“Tôi đến chết vì mệt mất thôi,” Ernestine Bugle thở dài, thả người rơi xuống chiếc ghế bên bàn ăn tối ở Bạch Dương Lộng Gió. “Có những khi tôi không dám ngồi xuống vì sợ sẽ chẳng bao giờ đứng dậy được nữa.”
Chiều hôm đó, Ernestine, người họ hàng dẫu cách xa ba đời với ngài thuyền trưởng MacComber quá cố nhưng, như dì Kate vẫn thường nhận xét, vẫn quá mức gần gũi, đã đi bộ từ Lowvale đến thăm Bạch Dương Lộng Gió. Bất chấp những kết nối huyết thống thiêng liêng, chẳng thể nói rằng trong hai bà góa lại có người nào hân hoan chào đón bà ấy. Ernestine không thuộc kiểu người hồ hởi mà nằm trong số những con người bất hạnh lúc nào cũng băn khoăn lo lắng không chỉ về các vấn đề của bản thân mà còn về vấn đề của hết thảy mọi người xung quanh, vì sẽ chẳng bao giờ để yên cho bất kỳ ai, thậm chí chính bản thân mình. Vẻ mặt của bà ấy, Rebecca Dew tuyên bố, luôn khiến ta cảm thấy cuộc đời này chẳng khác gì một bình nước mắt.
Chắc chắn Ernestine không phải người xinh đẹp, và hẳn sẽ chẳng ai thèm tán thành nếu có người cho rằng biết đâu ngày xưa bà ấy cũng có chút nhan sắc. Khuôn mặt bà nhỏ thó, hốc hác, quắt queo, đôi mắt xanh nhạt đã mờ, mấy cái nốt ruồi mọc ở những vị trí đến là vô duyên, lại thêm chất giọng rên rỉ than van. Bà mặc chiếc váy đen bạc phếch, trên cổ là cái khăn quàng xơ xác bằng lông chuột hương mà đến tận khi ngồi vào bàn rồi bà vẫn không chịu cởi ra vì sợ bị gió lùa.
Nếu thích thì lẽ ra Rebecca Dew đã ngồi cùng bàn ăn với họ, vì các bà góa không coi Ernestine là một “vị khách” có gì đặc biệt. Nhưng Rebecca lúc nào cũng tỏ rõ thái độ chị chẳng cách nào “thưởng thức bữa ăn” nếu phải ngồi cạnh bà già phá đám đó. Chị thích “ăn bữa ăn khiêm tốn của mình” ở trong bếp hơn, nhưng chuyện đó cũng không ngăn cản chị nhận xét trong lúc đợi để phục vụ bên bàn ăn.
“Có khi xương cô bắt đầu bị rạn rồi,” chị ấy nhận xét chẳng chút thông cảm.
“Ái chà, tôi hy vọng nguyên nhân chỉ có thế. Nhưng tôi chỉ e mình cũng giống như bà Oliver Gage tội nghiệp. Hè vừa rồi bà ta ăn nấm, nhưng chắc hẳn trong đó có lẫn cả một cây nấm độc, vì kể từ đó đến giờ bà ta chẳng bao giờ còn thấy bình thường được nữa.”
“Nhưng làm sao cô có thể ăn nấm sớm thế này được,” dì Chatty nói.
“Đúng là không, nhưng tôi e là mình đã ăn phải thứ gì đó. Đừng tìm cách động viên tôi, Charlotte ạ. Chị cũng chỉ muốn tốt cho tôi thôi, nhưng không có tác dụng đâu. Tôi cũng cố gắng lắm đấy chứ. Mà cô có chắc là trong bình kem kia không có con nhện nào không đấy, Kate? E là lúc cô rót kem vào tách cho tôi, tôi đã nhìn thấy một con đấy.”
“Chúng tôi chẳng bao giờ có con nhện nào trong bình kem cả,” Rebecca Dew nói bằng giọng nhuốm mùi nguy hiểm, đoạn đóng sầm cửa bếp lại.
