Vừa xuống khỏi xe buýt, vạt áo khoác đã bị gió hất tung
lên. Mãi đến hôm qua, thời tiết vẫn còn ấm áp, hôm nay lại đột nhiên trở lạnh. Không, chắc do nhiệt độ Tokyo thấp hơn ở Osaka, Sasagaki thầm
nghĩ.
Ông bước đi trên con đường đã trở nên quen thuộc, đúng bốn giờ chiều
thì đến được toà nhà cần đến, cũng gần sát với thời gian dự kiến. Mặc dù tốn chút thời gian vòng qua trung tâm mua sắm ở Shinjuki, nhưng nếu
không mua món quà đã được dặn, e rằng sẽ làm người ông muốn gặp phải
thất vọng.
Ông đi cầu thang lên tầng hai, đầu gối bên phải hơi nhức. Ông đã bắt
đầu cảm nhận sự thay đổi của các mùa qua mức độ đau đớn từ mấy năm trước rồi ấy nhỉ?
Sasagaki dừng chân trước một cánh cửa ở tầng hai. Trên cửa có dán
biển hiệu “Văn phòng thám tử Imaeda”, được lau chùi rất sạch sẽ. Có lẽ
người không biết nhất định sẽ ngỡ ngàng nơi này vẫn đang hoạt động bình
thường.
Sasagaki ấn nút trên thiết bị đàm thoại, cảm giác được trong phòng có tiếng động. Chắc chắn có người đứng ở sau cửa, đang nhìn qua mắt mèo
quan sát vị khách bên ngoài. Khoá mở ra, Sugawara Eri cười tươi tắn mở
cửa. “Bác vất vả quá, lần này hơi muộn nhỉ.”
“Mua cái này tốn chút thời gian.” Sasagaki đưa hộp bánh ga tô ra.
“Oa! Cảm ơn bác, cảm động quá đi mất!” Eri vui vẻ đưa hai tay đón lấy chiếc hộp, rồi mở ngay nắp ra xem thứ ở bên trong. “Bác mua hộ cháu
bánh anh đào thật ạ?”
“Tốn bao nhiêu thời gian mới tìm thấy cửa hàng này đấy. Các cô gái
khác cũng mua loại bánh giống thế này. Nhưng tôi trông có vẻ cũng chẳng
ngon cho lắm.”
“Năm nay bánh anh đào đang được chuộng mà, đều tại cái phim Twin Peaks của Mỹ ấy.”
“Thế thì tôi không hiểu được rồi, bánh ga tô mà cũng có chuộng với
không chuộng à? Cách đây không lâu không phải mới thịnh hành tiramisu gì đó sao, thật không sao hiểu nổi suy nghĩ của các cô gái.”
“Bác không phải hiểu mấy thứ này làm gì. Được rồi, cháu ăn luôn đây. Bác có muốn ăn một chút không? Cháu pha cà phê rồi đấy.”
“Bánh thì khỏi cần, nhưng cà phê thì được.”
“Không thành vấn đề!” Eri hoạt bát trả lời, đi vào trong bếp.
Sasagaki cởi áo khoác, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Bày biện trong
phòng gần như giống hệt lúc Imaeda Naomi còn làm dịch vụ thám tử. Giá
sách bằng sắt và tủ hồ sơ được để nguyên không đụng đến. Chỉ khác là có
thêm một chiếc ti vi, một vài chỗ bày mấy món đồ theo sở thích con gái.
Tất cả đều là của Eri.
“Lần này bác định ở mấy ngày thế?” Eri vừa cầm bình pha cà phê vừa hỏi.
“Vẫn chưa quyết định được, chắc khoảng ba, bốn ngày gì đấy. Tôi không thể xa nhà lâu hơn được.”
“Lo cho bác gái ở nhà ạ?”
“Bà ấy thì cũng chẳng có gì mà phải lo.”
“Bác nói vậy mà được sao? Nhưng mà, có ba bốn ngày thì cũng chẳng làm được gì nhiều nhỉ?”
“Đúng vậy, nhưng cũng chẳng có cách nào khác.”
Sasagaki lấy bao Seven Stars ra, đánh diêm châm một điếu. Trên bàn
làm việc của Imaeda có một cái gạt tàn bằng tuỷ tinh, ông ném que diêm
cháy dở vào trong đó. Mặt bàn làm việc bằng sắt được lau chùi sạch bóng. Imaeda trở về là có thể bắt đầu làm việc ngay được. Chỉ có điều, tờ
lịch trên bàn vẫn dừng lại ở tháng Tám năm ngoái. Đó là thời điểm anh ta mất tích. Đến giờ đã một năm ba tháng rồi.
