
ông ta nói vậy biết có hỏi tiếp cũng không hỏi được gì, nên cũng không
hỏi lại, chỉ lẳng lặng gia tăng cường độ huấn luyện trong doanh.
Binh lính trong doanh mỗi ngày đều
phải luyện tập mệt đến chết, muốn oán giận nhưng cũng không cách nào oán giận nổi, bởi Mạch tướng quân vẫn là tấm gương tốt, cùng luyện tập
chung với mọi người, bản thân nếu chỉ là một tiểu binh thì có thể nói
gì? Có ai đã từng thấy vị tướng quân nào cùng tham gia thao luyện cùng
binh lính chưa? Chưa chứ gì? Vậy là được rồi, luyện tiếp đi! Lại nói có
một tên lính trong đội thứ tư, ngũ thứ tám đem kinh nghiệm mà mỗ ta từng học suốt nửa năm giảng lại cho binh lính, nào là tướng quân chúng ta
huấn luyện mọi người không khác gì huấn luyện chó, khi ra trận chiến đấu sẽ không khác gì chó hoang, mỗi lần chạy đều không khác gì tế cẩu, đến
tối khi buổi huấn luyện kết thúc quay trở lại trướng liền chẳng khác gì
chó chết.
Lúc ấy, đội trưởng đội bốn Vương Thất đang ở cách đó không xa, nghe xong liền cho tên lính kia một cước,
mắng: “Ăn nói mất dạy, những lời này mà ngươi cũng dám nói, cũng may
tướng quân chúng ta là người tốt tính, nếu là người khác, thì cái mông
của ngươi đã nhừ đòn rồi!”
Tên lính kia ôm mông vội thành thành
thật thật đi luyện tập tiếp, Vương Thất quay lại giải thích với người
đồng đội kia: “Ngươi không phải ở trong đội bốn của chúng ta nên không
biết, nhớ ngày đó đại nhân chúng ta vẫn là đội trưởng đội bốn, ngài nói
với chúng ta rằng khi tham gia vào quân ngũ thì thứ quan trọng nhất
chính là hai cái đùi. Thắng, chúng ta có thể truy đuổi thát tử, đuổi kịp mới có thể giết địch; Bại, thát tử đuổi chúng ta chạy, chúng ta chỉ có
chạy nhanh thì mới có thể bảo toàn được tính mạng.”
Người đồng đội kia nghe xong lập tức gật đầu nói phải.
Vẻ mặt Vương Thất lại trở nên nghi
hoặc mà lẩm bẩm: “Mụ nội nó, ngươi nói xem hắn ta làm sao biết được đại
nhân chúng ta chạy giống tế cẩu vậy?”
Lần này, người đồng đội không dám gật đầu nữa.
A Mạch bán mạng như vậy, quả thật
khiến cho quan quân trong doanh không thích ứng nổi, tuy biết đại nhân
nhà mình nhờ liều mạng mà thành danh, nhưng dù sao cũng là chủ tướng của một doanh, nói gì thì cũng phải chú trọng tới hình tượng của mình chứ,
đâu đáng để cả ngày đi theo đám tân binh múa đao lộng thương rồi lại ra
ngoài chạy việt dã như thế?
Nhìn A Mạch trên giáo trường múa đại
đao vù vù, Vương Thất không thể không tiếc hận thở dài: “Ai, thật đáng
tiếc đại nhân chúng ta lại phụ lại thân thể nho nhã của mình.”
Lý Thiếu Hướng lại không để những lời đó của Vương Thất trong lọt vào tai, chỉ nhìn Hắc Diện đang cởi trần
trùng trục cùng đám lính thao luyện phía xa xa, tự nhủ: “Nếu như tất cả
đều không sợ lạnh giống như anh ta thì tốt biết mấy, ta đỡ phải tốn bao
nhiêu là vải bông a.”
Từ Tĩnh đang chắp tay đứng phía sau
hai người, nghe bọn họ nói chuyện theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia
như thế, hừ lạnh một tiếng nói: “Hai tên tiểu tử này, không thao luyện
cho tốt, lại nhàn rỗi đứng ở chỗ này mà tốn hơi thừa lời!”
Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng vội vàng quay đầu lại, thấy là Từ Tĩnh, đều toét miệng cười nói: “Từ tiên sinh.”
Từ Tĩnh ngạo mạn khẽ gật đầu, vẫn nhìn A Mạch trên giáo trường ở đằng xa, nói: “Yến tước an tri hồng hộc chi chí!”(1)
Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng nhìn
nhau, Lý Thiếu Hướng láu cá, hạ thấp người hướng Từ Tĩnh cười cười, có
chút ngượng ngùng nói: “Trong trướng của ta vẫn còn vài thứ chưa tính
toán xong, ta phải đi kiểm tra lại một chút, Từ tiên sinh, ta đi trước!”
Vương Thất há hốc miệng nhìn bóng
dáng Lý Thiếu Hướng vội vã rời đi, nhất thời nói không ra lời, qua một
lúc lâu đột nhiên nhảy dựng lên, kêu lớn: “Ai nha! Đại nhân giao nhiệm
vụ cho ta phải thay đổi tiếng lóng cho đội thám báo, thế mà ta lại quên
mất, Từ tiên sinh, ta đi trước đây!”
Vương Thất nói xong, cũng vội vàng lỉnh mất.
Khi A Mạch cùng Trương Sỹ Cường trở
về, bên giáo trường cũng chỉ còn lại một mình Từ Tĩnh vẫn chắp tay đứng
nhìn như trước. A Mạch luyện tập xong, đầu đầy mồ hôi, dùng khăn lau qua trên mặt, rồi tiện tay ném ra phía sau cho Trương Sỹ Cường, tiến lên
hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh đến tìm ta?”
Từ Tĩnh khẽ vuốt râu, xoay người cùng A Mạch quay về hướng doanh trướng, nói: “Đại doanh vừa tới đưa tin, Vệ
Hưng lệnh cho chủ tướng các doanh ngày hai mươi hai tháng chạp tề tụ tại đại doanh để nghị sự.”
“Đi đại doanh sao?” A Mạch dừng chân
một chút, kinh ngạc nói: “Mọi người không phải mới từ đại doanh trở về
sao? Sao đã lại cho gọi vậy? Chúng ta ở gần thì không nói làm gì, nhưng
có những doanh cách đại doanh đến vài trăm dặm, đang giữa mùa đông lạnh
như thế này lại ép nhau đi lại như vậy! Vệ Hưng rốt cuộc muốn làm gì?”
Từ Tĩnh thản nhiên nói: “Mặc kệ Vệ Hưng muốn làm gì, ngươi cứ đi là được.”
A Mạch cười tự giễu: “Đương nhiên, ta chỉ là chủ tướng nho nhỏ của một doanh, nào dám không đi.”
Từ Tĩnh nhướn mắt nhìn A Mạch một
cái, do dự một chút rồi dặn dò: “Lần này ngươi đi đại doanh, ngàn vạn
lần không được lén đi tìm Đường Thiệu Nghĩa.”
A Mạch cười nói: “Tiên sinh quá lo, chớ nói lần này ta không được tìm anh ta, mà từ lần trước ta đã không lén đi tìm rồi.”
Vệ Hưng vốn kiêng kị Đường Thiệu
Nghĩa, A Mạch sao lại không biết điều này, hơn nữa, thấy Trương Sinh đến tìm nàng uống rượu mà Đường Thiệu Nghĩa lại chưa từng đến, thì có lẽ
trong lòng anh ta cũng đã hiểu rất rõ rồi.
Từ Tĩnh vuốt râu không nói, sau một
lúc lâu đột nhiên nói: “A Mạch, ngươi khá lắm,” Ông ta ngừng một chút,
lại nhắc lại: “Khá lắm.”
A Mạch khẽ giật mình, lập tức cười nói: “Đa tạ tiên sinh khích lệ.”
Từ Tĩnh thản nhiên cười cười, không nói tiếp nữa.
