“Ái chà, khi cô già và liệt giường liệt chiếu như tôi, cô sẽ biết cảm thông hơn,’ bà Gibson rên rỉ.
“Xin đừng nghĩ rằng cháu không thông cảm với bà, bà Gibson ạ,” Anne trả lời, sau nửa giờ cố gắng mà chẳng có kết quả gì, giờ cô chỉ muốn vặn cổ bà Gibson thôi. Chỉ nhờ ánh mắt van vỉ của Pauline ở bên mà cô mới không buông tay thất vọng mà quay về nhà. “Cháu đảm bảo với bà, bà sẽ không cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi đâu. Cháu sẽ ở lại đây cả ngày và đảm bảo bà không thiếu thứ gì.”
“Ôi, tôi biết tôi là đồ vô dụng mà,” bà Gibson kêu lên, chẳng ăn nhập gì với câu chuyện dang dở. “Cô không cần phải xát muối vào vết thương đâu, cô Shirley ạ. Tôi đã sẵn sàng ra đi vào bất cứ lúc nào… bất cứ lúc nào. Khi đó thì Pauline muốn đi rong ở đâu tùy thích. Tôi chẳng còn có mặt ở đây để mà cảm thấy tủi thân đâu. Bọn trẻ ngày nay chẳng đứa nào có óc cả. Phù phiếm… hết sức phù phiếm.”
Anne không biết bà ta đang ám chỉ Pauline hay chính cô thuộc dạng trẻ tuổi phù phiếm không não, nhưng cô thử tung ra chiêu cuối cùng.
“Ôi, bà biết đấy, bà Gibson à, người ta sẽ bàn tán dữ lắm nếu Pauline không tham dự đám cưới bạc của chị họ.”
“Bàn tán!” bà Gibson kêu lên the thé. “Họ bàn tán về cái gì cơ chứ?”
“Bà Gibson thương mến...” (“Xin Chúa tha tội vì mình đã nói dối!” Anne nghĩ bụng) “cháu biết trong cuộc đời từng trải của mình, bà hiểu rất rõ cái lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo mà.”
“Cô đừng lôi tuổi tác của tôi ra mà nói như thế,” bà Gibson giãy nảy. “Và chẳng cần bảo với tôi rằng cái thế giới này khắc nghiệt thế nào. Biết quá rồi... tôi biết quá rồi. Cũng tương tự như cô chẳng cần bảo tôi rằng cái thị trấn này đầy nhóc lũ ếch nhái ễnh ương nhiều chuyện vậy. Nhưng tôi hẳn là không ưa bọn họ liến thoắng luyên thuyên về tôi... tôi nghĩ bọn họ sẽ láo lếu bảo rằng tôi là một tay bạo chúa chứ gì. Tôi có cấm Pauline đi đâu. Chẳng phải tôi đã để tự lương tâm của nó quyết định sao?”
“Chẳng mấy người tin vào điều đó đâu,” Anne thận trọng đáp một cách buồn bã.
Bà Gibson mút chùn chụt viên kẹo bạc hà một hai phút liền. Sau đó, bà ta lên tiếng:
“Tôi nghe nói White Sands đang có bệnh quai bị lây lan.”
“Mẹ yêu quý ơi, mẹ biết là con đã bị quai bị rồi mà.”
“Cũng có người bị lại lần hai đấy. Chị hẳn là thuộc nhóm người ấy, Pauline. Chị lúc nào cũng dễ lây nhiễm cả. Những đêm tôi thức trắng bên chị, không dám hy vọng là chị thấy được ánh bình minh! Ôi, tội nghiệp thân tôi, chẳng đứa con nào nhớ đến những hy sinh của người mẹ cả. Hơn nữa, chị định đi White Sands bằng cách nào? Bao nhiêu năm nay chị đâu có đi xe lửa. Và tối thứ Bảy còn không có chuyến nào quay trở lại đây nữa.”
“Chị ấy có thể đi chuyến tàu sáng thứ Bảy,” Anne đề nghị. “Và cháu chắc rằng ông James Gregor sẽ sẵn lòng đưa chị ấy về.”
“Tôi chẳng bao giờ ưa nổi Jim Gregor. Mẹ hắn họ Tarbush.”
“Ông ấy đánh chiếc xe ngựa hai chỗ ngồi xuống đó vào thứ Sáu, nếu không thì ông ấy cũng chở chị ấy đi luôn rồi. Nhưng chị ấy sẽ khá an toàn trên tàu, bà Gibson ạ. Chỉ cần lên tàu ở Summerside... xuống tàu ở White Sands... không cần đổi chuyến gì cả.”