“Có khi chỉ là gợn kem thôi,” bà Ernestine nói với vẻ nhu mì. “Mắt tôi không còn được như xưa nữa rồi. Chỉ sợ chẳng mấy chốc là tôi cũng mù thôi. Nói thế mới nhớ… chiều nay tôi vừa tạt qua thăm Martha MacKay thì thấy cô ta đang ngây ngấy sốt lại có triệu chứng phát ban. ‘Theo tôi thấy thì có khi cô bị sởi rồi,’ tôi bảo với cô ta thế. ‘Thế thì sau cô dễ bị lòa lắm đấy. Họ nhà cô vốn toàn những người mắt kém mà.’ Tôi nghĩ cô ta cần phải chuẩn bị tâm lý sẵn sàng. Cả mẹ cô ta cũng không khỏe. Bác sĩ bảo bà ấy chỉ mắc chứng khó tiêu thôi, nhưng tôi e rằng nó là một khối u. ‘Và nếu cô phải phẫu thuật gây mê thì chỉ sợ cô sẽ chẳng bao giờ tỉnh lại nổi,’ tôi nói với cô ta. ‘Đừng quên cô là một người nhà Hillis nhé, mà chẳng người nào mang họ Hillis lại không bị yếu tim. Cha cô chẳng chết vì đau tim còn gì.’ ”
“Mà cô biết rõ là theo Kinh Thánh bảy mươi đã được coi là ranh giới rồi,” dì Chatty vui vẻ nói.
Bà Ernestine tự xúc cho mình thìa đường thứ ba và buồn bã khuấy tách trà.
“Đấy là theo lời vua David, Charlotte ạ, nhưng tôi e là xét trên một số phương diện David không phải là người sành sỏi lắm.”
Anne bắt gặp ánh mắt của dì Chatty và cô phá lên cười trước khi kịp kiềm chế bản thân.
Bà Ernestine nhìn cô với vẻ không tán thành.
“Tôi đã nghe nói lúc nào cô cũng thường trực nụ cười trên môi. Chà, hy vọng sẽ mãi luôn như thế, nhưng tôi e là không được đâu. E là cô sẽ nhanh chóng phát hiện ra cuộc đời thật quá u sầu. Thế đấy, chính tôi cũng từng có một thời trẻ trung mà.”
“Thật thế sao?” Rebecca Dew hỏi lại bằng giọng châm biếm lúc mang bánh nướng xốp vào. “Thế mà tôi cứ có cảm giác lúc nào bà cũng sợ mình trẻ quá đấy. Phải nói là dũng cảm lắm mới làm thế được, bà Bugle ạ.”
“Rebecca Dew có cách diễn đạt kỳ khôi thật đấy,” bà Ernestine phàn nàn. “Tất nhiên nói thế không có nghĩa là tôi khó chịu gì với cô ấy đâu. Và kể ra cũng là chuyện tốt thôi nếu cô thấy lúc nào cười được thì cứ cười, cô Shirley ạ, nhưng tôi e rằng nếu cứ tỏ ra hạnh phúc vui vẻ thế thì chính là cô đang khiêu khích Thượng đế đấy. Cô giống y hệt bà dì người vợ ngài mục sư quá cố của chúng tôi… lúc nào người ta cũng cảm thấy bà ấy tươi cười rạng rỡ, và bà ấy đã chết vì một cơn tai biến mạch máu não. Đến cơn thứ ba là toi đời. Tôi e rằng ngài mục sư mới của chúng tôi ở Lowvale là người có thói lông ba lông bông. Ngay giây phút nhìn thấy ông ta tôi đã nói với Louisy, ‘Tôi e rằng một người đàn ông có đôi chân như thế kia hẳn là nghiện nhảy nhót lắm.’ Tôi đoán chừng ông ta đã từ bỏ thói quen đó sau khi trở thành mục sư, nhưng e rằng thói tật đó sẽ phát lộ trong gia đình ông ta. Vợ ông ta còn khá trẻ và nghe nói yêu ông ta đến mức đáng hổ thẹn. Có lẽ tôi chẳng tài nào chấp nhận nổi cái suy nghĩ trên đời này lại có người cưới một mục sư vì tình yêu. Tôi e rằng đó là một sự bất kính khủng khiếp. Ông ấy giảng đạo khá hay, nhưng từ những gì ông ấy nói về nhà tiên tri Elijah hôm Chủ nhật vừa rồi, tôi e rằng quan điểm của ông ấy về Kinh Thánh quá ư phóng khoáng.”