Ngày hai mươi mốt tháng chạp, A Mạch
mang theo Trương Sỹ Cường xuất phát đi đại doanh. Một ngày trước, tuyết
rơi rất nhiều, trận tuyết lớn như phủ lên dãy núi Ô Lan một chiếc áo pha lê trong suốt, vô cùng tráng lệ. Đường núi bị trận tuyết lớn phủ kín,
may mà A Mạch cùng Trương Sỹ Cường đều cưỡi ngựa, mặc dù không thể phi
nhanh, nhưng dù sao vẫn còn hơn là đi bộ.
Trương Sỹ Cường cưỡi ngựa đi bên cạnh A Mạch, nhìn con đường bị tuyết lấp kín, không hiểu vì sao lại nghĩ tới chuyện cũ ở thành Dự Châu, cũng là ngày này năm trước, cũng một trận
tuyết lớn như vậy, hai người trên đường đi Dự Châu, sinh tử khó liệu.
“Đại nhân, ngài nói ở thành Dự Châu tuyết cũng lớn như vậy sao?” Trương Sỹ Cường đột nhiên hỏi
A Mạch nghe vậy ngẩng đầu, khuôn mặt
trầm tĩnh nhìn về phía xa xa, nơi những ngọn núi chồng chất, hồi lâu
không nói gì. Trong lòng Trương Sỹ Cường âm thầm hối hận, tự trách mình
nói chuyện lung tung, đang yên đang lành tự nhiên nhắc đến thành Dự Châu làm gì, nhưng A Mạch đã quay đầu lại nhìn anh ta khẽ cười nói: “Tuyết
trong núi xem ra lớn hơn ở thành Dự Châu một chút.”
Dự Châu, cũng vừa sau một trận tuyết lớn.
Trong thành, ngã tư đường là một màu
trắng thuần khiết. Trong phủ Thôi Diễn, lớp tuyết đọng đã sớm được quét
tước sạch sẽ, một thị nữ mặc áo xanh ôm một chiếc áo choàng lông chồn từ xa đi đến, gấu váy hất tung trên nền đá không lưu lại chút dấu vết. Thị nữ áo xanh đi thẳng ra ngoài vườn, chỉ khẽ gật đầu với thị vệ rồi lập
tức đi thẳng vào trong vườn, khi đến trước cửa một gian phòng mới dừng
lại một chút, đổi chiếc áo choàng sang tay khác, rồi vén rèm cửa lên.
Trong phòng, Thôi Diễn cùng Thường
Ngọc Thanh đang diễn tập đối chiến trên một sa bàn nhỏ. Thôi Diễn nghe
thấy tiếng động, liền ngẩng đầu lên, thấy thị nữ áo xanh kia ôm áo
khoác từ bên ngoài tiến vào, liền trầm giọng phân phó: “Cứ để sang bên
cạnh, khi nào Thường đại ca rời đi thì sẽ mặc.”
Giọng của Thôi Diễn rất khàn, một đao của A Mạch mặc dù không thể kết liễu tính mạng của anh ta, nhưng lại đả thương đến cổ họng. Về sau, mặc dù vết thương đã lành, nhưng vốn là một giáo úy thiếu niên vô cùng hăng hái, giờ trên cổ lúc nào cũng buộc một
cái cái khăn màu đen, nói cũng ít đi rất nhiều.
Thị nữ khẽ đáp “Vâng”, rồi cúi đầu đứng sang một bên.
Sắc mặt Thường Ngọc Thanh sau khi bị
thương vẫn còn tái nhợt, tầm mắt từ trên sa bàn khẽ nâng lên, nhìn lướt
qua áo khoác trên tay thị nữ, không chút để ý hỏi: “Đang yên đang lành
mang áo khoác cho ta làm gì?”
Thôi Diễn ngắn gọn đáp: “Trời lạnh.”
Thường Ngọc Thanh không khỏi bật cười, lại khiến phổi khẽ đau, nhịn không được bật ra vài tiếng ho.
Thôi Diễn thấy thế vội vàng kêu lên: “Từ Tú Nhi, nhanh lên…”
Không kịp đợi anh ta nói hết lời, thị nữ áo xanh kia đã bưng chén trà nóng đến, đưa cho Thường Ngọc Thanh,
nhẹ giọng nói: “Tướng quân mau uống ngụm trà nóng đi.”