Sasagaki liếc nhìn Eri. Cô mặc quần bò, vừa cắt bánh anh đào vừa giẫm chân theo nhịp ư ử hát. Trông cô lúc nào cũng lạc quan thoải mái như
thế, nhưng cứ nghĩ đến nỗi buồn và lo lắng trong lòng cô, ông lại thấy
xót xa. Cô không thể nào không xác định về cái chết của Imaeda.
Sasagaki gặp Eri vào khoảng thời gian này năm ngoái. Ông muốn biết
xem quanh Imaeda có thay đổi gì không, bèn đến văn phòng thám tử kiểm
tra, liền thấy một cô gái trẻ lạ mặt sống ở đây, cô gái ấy chính là Eri.
Mới đầu cô rất cảnh giác với Sasagaki, nhưng khi biết được ông là
cảnh sát và còn từng gặp Imaeda trước khi anh ta mất tích, bèn dần dần
mở lòng với ông.
Tuy Eri không nói rõ, nhưng dường như cô và Imaeda có quan hệ yêu
đương, ít nhất thì cô cũng đã coi anh ta là đối tượng của mình. Vì vậy,
cô đã ra sức tìm kiếm tung tích của Imaeda theo cách của mình. Sở dĩ cô
trả lại căn hộ của mình để dọn đến văn phòng thám tử, cũng vì sợ nơi này bị thu hồi sẽ mất hết mọi đầu mối. Sống ở đây, cô có thể kiểm tra thư
từ gửi đến cho Imaeda, cũng có thể gặp những người đến tìm anh ta. May
sao chủ nhà không hề phản đối việc cô ở lại đây. Khách thuê mất tích,
người ta cũng không thể bỏ mặc căn nhà ở đó, đồng ý cho cô dọn vào ở,
hẳn cũng là thuận nước đẩy thuyền thôi.
Sau khi quen biết Eri, mỗi lần đến Tokyo, Sasagaki đều tiện thể ghé
thăm cô. Cô cũng cho ông biết về đường sá và những thứ gì đang thịnh
hành ở Tokyo, trợ giúp được Sasagaki khá nhiều. Mà quan trọng nhất là,
nói chuyện với cô rất vui.
Eri dùng khay bưng ra hai cái ca to và một đĩa nhỏ. Trên đĩa đựng
bánh anh đào Sasagaki mua. Cô đặt cái khay trên mặt bàn làm việc bằng
thép không gỉ.
“Nào, cháu mời bác.” Cô đẩy cái ca màu xanh lam cho Sasagaki.
“Ồ, cảm ơn.” Sasagaki nhận lấy cái ca, uống một ngụm, làm ấm lại cơ thể đang bị lạnh.
Eri ngồi trên ghế của Imaeda, nói, “Cháu ăn đây”, rồi nhồm nhoàm ăn bánh anh đào, vừa nhai vừa giơ tay ra dấu “OK” với Sasagaki.
“Sau đó thế nào, có chuyện gì hay không?” Sasagaki dè dặt hỏi.
Gương mặt tươi tắn của Eri như bao phủ một cái bóng mờ, cô đặt miếng bánh ăn dở xuống đĩa, uống một ngụm cà phê.
“Không có chuyện gì đáng để báo cáo cho bác đâu. Đợt này gần như
không có thư gửi cho anh ấy, dù có người gọi điện tới, cũng chỉ là có
việc muốn uỷ thác thôi.”
Điện thoại của Imaeda vẫn trong trạng thái hoạt động bình thường. Tất nhiên là vì Eri vẫn trả cước định kỳ. Trên danh bạ điện thoại đã đăng
ký là số của Văn phòng thám tử Imaeda nên dĩ nhiên sẽ có người gọi đến
nhờ việc.
“Đã không còn khách trực tiếp đến nữa rồi à?”
“Vâng ạ, đầu năm nay vẫn còn nhiều lắm...”
Nói đoạn, Eri mở ngăn kéo, lấy ra một quyển sổ ghi chép. Sasagaki
biết, cô đã ghi lại mọi việc vào quyển sổ ấy theo cách của mình.
“Mùa hè năm nay có một người đến, tháng Chín có một người nữa, vậy
thôi ạ. Hai người đều là nữ, bà đến mùa hè là khách quay lại.”