“Có gì đó đằng sau tất cả những điều này,” bà Gibson nghi ngờ. “Tại sao cô lại khăng khăng khuyên nó đi thế, cô Shirley? Nói thật cho tôi biết đi.”
Anne mỉm cười nhìn thẳng vào khuôn mặt với đôi mắt ti hí của bà ta.
“Bởi vì, cháu nghĩ rằng Pauline là một cô con gái hiếu thảo với bà, bà Gibson ạ, và thỉnh thoảng cần có một ngày nghỉ, mọi người ai cũng nói thế thôi.”
Rất nhiều người khó chống lại nụ cười của Anne. Hoặc là thế, hoặc nỗi e ngại những lời bàn ra tán vào đã đánh bại bà Gibson.
“Tôi cho rằng chẳng ai nghĩ là nếu có thể thì tôi cũng muốn có một ngày nghỉ khỏi chiếc xe lăn chết tiệt này. Nhưng không thể nào... Tôi chỉ đành cam chịu nỗi đau đớn này mà thôi. Ôi dào, nếu nó muốn thì nó cứ đi đi. Nó luôn luôn thích gì làm nấy mà. Nếu nó bị nhiễm bệnh quai bị hay bị đám muỗi lạ đầu độc thì chẳng phải lỗi của tôi đâu. Tôi sẽ cố gắng chịu đựng hết mức. Ồ, tôi biết cô sẽ đến giúp, nhưng cô không quen với cách sống của tôi như Pauline đâu. Tôi nghĩ là mình có thể chịu đựng trong một ngày. Nếu không thể... ôi dào, tôi đã sống lay sống lắt bao nhiêu năm nay rồi, có khác biệt gì đâu cơ chứ?” Rõ ràng bà ta đồng ý với thái độ chẳng vui vẻ gì, nhưng dù sao cũng là một lời đồng ý. Nhẹ nhõm và đầy biết ơn, Anne đã có hành động mà chính cô cũng không thể nào tưởng tượng nổi... cô cúi xuống hôn lên đôi má đồi mồi của bà Gibson. “Cảm ơn bà,” cô thốt lên.
“Đừng có xun xoe nịnh nọt tôi,” bà Gibson bảo. “Ăn một viên kẹo bạc hà đi.”
“Chị biết cảm ơn em thế nào đây hở Shirley?” Pauline kêu lên khi chị tiễn Anne ra ngoài đường một quãng.
“Chị cứ thoải mái đi White Sands và tận hưởng mọi giây phút ở đó là được.”
“Ôi, chị sẽ làm thế. Em không biết điều này có ý nghĩa với chị thế nào đâu, Shirley ạ. Chị không chỉ muốn gặp Louisa đâu. Ngôi nhà cũ của gia đình Luckley bên cạnh nhà chị ấy sắp bán rồi, và chị rất muốn nhìn thấy nó lần cuối trước khi nó rơi vào tay người lạ. Mary Luckley và chị yêu nó lắm. Chị thường mơ được quay trở lại đó. Mẹ nói chị đã quá gìa để mơ mơ mộng mộng rồi. Em có nghĩ thế không hở Shirley?”
“Không ai quá già để mơ mộng cả. Và những giấc mơ không bao giờ già đi.”
“Chị mừng lắm khi nghe em nói thế. Ôi, Shirley ơi, cứ nghĩ đến việc được nhìn thấy vùng vịnh một lần nữa. Chị không nhìn thấy nó suốt mười lăm năm nay rồi. Bến cảng đẹp, nhưng nó không phải là vùng vịnh. Chị cảm thấy như đang đi trên mây vậy. Và tất cả là nhờ vào em. Chỉ vì mẹ thích em nên mẹ mới để chị đi thôi. Em làm chị hạnh phúc lắm... em luôn luôn làm cho người khác được hạnh phúc. Ôi, Shirley ơi, mỗi khi em bước vào phòng, những người trong đó lại cảm thấy hạnh phúc hơn.”
“Đây là lời khen tuyệt nhất mà em từng nghe, chị Pauline ạ.”
“Chỉ còn một chuyện nữa, Shirley à... chị chẳng có gì để mặc ngoài chiếc váy taffeta đen cũ. Quá u ám để mặc đi dự đám cưới phải không? Mà nó còn quá rộng nữa, kể từ khi chị gầy đi. Em biết không, chị may nó hồi sáu năm trước rồi.”
“Chúng mình sẽ cố thuyết phục mẹ chị cho chị may váy mới vậy,’ Anne đề nghị đầy hy vọng.
Nhưng sự thật chứng minh rằng điều này nằm ngoài khả năng của cô. Bà Gibson kiên quyết không đồng ý. Chiếc váy taffeta của Pauline là quá tốt cho đám cưới Louisa Hilton rồi.