Thường Ngọc Thanh lại không tiếp trà, chỉ khoát tay cho Từ Tú Nhi lui ra, trấn áp cơn ho khan quay lại nhìn
Thôi Diễn cười nói: “Chẳng lẽ cứ trời lạnh là lại bọc hết áo này áo nọ
cho ta mỗi khi ra ngoài, chẳng hóa ra lại khiến cho người khác chê
cười.”
Thôi Diễn oán hận nói: “Nếu ta gặp được Vệ Hưng, chắc chắn sẽ không cho anh ta được chết tử tế!”
Thường Ngọc Thanh nghe vậy cười, nói: “Nếu ngươi gặp được Vệ Hưng, nhất định phải cẩn thận, người này một
thân nội gia công phu không thể khinh thường.”
“Thế thì sao?” Thôi Diễn không phục nói,“Có địch nổi hàng ngàn, hàng vạn thiết kỵ của chúng ta không?”
Thường Ngọc Thanh khóe miệng hơi nhíu lại, cúi đầu nhìn sa bàn không nói gì.
Thôi Diễn lại nói: “Đại ca, năm sau chúng ta sẽ đi Thái Hưng. Nguyên soái đã an bài…”
Thường Ngọc Thanh đột nhiên đưa mắt
nhìn Thôi Diễn, khiến nửa sau câu nói của Thôi Diễn mắc lại trong cổ
họng. Thôi Diễn quay đầu nhìn về phía Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi không đợi anh ta phân phó, liền khẽ cúi đầu, khụy gối thi lễ với Thôi Diễn cùng
Thường Ngọc Thanh rồi khẽ khàng lui ra ngoài.
Đợi nàng đi khuất, Thường Ngọc Thanh mới nhẹ giọng hỏi: “Nàng đó là thị nữ do Thạch Đạt Xuân đưa tới cho ngươi?”
Thôi Diễn gật đầu nói: “Đúng vậy, lúc ấy ta bị thương nặng không thể cử động, nguyên soái sợ thân binh tay
chân thô kệch không làm được việc liền sai Thạch Đạt Xuân tìm một thị
nữ cho ta, Thạch Đạt Xuân liền đem tặng nàng đến đây, người cũng thông
minh linh hoạt, biết tâm tư người khác.”
Thường Ngọc Thanh thản nhiên nói: “Biết tâm tư người khác cũng là người Nam Hạ, không thể không đề phòng.”
Thôi Diễn gật gật đầu, nói: “Ta nhớ
kỹ.” Anh ta ngừng lại một chút, lại nhịn không được hỏi: “Đại ca, Vệ
Hưng có giống như lời nguyên soái nói là sẽ tấn công Thái Hưng sao?”
Thường Ngọc Thanh khẽ cười cười, nói: “Nếu như là Thương Dịch Chi trước đây, sợ là sẽ không, nhưng đổi lại là đại tướng quân Vệ Hưng mới được sắc phong bây giờ, thì có đến tám chín
phần mười là có. Lương thảo ở Bào Mã Xuyên bị thiêu cháy, anh ta coi
thường Chu lão tướng quân không có lương thực, lại muốn tăng thể diện
trước mặt người khác mà yên ổn tồn tại trong quân Giang Bắc, nên e rằng
muốn làm anh hùng cứu viện Thái Hưng.”
Thôi Diễn lo nghĩ, ngữ khí kiên định
nói: “Lúc này đây, nhất định phải khiến cho quân Giang Bắc có đi mà
không có về, một kẻ cũng không thể lưu lại!”
Nghe anh ta nói như vậy, trong đầu
Thường Ngọc Thanh lại đột nhiên thoảng hiện lên một bóng dáng cao cao,
gầy yếu, đuôi lông mày nhịn không được khẽ nhướn lên, cười nhạo nói:
“Chưa hẳn!”
Thôi Diễn sửng sốt, có chút khó hiểu
nhìn về phía Thường Ngọc Thanh, Thường Ngọc Thanh cũng không nói toạc
ra, chỉ khẽ nhếch khóe miệng cười cười, nói: “Chỉ cần nhớ rằng nếu gặp
lại Mạch Tuệ chớ để xảy ra chuyện là được!”