“Quay lại?”
“Tức là khách hàng hồi trước từng thuê anh Imaeda điều tra. Bà đó họ
Kawakami, cháu bảo với bà ấy, anh Imaeda nằm viện rồi, trong thời gian
ngắn có thể không xuất viện, bà ấy vô cùng thất vọng ra về. Sau đó cháu
tra lại, thì ra hai năm trước bà ấy đến nhờ điều tra ông chồng ngoại
tình. Hồi đó, hình như không nắm được chứng cứ mấu chốt. Vì vậy, lần này chắc lại muốn điều tra ông chồng nữa. Nhất định là ông chồng kia an
phận được một thời gian lại ngứa ngáy rục rịch rồi.” Eri vui vẻ nói. Cô
vốn rất thích công việc tìm hiểu bí mật của người khác và cũng từng giúp Imaeda làm việc.
“Người đến hồi tháng Chín thì sao? Cũng là khách hàng cũ à?”
“Không phải ạ. Hình như cô ta muốn biết bạn mình trước đây có phải đã từng nhờ anh Imaeda điều tra hay không.”
“Ồ? Nghĩa là sao?”
“Nghĩa là,” Eri ngẩng lên khỏi quyển sổ, nhìn Sasagaki nói, “cô ta
muốn biết khoảng thời gian một năm trước, có người nào họ Akiyoshi nhờ
anh Imaeda điều tra hay không.”
“Hừm.” Nghe cái họ “Akiyoshi” đó, Sasagaki cảm thấy hơi quen tai, nhưng ông không nhớ ra nổi. “Câu hỏi kỳ lạ thật.”
“Thực ra cũng không hẳn là lạ đâu ạ.” Eri cười gian xảo.
“Nghĩa là sao?”
“Hồi trước cháu có nghe anh Imaeda nói, mấy kẻ ngoại tình ấy, thực ra rất nhiều người sợ vợ hoặc chồng thuê thám tử điều tra mình. Vậy nên
cháu nghĩ người phụ nữ kia có lẽ cũng thế. Chắc chắn cô ta đã phát hiện
ra dấu vết một năm trước ông chồng mình từng thuê thám tử nên mới chạy
đến đây để xác nhận.”
“Nhìn cái mặt tự tin của cháu kìa.”
“Trực giác của cháu với mấy chuyện này là chuẩn nhất đấy. Còn nữa
nhé, cháu bảo cô ta, ngay lúc ấy không thể giúp cô ta tra cứu được, khi
nào tìm được cháu sẽ liên hệ lại, kết quả là cô ta bảo đừng gọi điện về
nhà mà hãy gọi điện đến chỗ làm. Thế chẳng phải rất lạ hay sao? Chứng tỏ cô ta sợ ông chồng nghe điện thoại đấy mà.”
“Ừm. Nói như vậy, người phụ nữ này cũng họ... à...”
“Akiyoshi, nhưng cô ta nói với cháu là mình họ Kurihara. Cháu nghĩ
hẳn đây là họ trước khi kết hôn của cô ta và ở nơi làm việc vẫn dùng họ
này. Rất nhiều phụ nữ tiếp tục đi làm sau khi kết hôn đều làm vậy cả.”
Sasagaki đưa mắt đánh giá lại một lượt cô gái đang ngồi trước mặt, lắc lắc đầu.
“Giỏi quá đấy, Eri, cháu chẳng những có năng khiếu thám tử, mà còn có thể trở thành cảnh sát hình sự ấy chứ.”
Eri đắc ý ra mặt, cười hì hì.
“Vậy để cháu suy luận tiếp nhé. Cô Kurihara kia hình như làm dược sĩ ở bệnh viện trực thuộc đại học Teito. Vì vậy đối tượng ngoại tình của cô
ta chính là bác sĩ trong bệnh viện, vả lại tay kia còn có vợ có con nữa. Đây chính là loại ngoại tình kép phổ biến nhất hiện nay đó mà.”
“Kiểu gì vậy chứ! Thế này thì không còn là suy luận nữa rồi, phải gọi là ảo tưởng mới đúng.” Sasagaki chau mày cười cười.
2
Rời khỏi văn phòng thám tử Imaeda, Sasagaki đến khách sạn ở vùng ven khu Shinjuki, lúc ông đi vào vừa đúng bảy giờ.