“Tôi đọc trên báo thấy Peter Ellis và Fanny Bugle đã kết hôn tuần vừa rồi,” dì Chatty nói.
“À, đúng vậy. Tôi e rằng đó thể nào cũng là một trường hợp hấp tấp kết hôn cả đời ôm hận thôi. Họ mới quen biết nhau được ba năm. Tôi e là Peter sẽ nhận ra không phải hễ có bộ lông đẹp thì con chim sẽ tốt. Tôi e là Fanny vụng về quá. Cô ta là khăn trải bàn mà lại là mặt phải và mỗi thế rồi thôi. Chẳng giống bà mẹ thần thánh của cô ta chút nào. Nếu trên đời này mà có người được gọi là cẩn thận chu đáo thì bà ấy chính là người như vậy đấy. Hồi còn phải để tang, bà ấy lúc nào cũng mặc áo ngủ màu đen. Bà ấy bảo dù là ngày hay đêm thì bà ấy vẫn luôn canh cánh nỗi đau trong lòng. Tôi đã xuống nhà Andy Bugle, giúp họ chuyện bếp núc, và sáng hôm tổ chức lễ cưới, lúc tôi xuống dưới tầng một, chẳng phải Fanny đang ăn một quả trứng thay cho bữa sáng sao… mà hôm đó là đám cưới của cô ta đấy nhé. Chắc hẳn các cô sẽ chẳng tin nổi chuyện đó đâu… nếu không tận mắt chứng kiến thì chắc tôi cũng chẳng tin. Suốt ba ngày trước lễ cưới, bà chị quá cố tội nghiệp của tôi chẳng ăn bất cứ thứ gì hết. Và sau khi chồng chị ấy qua đời, tất cả chúng tôi đều e là từ nay về sau chị ấy sẽ chẳng ăn uống gì được nữa. Có những lúc thật tôi cảm thấy mình chẳng thể nào hiểu nổi những người nhà Bugle nữa. Có một thuở ta hiểu rõ mình đang ở đâu nhờ những người họ hàng của mình, nhưng giờ thì không còn như thế nữa.”
“Có thật Jean Young sắp tái hôn không?” dì Kate hỏi.
“E là đúng vậy đấy. Tất nhiên người ta đồn đoán Fred Young đã chết rồi, nhưng tôi thật lòng e là ông ta sẽ lù lù xuất hiện cho xem. Ta chẳng bao giờ có thể tin tưởng người đàn ông đó được. Cô ấy sẽ cưới Ira Roberts. Tôi e là anh ta cưới cô ấy chỉ cốt làm cô ấy vui thôi. Ông chú Philip của anh ta từng ngỏ lời cầu hôn tôi đấy, nhưng tôi bảo ông ta, tôi bảo thế này này, ‘Tôi sinh ra mang họ Bugle và chết đi vẫn sẽ mang họ Bugle. Cưới xin là trò mạo hiểm,’ tôi nói, ‘và tôi sẽ không say mê trò đó đâu.’ Mùa đông này ở Lowvale đám cưới nhiều kinh lên được. Tôi e là đến hè sẽ lại có các đám tang để bù lại thôi. Annie Edwards và Chris Hunter lấy nhau tháng trước. Tôi e là chỉ vài năm nữa họ sẽ chẳng còn yêu đương đắm đuối như giờ được nữa. Tôi e là cô nàng chỉ rung động bởi cái mẽ bảnh bao của anh chàng thôi. Ông bác Hiram của anh ta thật điên rồ… hàng bao nhiêu năm trời ông ta cứ chắc mẩm mình là một con chó.”
“Nếu ông ta tự sủa tự nghe thì chẳng cần ai phải soi cái thú vui riêng của ông ta,” Rebecca Dew nói trong lúc mang mứt lê và bánh bông lan vào.