“Sáu năm trước tôi trả hai đô la một thước vải và thêm ba đô cho Jane Sharp may đo. Jane là thợ may giỏi. Mẹ cô ta họ Smiley mà. Cứ nghĩ đến chuyện chị muốn mặc thứ gì đó ‘sáng màu’ , Pauline Gibson! Nếu được phép làm gì tùy thích, con bé ấy sẽ mặc màu đỏ từ đầu đến chân cho coi, cô Shirley ạ. Nó chỉ đợi tôi chết để làm vậy thôi mà. À, tốt thôi, chị sẽ sớm được giải thoát khỏi cảnh bị tôi giày vò, Pauline ạ. Khi đó thì chị cứ ăn mặc nhí nhố và phù phiếm tùy thích, nhưng chừng nào tôi còn sống thì chị phải mặc sao cho đàng hoàng. Và còn cái mũ của chị nữa, cần gì phải thay? Dù gì cũng đến lúc chị đội mũ trùm đầu rồi.”
Pauline đáng thương sợ đội mũ trùm đầu khủng khiếp. Chị sẵn sàng đội chiếc mũ cũ đến suốt cuộc đời chứ không đời nào đội mũ trùm đầu.
“Chị sẽ thầm vui sướng và quên đi trang phục của mình,” chị nói vậy với Anne khi họ ra vườn hái một bó ly tháng Sáu và hoa ti gôn cho hai bà góa phụ.
“Em có một kế này,” Anne đề nghị, cẩn thận liếc mắt nhìn để chắc chắn bà Gibson không thể nghe thấy, dẫu bà ta vẫn đang quan sát họ qua cửa sổ phòng khách. “Chị biết chiếc váy poplin màu xám bạc của em chứ? Em sẽ cho chị mượn để mặc dự đám cưới.”
Pauline đánh rơi giỏ hoa trong cơn kích động, khiến chúng tạo thành một tấm thảm hồng trắng bồng bềnh dưới chân Anne.
“Ôi, em yêu quý, chị không thể... mẹ sẽ không cho phép đâu.”
“Mẹ chị sẽ không biết tí gì đâu. Nghe này. Sáng thứ Bảy chị cứ mặc nó dưới chiếc váy taffeta đen. Em biết chị sẽ mặc vừa mà. Hơi dài một chút nhưng mai em sẽ lên lai cho chị... váy lên lai giờ đang là mốt đấy. Nó không có cổ, tay ngắn đến khuỷu, cho nên chẳng ai nghi ngờ gì đâu. Ngay khi đến vịnh Mòng Biển, chị cởi chiếc váy taffeta ra. Đến cuối ngày, chị cứ để chiếc váy poplin ở vịnh Mòng Biển, kỳ nghỉ cuối tuần tới khi về nhà em sẽ ghé đó lấy.”
“Nhưng liệu nó có quá trẻ với chị không?”
“Không trẻ chút nào đâu. Tuổi nào cũng mặc màu xám được mà.”
“Em có nghĩ rằng... lừa dối mẹ... là đúng không?” Pauline dao động.
“Trong trường hợp này là hoàn toàn đúng,” Anne khẳng định không chút áy náy. “Chị biết đấy, Pauline ạ, không bao giờ nên mặc váy đen đến dự đám cưới. Nó có thể mang lại vận rủi cho cô dâu.”
“Ôi, chị sẽ không làm thế với bất cứ giá nào. Và đương nhiên điều này chẳng thể làm mẹ tổn thương được. Chị hy vọng thứ Bảy này mẹ sẽ không sao. Chị e là mẹ sẽ chẳng chịu ăn tí nào khi chị đi vắng... mẹ từng như thế khi chị đi dự tang lễ chị họ Maltida. Cô Prouty bảo với chị rằng mẹ chẳng chịu ăn... khi ấy cô Prouty ở lại chăm sóc mẹ dùm chị. Cay cú vì chị họ Maltida dám chết... chị muốn nói đến mẹ ấy.”
“Mẹ chị sẽ ăn thôi... em sẽ lo vụ đó.”
“Chị biết em rất khéo dỗ dành mẹ,” Pauline thừa nhận. “Và em sẽ không quên cho mẹ uống thuốc đúng giờ, phải không em yêu quý? Ôi, xét cho cùng có lẽ chị không nên đi.”
“Các cô ở ngoài đấy đủ lâu để hái cả bốn chục bó rồi đấy,” bà Gibson bực tức gọi với ra. “Tôi chẳng biết mấy bà góa ấy muốn gì ở đám hoa nhà này. Bọn họ có cả đống hoa rồi đấy thôi. Nếu phải đợi Rebecca Dew gửi hoa tới thì chắc lâu dữ lắm tôi mới có hoa mà dùng. Tôi khát nước muốn chết đây. Nhưng tôi thì có đáng cái thớ gì.”