Nhìn tổng thể, khách sạn này đem lại cảm giác tối tăm lạnh lẽo, không có đại sảnh cho ra hồn, quầy lễ tân cũng chỉ là một cái bàn dài kê
ngang. Một tay trung niên không mấy hợp làm dịch vụ đang vênh mặt đứng
đó. Thế nhưng, nếu muốn ở lại Tokyo mấy ngày, thì đành chịu ở trong
khách sạn kiểu này vậy. Thực ra thì, ngay cả chỗ ở thế này, đối với
Sasagaki cũng không phải chuyện dễ dàng gì. Chỉ là ông không thể nào ở
được kiểu sách sạn con nhộng đang thịnh hành hiện nay. Ông từng ở thử
hai lần, nhưng bộ xương già không chịu đựng nổi, cũng chẳng thể xua tan
mệt mỏi. Ông chỉ cần một gian phòng đơn để nghỉ ngơi cho tử tế, dù đơn
sơ một chút cũng không ngại gì.
Ông làm xong thủ tục nhập phòng như thường lệ, người đàn ông lạnh như băng kia chợt nói, “Ở đây có lời nhắn cho ông Sasagaki.” đoạn đưa cho
ông một phong thư màu trắng cùng với chìa khoá.
“Lời nhắn?”
“Đúng thế,” Nói dứt lời, tay trung niên bắt đầu làm việc khác.
Sasagaki mở phong bì ra xem, có một mảnh giấy nhớ, bên trên viết “Sau khi vào phòng, hãy gọi điện đến phòng 308”.
Chuyện này là sao? Sasagaki nghiêng đầu. Ông không nghĩ ra được ai
chuyển lời nhắn này. Thái độ của tay nhân viên quầy lễ tân chẳng những
không ra gì, mà còn thiếu tập trung nên Sasagaki không khỏi nghi ngờ
không biết có phải y đưa nhầm tin nhắn của người khác hay không.
Sasagaki ở phòng 321, cùng một tầng với người để lại lời nhắn. Ông
vào thang máy, trên đường tới phòng mình, có đi qua phòng 308. Sasagaki
do dự giây lát, nhưng rồi vẫn gõ cửa.
Bên trong vang lên tiếng dép lê loẹt quẹt, kế đó, cánh cửa mở ra.
Nhìn thấy gương mặt xuất hiện sau cánh cửa, Sasagaki bất giác ngẩn
người, thật sự quá bất ngờ!
“Giờ bố mới đến ạ, muộn thế.” Người nở nụ cười cất tiếng là Koga Hisashi.
“Cậu... sao cậu lại ở đây?” Sasagaki hơi lắp bắp hỏi.
“Chuyện này ấy à, nguyên nhân thì nhiều lắm. Con đang đợi bố đây, bố ăn tối chưa ạ?”
“Vẫn chưa.”
“Vậy chúng ta đi kiếm cái gì ăn đi. Hành lý của bố có thể để tạm đây
trước cũng được.” Koga mang hành lý của Sasagaki vào phòng, mở tủ quần
áo, lấy áo vest và áo khoác ngoài.
Koga hỏi Sasagaki muốn ăn gì, Sasagaki bảo chỉ cần không phải đồ Tây
là được. Nghe vậy anh liền dẫn ông đến một quán rượu nhỏ khá bình dân.
Trong quán có chỗ ngồi trên chiếu tatami, kê bốn chiếc bàn nhỏ hình
vuông. Họ lựa một trong số đó rồi ngồi xuống đối diện nhau. Koga nói,
anh ta thường hay ghé quán rượu này mỗi khi đến Tokyo, sashimi và món
kho đều rất khá.
“Chạm cốc trước đã.” Koga cầm chai bia lên rót, Sasagaki giơ cốc lên
đón lấy. Ông định rót lại cho Koga thì anh khước từ, rồi tự châm đầy cốc mình.
Sau khi chạm cốc, uống một ngụm, Sasagaki hỏi, “Sao cậu lại đến đây?”
“Cục Cảnh sát có hội nghị, đáng lẽ trưởng phòng phải đi, nhưng ông ấy nói quả thực không lấy đâu ra thời gian, nên bảo con đi thay. Thật
chẳng ra sao cả.”
“Chứng tỏ cậu được trọng dụng còn gì, nên mừng mới đúng.” Sasagaki
giơ đũa ra gắp một miếng bụng cá ngừ. Mùi vị quả nhiên rất ngon.