“Tôi chưa nghe thấy ông ta sủa bao giờ,” bà Ernestine nói. “Ông ta chỉ gặm xương và nhân lúc không ai để ý chôn nó đi thôi. Vợ ông ta cảm thấy thế.”
“Mùa đông này bà Lily Hunter ở đâu vậy nhỉ?” dì Chatty hỏi.
“Bà ấy đang ở San Francisco cùng con trai và tôi hết sức e ngại rằng sẽ lại có thêm một trận động đất nữa trước khi bà ấy rời khỏi nơi đó. Nếu rời khỏi đó, rất có khả năng bà ấy sẽ tìm cách mang lậu đồ và thể nào cũng sẽ gặp rắc rối ở biên giới. Một khi ta đi du lịch, không gặp chuyện này thì sẽ vướng phải chuyện khác thôi. Nhưng có vẻ như người ta lúc nào cũng phát điên lên vì du với chả lịch. Ông anh họ Jim Bugle của tôi đã trải qua mùa đông ở Florida. Tôi e là anh ấy vẫn đang ngày càng giàu có phát đạt. Trước hôm anh ấy đi, tôi đã nói chuyện với anh ấy, tôi nói như thế này này… tôi vẫn nhớ đó là buổi tối trước hôm con chó nhà Coleman chết… có đúng vậy không nhỉ?... đúng rồi, quả thật vậy đấy… ‘Thói tự phụ kéo theo sự hủy hoại và thái độ ngạo mạn sẽ dẫn đến sự sụp đổ,’ tôi nói. Con gái anh ấy đang dạy học ở trường Đường Bugle và con bé không tài nào quyết định được nên chọn ai trong số các anh chàng đang theo đuổi. ‘Ta có thể đảm bảo với cháu một chuyện, Mary Annetta ạ,’ tôi nói, ‘đó là cháu sẽ chẳng bao giờ có được người cháu yêu thương nhất đâu. Vậy nên tốt hơn hãy chọn người nào yêu thương cháu… nếu cháu phần nào chắc chắn vào tình cảm của anh ta.’ Tôi hy vọng nó sẽ lựa chọn sáng suốt hơn Jessie Chipman. Tôi e là nó rồi sẽ cứ thế là lấy Oscar Green thôi, vì cậu ta lúc nào cũng quanh quẩn bên cạnh. ‘Có phải cháu chọn lựa thế không?’ tôi hỏi nó. Anh trai con bé đã chết vì bệnh lao tẩu mã. ‘Và đừng làm đám cưới vào tháng Năm,’ tôi nói, ‘vì đám cưới tổ chức vào tháng Năm sẽ đen đủi lắm đấy.’ ”
“Bà lúc nào cũng rất biết cách động viên người khác!” Rebecca Dew nói, mang vào một đĩa bánh hạnh nhân.
“Các cô có biết,” bà Ernestine nói, phớt lờ Rebecca Dew và lấy cho mình phần mứt lê thứ hai, “huyền sâm là một loài hoa hay một căn bệnh không?”
“Một loài hoa,” dì Chatty nói.
Bà Ernestine có vẻ hơi thất vọng.
“Chà, sao cũng được, bà vợ góa của Sandy Bugle đã kiếm được nó đấy. Hôm Chủ nhật vừa rồi, tôi nghe thấy bà ta nói chuyện với em gái ở nhà thờ rằng cuối cùng bà ta cũng đã kiếm được huyền sâm rồi. Đám cây phong lữ của cô khẳng khiu phát khiếp lên được, Charlotte ạ. Tôi e là cô không chăm bón chúng đúng cách rồi. Bà Sandy đã thôi để tang rồi, mà Sandy tội nghiệp mới chết được bốn năm thôi đấy. Ôi chao, dạo này người chết chẳng mấy chốc mà đã bị quên lãng thôi. Chị gái tôi đã để tang chồng suốt hai mươi lăm năm đấy.”
“Bà có nhận ra là bà chưa kéo khóa váy không?” Rebecca hỏi, đặt một cái bánh dừa lên trước mặt dì Kate.