Chiều thứ Sáu Pauline gọi điện cho Anne trong cơn kích động khủng khiếp. Chị bị đau họng và cô Shirley có cho rằng có thể đó là bệnh quai bị không? Anne chạy xuống để trấn an chị, mang theo chiếc váy poplin xám gói trong giấy nâu. Cô giấu nó trong bụi tử đinh hương và khuya hôm đó, Pauline, run cầm cập, rón rén đem nó lên lầu, giấu trong căn phòng nhỏ nơi chị hay cất và thay quần áo, dẫu chị chưa bao giờ được phép ngủ riêng trong đó. Pauline không cảm thấy thoải mái chút nào về chiếc váy. Có lẽ cơn đau họng là quả báo cho sự lừa dối của chị. Nhưng chị không thể đến dự đám cưới bạc của Louisa trong chiếc váy taffeta đen cũ kỹ gớm ghiếc kia... không thể nào.
Sáng thứ Bảy Anne đến nhà Gibson lúc tinh mơ. Vào một buổi sáng mùa hè lấp lánh như thế này, Anne lúc nào cũng trông hết sức xinh đẹp. Cô cứ như đang tỏa sáng cùng ánh nắng và đi xuyên qua không gian vàng óng như hình cô gái thắt lưng ong trên chiếc bình gốm Hy Lạp. Ngay cả gian phòng xám xịt nhất cũng sáng rỡ lên... sống động hẳn... khi cô bước vào.
“Nghênh ngang cứ như cô là chủ của quả đất này vậy,” bà Gibson nhận xét đầy mỉa mai.
“Đúng là thế thật,” Anne vui vẻ đáp.
“À, cô còn quá trẻ mà,” bà Gibson tức điên.
“ ‘Ta chẳng cấm điều gì trong lòng mình ưa thích,’” Anne trích dẫn. “Đó là lời trong Kinh Thánh đấy, bà Gibson ạ.”
“ ‘Nhưng loài người sinh ra để bị khốn khó, như lằn lửa bay chớp lên không.’ Kinh Thánh cũng bảo thế đấy,” bà Gibson bật lại. Thấy mình đã phản pháo thành công cô Shirley cử nhân, bà ta vui vẻ hơn so với bình thường. “Tôi không phải là kẻ hay tâng bốc người khác, cô Shirley ạ, nhưng mà cái mũ đính hoa xanh lơ của cô hợp với cô đấy. Bên dưới nó thì tóc cô không đến nỗi đỏ lắm, tôi thấy thế. Chị có ngưỡng mộ cô gái trẻ trung tươi tắn này không Pauline? Chị có muốn trở thành một cô gái trẻ trung tươi tắn như thế không, Pauline?”
Pauline hiện giờ quá hạnh phúc và phấn khích được là chính mình nên chẳng muốn trở thành bất kỳ ai khác. Anne đi lên phòng trên lầu để giúp chị thay đồ.
“Thật là thích thú khi nghĩ đến những điều tuyệt vời nhất định sẽ xảy ra trong hôm nay, Shirley ạ. Cổ họng của chị khá ổn rồi và mẹ đang rất vui vẻ. Có lẽ em không đồng ý với chị, nhưng chị biết đúng là thế, vì mẹ chịu trò chuyện, dẫu có phần mỉa mai. Nếu mẹ tức giận hay cáu kỉnh thì mẹ sẽ sưng sỉa lên cho coi. Chị đã gọt vỏ khoai tây và để bít tết ở trong hộp đá, món bánh sữa hạnh nhân của mẹ thì dưới tầng hầm. Bữa tối có thịt gà đóng hộp và một cái bánh xốp trong kho lương thực. Chị cứ lo sốt vó rằng mẹ sẽ đổi ý. Nếu vậy thì chị không sao chịu nổi đâu. Ôi, Shirley à, em có cho ràng chị nên mặc chiếc váy xám này không... chị hỏi thực đấy?”
“Mặc vào đi,” Anne ra lệnh với giọng điệu của một cô giáo.
Pauline nghe theo và một nàng Pauline hoàn toàn khác hiện ra. Chiếc váy xám vừa khít người chị. Nó không có cổ, tay áo chỉ dài đến khuỷu và có đính diềm đăng ten xinh xắn. Khi Anne bới tóc cho chị xong, Pauline suýt nữa không nhận ra chính mình.
“Chị chẳng thích khoác chiếc váy taffeta đen cũ xì xấu xí đó lên chiếc váy đẹp này chút nào, Shirley à.”