Koga từng được Sasagaki dìu dắt, giờ đã thành trưởng ban điều tra của Sở Cảnh sát tỉnh Osaka. Sasagaki biết có một số người ở sau lưng gọi
anh là con mọt thi cử vì anh liên tiếp đỗ các kỳ thi thăng chức. Nhưng
theo Sasagaki thấy, Koga cũng chưa từng lơ là nghiệp vụ thực tế. Anh vẫn giỏi nghiệp vụ như những người khác, đồng thời lại phấn đấu chăm chỉ,
hết lượt này đến lượt khác vượt qua những kỳ thi thăng cấp khó khăn, nên mới khiến những người bình thường khó mà theo kịp.
“Nghĩ cũng thật tức cười,” Sasagaki nói, “một sĩ quan cảnh sát cao
cấp bận rộn, sao lại mò đến nơi này, còn ở trong khách sạn giá rẻ nữa
chứ.”
Koga cười thiểu não.
“Đúng vậy. Bố à, bố cũng phải chọn cái khách sạn nào ra hồn một chút chứ.”
“Đừng đùa nữa, tôi đâu có đi chơi.”
“Vấn đề chính là ở đây.” Koga rót thêm bia vào cốc của Sasagaki. “Nếu bố đến đây chơi thì con chẳng có gì để nói cả. Bố làm việc như thân
trâu thân ngựa đến tận mùa xuân năm nay rồi, giờ hoàn toàn có thể đi
thăm thú khắp nơi. Bố tuyệt đối có quyền ấy. Nhưng mà, hễ cứ nghĩ đến
mục đích bố đến Tokyo này, con thực sự không cười nổi. Mà cô cũng lo
lắng lắm đấy.”
“Hừ, quả nhiên là Katsuko bảo cậu đến, thật hết cách với bà ấy. Bà ấy coi trưởng ban điều tra của Sở Cảnh sát Osaka thành ra thứ gì vậy?”
“Không phải cô bảo con đến đâu. Con nghe cô nói chuyện, thấy lo cho bố quá nên mới đến đấy.”
“Cũng như nhau cả thôi! Katsuko cằn nhằn với cậu chứ gì, hay là nói với Orie?”
“Chuyện này thì, sự thật là mọi người đều rất lo lắng.”
“Hừ! Thật chẳng ra làm sao.”
Koga cũng là thân thích của Sasagaki. Vì anh đã lấy Orie, cháu gái bà Katsuko, vợ của Sasagaki. Họ không qua mai mối, mà yêu nhau rồi mới kết hôn. Nhưng Sasagaki không rõ quá trình hai người quen biết nhau cho
lắm. Có lẽ là bà Katsuko dắt mối tơ hồng, nhưng bọn họ đều giấu giếm
ông, cho đến tận bây giờ, khi đã qua gần hai chục năm, trong lòng ông
vẫn còn khúc mắc.
Hai chai bia đều đã rỗng không, Koga bèn gọi rượu trắng. Sasagaki bắt đầu đụng đũa vào món kho. Tuy nấu theo kiểu Kanto, nhưng vẫn thơm ngon.
Koga rót rượu trắng vào cốc của Sasagaki, buông ra một câu, “Bố vẫn không bỏ được vụ án ấy ạ?”
“Đó là vết thương cũ của tôi.”
“Nhưng mà, đâu chỉ có vụ ấy bị xếp xó. Vả lại bảo là bị xếp xó cũng
không biết chính xác hay không nữa. Hung thủ có thể chính là kẻ đã chết
vì tai nạn xe cộ kia. Bên tổ chuyên án hẳn cũng thiên về ý kiến này.”
“Terasaki không phải hung thủ.” Sasagaki uống một hơi hết sạch rượu
trong cốc. Vụ án mạng xảy ra đã hơn mười chín năm, nhưng trong đầu ông
vẫn nhớ kỹ tên họ của từng nhân vật liên quan.
Vụ án mạng tay chủ tiệm cầm đồ mười chín năm về trước!
“Tìm thế nào cũng không thấy một triệu yên của Kirihara quanh
Terasaki. Tuy có người cho rằng y đã giấu đi rồi, nhưng tôi lại không
nghĩ thế. Khi ấy, Terasaki nợ nần ngập cổ, nếu có một triệu yên, chắc
hẳn y đã đem đi trả nợ rồi, nhưng y lại không làm thế. Điều này chỉ có
một cách lý giải duy nhất, chính là y không có số tiền đó. Tức là, y
không giết Kirihara.”