“Tôi không có thời gian để lúc nào cũng chằm chằm soi mặt mình trong gương,” bà Ernestine chanh chua nói. “Chưa kéo khóa váy thì sao chứ? Chẳng phải tôi còn mặc đến tận ba cái áo lót đấy thôi? Tôi nghe nói con gái thời nay chỉ mặc có mỗi một cái thôi. Tôi e là thế giới đang càng ngày càng trở nên phóng đãng và phù phiếm. Chẳng biết người ta có bao giờ nghĩ đến ngày phán xét không nữa.”
“Bà có cho là đến ngày phán xét, người ta sẽ hỏi chúng ta xem chúng ta mặc bao nhiêu cái váy lót không?” Rebecca Dew vừa hỏi vừa cất bước trốn vào trong bếp trước khi bất kỳ ai kịp bộc lộ vẻ kinh hoàng. Ngay cả dì Chatty cũng cảm thấy Rebecca quả tình đã đi hơi quá xa rồi.
“Chắc hẳn các bà đã đọc thấy trên báo thông tin về cái chết của ông lão Alec Crowdy hồi tuần trước,” bà Ernestine thở dài. “Vợ ông ta chết từ hai năm trước, quá vội vã đi sang thế giới bên kia, đáng thương thay. Người ta bảo từ sau cái chết của vợ, ông ta cô đơn khủng khiếp, nhưng tôi e là chẳng thể tin nổi chuyện đó. Và tôi cũng e là dẫu ông ta đã bị chôn sâu dưới ba tấc đất thì vẫn còn đầy vấn đề liên quan vẫn chưa giải quyết xong. Nghe nói ông ta không lập di chúc và tôi e là sẽ có tranh cãi ầm ĩ về chuyện phân chia tài sản cho xem. Họ nói Annabel Crowdy sắp cưới một anh chàng làm đủ mọi nghề. Người chồng đầu tiên của mẹ con bé cũng vậy, thế nên có thể nói mẹ nào con nấy. Cuộc sống của Annabel vốn rất vất vả, nhưng tôi e là rồi con bé sẽ nhận ra mình tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa thôi, dẫu rằng hóa ra không phải anh ta đã có vợ khác rồi.”
“Mùa đông này Jane Goldwin đang làm gì vậy nhỉ?” dì Kate hỏi. “Lâu lắm rồi cô ấy không vào thị trấn.”
“À, Jane tội nghiệp! Cô ấy cứ héo hon gầy mòn một cách không sao lý giải được. Người ta chẳng biết cô ấy gặp phải chuyện gì, nhưng tôi e là thật ra đó chỉ là cái cớ để cáo lỗi thôi. Có chuyện gì mà Rebecca Dew cứ cười sằng sặc trong bếp thế nhỉ? Tôi e là các bà sẽ phải vất vả với cô ta lắm cho xem. Trong dòng họ Dew ấy có không biết bao nhiêu người tâm thần bất ổn.”
“Tôi thấy Thyra Cooper đã sinh con rồi,” dì Chatty nói.
“À, phải, con bé tội nghiệp. May phước là chỉ có một thôi. Tôi đã e là cô ta sẽ đẻ đôi. Người nhà Cooper hay sinh đôi lắm.”
“Thyra và Ned quả là một cặp vợ chồng son thắm thiết,” dì Kate nói, như thể đã hạ quyết tâm cứu vớt một thứ gì đó từ đống đổ nát của trần gian.
Nhưng bà Ernestine đời nào chịu thừa nhận ở Gilead có bất kỳ niềm an ủi nào, và ở Lowvale lại càng không.