Nhưng phải vậy thôi. Chiếc váy taffeta che kín hoàn toàn chiếc váy xám. Đội cái mũ cũ lên... nhưng khi đến nhà Louisa thì chị cũng cởi nó xuống thôi... và Pauline có một đôi giày mới. Bà Gibson quả thực đã cho phép chị mua một đôi giày mới, mặc dù bà ta nghĩ rằng gót “cao một cách lố bịch”. “Đi trên tàu một mình thế này chắc chị sẽ gây ấn tượng mạnh đây. Chị hy vọng người ta sẽ không nghĩ rằng chị đi dự đám tang. Chị không muốn đám cưới bạc của Louisa có dính dáng tí xíu nào đến cái chết cả. Ôi, còn nước hoa sao, Shirley ơi! Mùi hoa táo! Thơm thật phải không? Chỉ cần tí xíu thôi... hết sức nữ tính, chị luôn nghĩ thế. Mẹ chẳng cho chị mua lọ nào. Ôi, Shirley ơi, em sẽ không quên cho con chó của chị ăn chứ? Chị để phần xương cho nó trong một cái đĩa đậy kín ở kho lương thực. Chị hy vọng”... chị hạ giọng thì thầm một cách ngượng ngùng... “rằng nó sẽ không... làm bậy... trong nhà trong khi em đang ở đây.”
Pauline phải vượt qua lượt kiểm tra của bà mẹ trước khi rời đi. Niềm phấn khích trước chuyến đi chơi và cảm giác tội lỗi liên quan đến chiếc váy poplin sát người kết hợp lại khiến mặt chị đỏ bừng khác thường. Bà Gibson nhìn chị vẻ chê trách.
“Ôi chao úi dào! Đi tới London để gặp nữ hoàng đấy à? Mặt chị đỏ quá thể. Người ta sẽ nghĩ là chị trang điểm đấy. Chị có chắc là chị không bôi trét gì không?”
“Ôi, không đâu mẹ ơi... không đâu,” với giọng kích động.
“Giờ thì để ý cách cư xử nhé, khi ngồi xuống thì bắt chéo chân đàng hoàng vào. Nhớ đừng uống nước ừng ực hay nói nhiều quá đấy.”
“Không đâu mà mẹ,” Pauline nghiêm túc hứa hẹn, lo lắng liếc nhìn đồng hồ.
“Tôi gửi tặng Louisa một chai rượu ngâm rễ thổ phục linh để uống mừng. Tôi chẳng mấy quan tâm đến con bé Louisa, nhưng mẹ nó họ Tackebary. Nhớ đem chai về và đừng để con bé ấy dúi cho chị một con mèo con nhé. Louisa lúc nào cũng đưa mèo con cho người ta.”
“Con nhớ rồi mà mẹ.”
“Chị có chắc là chị không để quên xà phòng trong nước không?”
“Chắc mà mẹ,” tiếp theo là một cú liếc đồng hồ đầy vẻ bồn chồn.
“Ôi, không, mẹ yêu dấu... có chút xíu thôi mà... tí tẹo tèo teo thôi...”
“Tôi cứ nói sặc sụa đấy, và quả thực là sặc sụa. Dưới nách chị không có vết rách nào chứ?”
“Ôi, không đâu.”
“Để tôi xem nào...” bà khăng khăng một mực.
Pauline sợ run lên. Nhỡ mà chân chiếc váy xám lộ ra khi chị giơ tay lên thì sao!
“Ôi, thôi chị đi vậy.” Kèm theo một tiếng thở dài thườn thượt. “Nếu tôi không còn ở đây khi chị trở về, hãy nhớ rằng tôi muốn được chôn trong chiếc khăn choàng đen và đôi dép xa tanh đen nhé. Và nhớ uốn tóc của tôi đàng hoàng.”
“Mẹ cảm thấy mệt hơn sao, mẹ?” Bộ váy poplin đã khiến cho lương tâm của Pauline trở nên rất nhạy cảm. “Nếu vậy thì... con sẽ không đi đâu...”
“Và lãng phí tiền mua đôi giày sao! Đương nhiên là cô phải đi. Và đừng có mà trượt lan can đấy nhé.
Nhưng lần này con giun xéo lắm cũng quằn.
“Mẹ! Mẹ nghĩ rằng con sẽ làm thế sao?”
“Chẳng phải chị đã làm thế trong đám cưới của Nancy Parker sao?”
“Ba mươi lăm năm trước rồi! Mẹ nghĩ rằng giờ con sẽ làm như thế nữa sao?”