Thôi Diễn yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, đột nhiên hỏi: “Nếu ta giết nàng, đại ca có trách ta không?”
Thường Ngọc Thanh ngẩn ra, lại nhìn
vẻ mặt thành thật của Thôi Diễn, bật cười nói: “Ngươi không giết nàng,
chẳng lẽ muốn bắt giam nàng?”
Thôi Diễn nghe Thường Ngọc Thanh nói
như thế liền nhẹ lòng, không khỏi cũng bật cười nói: “Ta còn sợ đại ca
có ý với nàng, chẳng may nếu trên sa trường gặp nàng, thì giết hay không giết đây!”
Thường Ngọc Thanh chậm rãi thu lại ý
cười, nghiêm mặt nói: “A Diễn, ngươi phải nhớ cho kỹ, ta là quân nhân,
trên sa trường chỉ có hai quốc gia đối địch, chứ không có tư tình!”
Thôi Diễn nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, nặng nề mà gật đầu.
Những điều Thường Ngọc Thanh đoán quả nhiên đúng, Vệ Hưng năm trước triệu tập chủ tướng các doanh quân Giang
Bắc tề tụ tại đại doanh là để thương thảo kế hoạch giải cứu thành Thái
Hưng trong năm sau. Nhậm chức đại tướng quân Giang Bắc sau khi Đường
Thiệu Nghĩa tập kích bất ngờ vào đại doanh tích trữ lương thảo của quân
Bắc Mạc, Vệ Hưng quả thật rất cần một chiến công hiển hách để chứng minh chính mình.
Nam Hạ, tháng hai, năm thứ tư theo
lịch Thịnh Nguyên, Vệ Hưng không để ý đến phản đối của đám người Đường
Thiệu Nghĩa, hạ quân lệnh đại tướng quân, lệnh cho quân Giang Bắc phân
bố ở núi Ô Lan lặng lẽ quy tụ tại phía đông nam của núi Ô Lan.
Tháng ba, các bộ binh doanh của quân
Giang Bắc, cung nỏ doanh cùng kỵ binh doanh của Đường Thiệu Nghĩa, tổng
cộng hơn tám vạn người tụ tập lại, vượt qua Liễu Khê, Hán Bảo thẳng tiến cứu viện thành Thái Hưng.
Thành Thái Hưng, bị Bắc Mạc vây khốn gần hai năm, rốt cục đã nghênh đón một đội quan chi viện lớn nhất.
Quân coi giữ thành Thái Hưng là hơn
ba vạn người, cùng hơn tám vạn quân Giang Bắc, tổng cộng lên đến mười
một vạn quân, trong ngoài giáp công đại quân Bắc Mạc có thể sẽ đem lại
một hiệu quả rất lớn. Mà tám vạn đại quân Bắc Mạc của Chu Chí Nhẫn,
lương thảo đã bị Đường Thiệu Nghĩa thiêu sạch, gần nửa năm nay đều trong tình trạng thiếu lương, chỉ trông cậy vào sự điều phối lương thảo của
các thành trì khác mà Bắc Mạc chiếm đóng để miễn cưỡng duy trì, chỉ cần
cắt đứt lương thảo của ông ta, như vậy, đại quân Bắc Mạc không cần tấn
công cũng tự loạn.
Có vẻ như hết thảy mọi việc thoạt
nhìn đều giống như Vệ Hưng đang làm một cuộc mua bán hàng giả mà không
phải lo lắng chuyện bồi hoàn, không biết rằng, phía trước đang có một
tấm lưới rất lớn đang giăng sẵn chờ quân Giang Bắc nhảy vào, mà Trần
Khởi, người giăng võng thật sự đã chờ từ lâu lắm rồi.
———————–
Chú thích:
1- Yên tước an tri, hồng hộc chi
khí: Yến: chim én. Tước: chim sẻ. An: làm sao? Tri: biết. Hồng hộc: chim hồng và chim hộc, hai loại chim rất khỏe, bay cao và xa. Chí: chí khí.
Câu trên có nghĩa là: Chim én và chim sẻ làm sao biết được cái chí khí của chim hồng và chim hộc.
Ý nói: Kẻ tiểu nhân làm sao biết được chí khí của người quân tử anh hùng.