“Chà, cô ta thật tâm tạ ơn trời đất vì cuối cùng cũng lấy được anh ta. Đã có lúc tôi cứ tưởng anh ta sẽ chẳng quay trở về từ miền Tây nữa. Tôi đã cảnh báo cô ta. ‘Cô có thể tin chắc thể nào anh ta cũng sẽ làm cô thất vọng cho xem,’ tôi bảo cô ta. “Anh ta luôn khiến người khác thất vọng. Tất cả mọi người đều đinh ninh anh ta sẽ chết khi chưa đầy một tuổi, thế nhưng cô thấy đấy, anh ta vẫn còn sống đấy thôi.’ Khi anh ta mua ngôi nhà của Holly, tôi lại cảnh báo cô ta lần nữa. ‘Tôi e là nguồn nước ở đấy chứa đầy mầm bệnh phong hàn đấy,’ tôi nói với cô ta. ‘Năm năm trước, người làm thuê cho nhà Holly đã chết vì bệnh thương hàn.’ Nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra thì họ chẳng thể nào đổ lỗi cho tôi được. Joseph Holly bị đau sao đó ở lưng. Ông ta gọi đó là chứng đau lưng, nhưng tôi e rằng đó chỉ là khởi đầu cho bệnh viêm màng tủy sống thôi.”
“Ông bác Joseph Holly là một trong những người đàn ông tử tế nhất trần đời,” Rebecca Dew nói, mang vào một bình trà đã được châm đầy.
“Chà, ông ấy đúng là tử tế thật,” bà Ernestine u sầu nói. “Quá tử tế là đằng khác! Tôi chỉ e mấy người con trai của ông ấy sẽ đều trở thành kẻ chẳng ra gì thôi. Các cô quá quen với những chuyện như thế rồi mà. Cứ như thể nhất định phải làm sao cho cân bằng ấy. Không đâu, cảm ơn Kate, tôi không dùng thêm trà nữa đâu… chà, có lẽ là một cái bánh hạnh nhân vậy. Chúng không làm dạ dày ấm ách, nhưng tôi e là tôi ăn quá nhiều rồi. Tôi phải chuồn thôi, vì tôi e là chưa kịp về đến nhà thì trời đã tối mất rồi. Tôi không muốn bị ướt chân; tôi sợ chất amoniac lắm. Suốt cả mùa đông chẳng biết có thứ gì cứ chu du suốt từ cánh tay cho đến tận dưới chân tôi. Hết tối này đến tối khác, tôi nằm thức chong chong cùng nó. Chà, chẳng ai biết được tôi đã phải trải qua những gì đâu, nhưng tôi vốn không phải tạng người thích kêu ca phàn nàn. Tôi đã hạ quyết tâm phải dậy đi thăm các cô một lần nữa, vì biết đâu tôi chẳng còn ở đây được thêm mùa xuân nào nữa. Nhưng cả hai cô tàn tạ kinh khủng quá, có khi còn đi trước tôi cũng không biết chừng. Ái chà, tốt nhất là ra đi trong khi hai cô vẫn còn một người để lo khâm liệm cho người kia. Than ôi, gió đang nổi lên rồi kìa! Chỉ e gió mà mạnh lên là kho nhà chúng tôi tốc hết cả mái mất. Mùa xuân này gió nổi dữ lắm rồi. Tôi e là khí hậu đang thay đổi đấy. Cảm ơn, cô Shirley…” khi Anne giúp bà mặc áo khoác… “Chú ý chăm sóc bản thân nhé. Trông cô phờ phạc quá đi mất. Tôi e những người tóc đỏ chẳng bao giờ có thể chất thực sự mạnh khỏe cả.”
“Cháu nghĩ thể chất của cháu không vấn đề gì cả,” Anne mỉm cười, trao cho bà Ernestine một cái mũ, thật khó lòng miêu tả, gắn một cái lông đà điểu châu Phi dài lượt thượt đang nhỏ nước tong tong. “Tối nay cháu bị đau họng một chút, cô Bugle ạ, chỉ có thế thôi.”
“À!” Lại thêm một điềm báo đen tối khác trỗi dậy trong tâm trí bà Ernestine. “Cô nên cẩn thận nếu thấy đau họng. Bệnh bạch hầu và viêm amiđan có những triệu chứng y hệt nhau cho đến tận ngày thứ ba. Nhưng vẫn còn một niềm an ủi… nếu cô mà chết trẻ thì tránh thoát được vô khối rắc rối rồi.”