“Giờ này lẽ ra chị phải đi rồi mới phải. Còn ở đây lắp ba lắp bắp cái gì? Chị muốn lỡ tàu sao?
Pauline vội vã rời đi và Anne thở phào nhẹ nhõm. Cô cứ sợ rằng vào phút chót, bà cụ Gibson sẽ bị cơn bốc đồng tàn ác chiếm lĩnh, cố giữ Pauline cho đến khi xe lửa khởi hành.
“Giờ thì mới được chút bình yên đây,’ bà Gibson tuyên bố. “Ngôi nhà này đang trong tình trạng cực kỳ lôi thôi bê bối ghê, cô Shirley ạ. Tôi mong cô hiểu cho rằng không phải lúc nào nó cũng thế đâu. Mấy hôm gần đây Pauline thậm chí không biết tay chân mình để ở đâu nữa. Cô vui lòng chuyển chiếc bình kia về bên trái một phân nhé? Không, chuyển nó lại vị trí cũ đi. Cái chụp đèn đó bị nghiêng rồi. Ừ, thẳng hơn một tí rồi đấy. Nhưng cái mành kia thòng xuống một phân so với cái kế bên. Giá mà cô chỉnh lại nó giúp.”
Không may là Anne kéo qua một cú quá mạnh khiến cho nó tuột khỏi tay giật vèo lên cao.
“À, giờ cô hiểu rồi đấy,” bà Gibson bảo.
Anne chẳng hiểu gì nhưng cô điều chỉnh lại tấm mành hết sức cẩn thận tỉ mỉ.
“Và bây giờ bà có muốn tôi pha một tách trà ngon cho bà không, bà Gibson?”
“Tôi quả thật cần uống gì đó... tôi rõ ràng là phờ phạc cả người trước những trò lo lắng nhặng xị này rồi. Dạ dày tôi dường như đang teo tóp lại đây,” bà Gibson than thở thiết tha. “Thế liệu cô có pha được một tách trà cho đàng hoàng không? Tôi từng uống trà của vài người pha, cứ như là uống bùn ấy.”
“Bác Marilla Cuthbert đã dạy tôi cách pha trà. Bà sẽ thấy. Nhưng trước tiên tôi sẽ đẩy bà ra hiên để tận hưởng ánh mặt trời cái đã.”
“Tôi không ra hiên bao nhiêu năm trời nay rồi,” bà Gibson phản đối.
“Ôi, trời hôm nay đẹp lắm, sẽ không làm bà khó chịu đâu. Tôi muốn bà ngắm cây táo dại đang trổ bông rực rỡ. Nếu không ra ngoài thì bà không thể thấy nó đâu. Và hôm nay gió thổi từ hướng Nam, do đó bà sẽ ngửi thấy hương me đất từ cánh đồng của Norman Johnson. Tôi sẽ mang trà ra cho bà, chúng ta sẽ cùng uống trà, rồi tôi sẽ cầm khung thêu của mình lên, chúng ta ngồi đó tha hồ bình phẩm người qua kẻ lại.”
“Tôi không có thói quen bình phẩm người khác,” bà Gibson đoan chính đáp. “Thế thì không xứng là con chiên ngoan đạo. Cô có thể nói thật cho tôi biết, tóc cô là tóc thật cả đấy chứ?”
“Sợi nào cũng thật cả,” Anne phá lên cười.
“Đáng tiếc nó màu đỏ. Mặc dù tóc đỏ bây giờ dường như đang là mốt. Tôi khá có cảm tình với tiếng cười của cô. Tiếng khúc khích e ấp của con bé Pauline đáng thương lúc nào cũng làm tôi bực cả mình. Ôi dào, nếu phải ra ngoài thì tôi cũng đành thôi. Rất có thể tôi sẽ chết rét, nhưng trách nhiệm thuộc về cô, cô Shirley ạ. Hãy nhớ là tôi đã tám mươi... đúng bong luôn nhé, mặc dù tôi nghe nói lão Davy Ackham lăng xăng loan truyền khắp Summerside là tôi mới bảy mươi chín. Mẹ lão họ Watt. Nhà họ Watt hay ghen ăn tức ở lắm.”
Anne khéo léo đẩy chiếc xe lăn ra ngoài và chứng tỏ rằng cô có tài sắp xếp ghế dựa. Không lâu sai, cô bưng trà ra và bà Gibson hạ mình tán thưởng.
“Ừ, uống được đấy, cô Shirley ạ. Ôi dào tôi ấy à, có lần tôi phải sống nhờ đồ ăn lỏng suốt một năm liền. Họ không bao giờ nghĩ rằng tôi vượt qua được. Tôi thường nghĩ rằng có lẽ nếu vậy thì tốt hơn. Có phải đấy là cây táo dại mà cô khen không ngớt miệng không?”
“Vâng... đẹp quá phải không... trắng muốt in trên bầu trời xanh thăm thẳm?”
“Nghe chẳng nên thơ gì cả,” đó là nhận xét duy nhất của bà Gibson. Nhưng sau hai tách trà, bà trở nên vui tính hơn và buổi sáng trôi đi êm ả cho đến lúc cần chuẩn bị bữa trưa.
“Tôi sẽ đi chuẩn bị đâu vào đó rồi bưng ra chiếc bàn nhỏ ngoài này nhé?”
“Không, đừng làm vậy, thưa cô. Tôi không làm trò khỉ điên khùng như thế! Người ta sẽ thấy quái gở lắm, khi chúng ta ăn uống ở ngoài trời tênh hênh thế này. Tôi không phản đối rằng ở đây thì cũng có phần dễ chịu đấy... cho dù mùi me đất luôn làm cho tôi muốn nôn mửa... và buổi sáng trôi nhanh khủng khiếp so với thường lệ, nhưng tôi không đời nào dùng bữa trưa ngoài trời vì bất cứ lý do gì. Tôi không phải dân du mục. Cô nhớ rửa sạch tay trước khi nấu ăn nhé. Ôi dào, bà Storey chắc sắp có khách đây. Bà ta đem phơi tất tần tật vỏ chăn vỏ gối của phòng dành cho khách ngoài dây phơi kìa. Đó không phải lòng hiếu khách thật sự đâu... chỉ là muốn thu hút sự chú ý thôi. Mẹ bà ta họ Carey mà.”
Bữa trưa Anne nấu đủ ngon để làm hài lòng ngay cả bà Gibson.
“Tôi những tưởng mấy tay viết lách không biết nấu ăn đàng hoàng. Nhưng tất nhiên cô được Marilla Cuthbert nuôi dạy mà. Mẹ bà ta họ Johnson. Tôi e là Pauline sẽ ăn đến phát ốm trong đám cưới cho coi. Nó chẳng biết khi nào là đủ cả... cũng hệt như cha nó. Tôi từng chứng kiến ông ta ngốn dâu tây ngồm ngoàm dẫu biết rõ rằng một giờ sau đó sẽ đau bụng bò lăn bò càng. Tôi cho cô xem ảnh của ông ta chưa, cô Shirley? À, lên phòng dành cho khách mang nó xuống đi. Cô sẽ tìm thấy nó dưới gầm giường ấy. Cô vui lòng đừng lục lọi ngăn kéo khi lên trên ấy nhé. Nhưng nhớ cúi xuống liếc xem có tí bụi nào đóng dưới chân bàn không. Tôi không tin tưởng Pauline... À, vâng, là ông ta đó. Mẹ ông ta họ Walker. Bây giờ thì không còn đàn ông nào như thế nữa đâu. Thời đại này suy đồi rồi, cô Shirley ạ.”
“Homer cũng nói hệt vậy hồi tám trăm năm trước công nguyên,” Anne mỉm cười.
“Mấy tay văn sĩ Cựu ước đó lúc nào cũng oang oác kiểu thế,” bà Gibson nhận xét. “Tôi dám chắc rằng cô bị sốc khi nghe tôi nói vậy, cô Shirley ạ, nhưng chồng tôi nhìn đời rất thoáng. Tôi nghe nói cô đã đính hôn... với một sinh viên y khoa. Sinh viên y khoa đa số đều nhậu nhẹt, tôi nghĩ thế... phải vậy mới đứng nổi trong phòng mổ xác chứ. Đừng bao giờ cưới một tay hay nhậu nhẹt, cô Shirley ạ. Hay là một gã không nuôi nổi gia đình. Không thể sống nhờ ánh trăng hay hoa cỏ đâu, tôi nói cho cô rõ nhé. Cô đừng quên cọ sạch bồn rửa và giặt khăn lau nhé. Tôi không thể chịu nổi đám khăn lau chén nhẫy mỡ đâu. Tôi e là cô sẽ phải cho con chó ăn đấy. Giờ thì nó béo quá rồi, nhưng Pauline cứ mãi nhồi nhét nó. Đôi khi tôi nghĩ rằng tôi phải tống khứ nó đi thôi.”
“Ôi, như vậy không nên đâu, bà Gibson ạ. Bọn trộm cắp luôn rình rập, bà biết mà... và ngôi nhà của bà nằm tách biệt ở đây mỗi một mình. Bà thực sự cần bảo vệ.”
“Ồ, vâng, cứ làm theo ý cô đi vậy. Tôi thà làm chuyện gì cũng được, chứ chẳng ưa tranh cãi với người khác, nhất là khi gáy tôi nhói đau một cách kỳ lạ thế này. Tôi e là mình sắp bị đột quỵ mất.”
“Bà cần ngủ một chút. Khi ngủ dậy bà sẽ cảm thấy khỏe hơn. Tôi sẽ đắp chăn cho bà và hạ thấp ghế xuống. Bà có muốn ra ngoài hàng hiên chợp mắt một chút không?”
“Ngủ ở nơi công cộng! Thế còn tồi tệ hơn là ăn uống tênh hênh nữa. Cô có những ý tưởng kỳ quặc nhất đời. Cô chỉ cần thu xếp cho tôi ngủ ngay trong phòng khách, kéo mành xuống và đóng chặt cửa để ruồi khỏi vào. Tôi dám chắc cô cũng cần có một khoảng thời gian yên tĩnh đấy... lưỡi của cô nãy giờ hoạt động liên tục mà.”
Và Gibson ngủ một giấc dài say sưa, nhưng hết sức xấu tính khi tỉnh dậy. Bà không chịu để Anne đẩy ra ngoài hàng hiên nữa.
“Chắc là cô muốn tôi chết gí ngoài trời đêm chứ gì,” bà làu bàu dẫu chỉ mới năm giờ chiều. Chẳng gì làm bà hài lòng. Thức uống Anne mang đến quá lạnh... cốc kế tiếp lại không đủ lạnh... đương nhiên bà sẵn sàng uống bất cứ thứ gì mà. Con chó đâu rồi? Chắc chắn là đang giở trò hư hỏng. Lưng bà đau... đầu gối đau... đầu đau... lồng ngực đau. Chẳng ai thông cảm với bà... chẳng ai hiểu những gì bà phải chịu đựng. Ghế của bà quá cao... ghế của bà quá thấp... bà cần một chiếc khăn san khoác lên vai, một tấm khăn len phủ lên đùi, và một chiếc nệm đặt dưới chân. Và liệu cô Shirley có thể xem xem cơn gió lùa khủng khiếp ấy xuất phát từ đâu không? Bà rất thèm một tách trà, nhưng bà không muốn làm phiền bất cứ ai và bà sẽ sớm nghỉ ngơi dưới mồ thôi. Có lẽ mọi người sẽ trân trọng bà hơn khi bà đã mất chăng.
“Ngày ngắn hay ngày dài, buổi tối rồi cũng đến.” Có những lúc Anne nghĩ rằng buổi tối sẽ không bao giờ đến, nhưng rồi nó cũng đến. Hoàng hôn buông xuống và bà Gibson bắt đầu tự hỏi tại sao Pauline chưa về. Chạng vạng ghé qua... vẫn không có Pauline. Đêm lặng, trăng tà, Pauline vẫn vắng bóng.
“Tôi biết trước sẽ thế mà,” bà Gibson tuyên bố vẻ bí ẩn.
“Bà biết là chị ấy không thể đi trước khi ông Gregor ra về, mà ông ấy thường hay lê la dầm dề lắm,” Anne an ủi. “Tôi đưa bà đi ngủ nhé, bà Gibson? Bà hẳn đang mệt mỏi lắm... tôi biết có chút khó chịu khi ở gần người lạ, thay vì một người thân quen với bà.”
Những nếp nhăn li ti ở khóe miệng của bà Gibson hằn xuống đầy bướng bỉnh.
“Tôi sẽ không ngủ cho đến khi con bé đó về đến nhà. Nhưng nếu cô nôn nóng muốn về như vậy thì cứ về đi. Tôi có thể ở lại một mình... hoặc chết một mình.
Đến chín giờ rưỡi bà Gibson chắc chắn rằng đến thứ Hai thì Jim Gregor mới chịu về nhà.
“Chẳng ai có thể trông đợi gã Jim Gregor đấy giữ nguyên ý kiến trong vòng hai mươi bốn giờ cả. Và hắn ta còn nghĩ rằng đi lại trong ngày Chủ nhật là sai lầm, dẫu đó là đi về nhà. Hắn là thành viên hội đồng trường học của cô mà, phải không? Thế cô thực sự nghĩ gì về hắn ta và ý kiến của hắn ta về giáo dục?”
Anne quyết định chơi xỏ lại bà ta. Dù sao chăng nữa, hôm nay cô đã phải chịu đựng bà Gibson không ít rồi.
“Tôi nghĩ rằng ông ta là một sai lầm niên đại tâm lý,” cô nghiêm túc đáp trả.
Lông mi của bà Gibson không chớp đến một cái.
“Tôi đồng ý với cô,” bà ta đáp. Nhưng rồi bà giả vờ nhắm mắt ngủ.