“Về cơ bản con tán thành ý kiến này. Lúc đó chính vì nghĩ như vậy, mà sau khi Terasaki chết, con cũng theo bố đi hỏi han khắp chốn. Nhưng mà
bố ơi, đã gần hai chục năm rồi.”
“Thời hạn khởi tố đã qua rồi, chuyện này tôi biết. Biết thì biết,
nhưng duy chỉ có vụ án này, nếu không tra ra tận chân tơ kẽ tóc, tôi có
chết cũng không nhắm được mắt.”
Koga đang định rót rượu vào cái cốc không của Sasagaki, thì ông đã
chặn lại giật lấy chai rượu, rót đầy cốc cho anh trước, kế đó mới rót
rượu cho mình.
“Đúng thế, không chỉ có vụ án này bị xếp xó, những vụ lớn hơn, tàn
nhẫn hơn nữa, cuối cùng thậm chí còn chẳng chạm được vào gấu áo hung thủ cũng rất nhiều. Mỗi vụ án đều khiến người ta phải thất vọng, làm những
kẻ điều tra án như chúng ta chẳng có mặt mũi nào mà gặp người khác. Thế
nhưng, tôi không thể buông được vụ án này xuống là có lý do. Tôi cảm
thấy, chính vì vụ án này không bị phá, mà đã hại mấy người vô tội phải
gặp bất hạnh.”
“Nghĩa là sao ạ?”
“Có một cái mầm lẽ ra phải nhổ ngay từ lúc ấy, nhưng vì không nhổ đi, để cái mầm ấy ngày một lớn dần, trưởng thành rồi còn nở hoa nữa, một
đóa hoa độc ác.” Sasagaki mở miệng, để rượu chảy vào cổ họng.
Koga nới lỏng cà vạt và cúc áo trên cùng. “Bố muốn nói đến Karasawa Yukiho?”
Sasagaki cho tay vào túi trong áo khoác, lấy ra một tờ giấy gấp làm đôi, đặt trước mặt Koga.
“Đây là gì vậy?”
“Cậu xem đi.”
Koga mở giấy ra, hai hàng lông mày rậm rạp nhíu chặt lại.
“Cửa hàng R&Y Osaka khai trương... Đây là...”
“Cửa hàng của Karasawa Yukiho. Lợi hại không, rốt cuộc cũng xuất hiện tại Osaka rồi. Ở khu Shinsaibashi. Cậu xem, trong đó nói là sẽ khai
trương trước lễ Giáng sinh một ngày.”
“Đây chính là đóa hoa độc ác đó sao?” Koga gấp tờ rơi ấy lại ngay ngắn, đặt trước mặt Sasagaki.
“Coi như là trái cây đơm ra từ đó đi.”
“Từ bao giờ? Bố bắt đầu nghi ngờ Karasawa Yukiho từ bao giờ? Mà
không, có phải từ hồi cô ta vẫn còn tên là Nishimoto Yukiho không?”
“Hồi cô ta vẫn còn là Nishimoto Yukiho. Một năm sau khi Kirihara
Yosuke bị giết, Nishimoto Fumiyo cũng chết. Sau vụ án ấy, cách nhìn của
tôi đối với cô bé gái đó đã thay đổi.”
“Vụ án này hình như được coi là tai nạn và khép lại rồi nhỉ. Nhưng,
đến cuối cùng bố vẫn kiên trì cho rằng đó không đơn thuần chỉ là chết do tai nạn.”
“Tuyệt đối không phải. Trong báo cáo nói, nạn nhân uống thứ rượu mà
bình thường chị ta không uống, lại nốc vào một lượng thuốc cảm cao gấp
năm lần lượng dùng bình thường. Làm gì có tai nạn kiểu ấy chứ? Nhưng rất tiếc, vụ ấy không phải do tổ chúng ta phụ trách nên không thể tùy tiện
nêu ý kiến được.”
“Chắc chắn cũng có người nghĩ là tự sát, chỉ có điều...” Koga khoanh tay trước ngực, nét mặt như đang nhớ lại.
“Lời chứng của Yukiho. Cô ta nói mẹ bị cảm, lúc lạnh sẽ uống rượu trắng. Thế nên mới loại trừ khả năng tự sát này.”
“Bình thường không ai nghĩ là cô con gái lại ngụy tạo lời chứng.”
“Nhưng mà, ngoài Yukiho ra, không ai nói Fumiyo bị cảm cả. Thế nên mới có khả năng con bé nói dối.”
“Sao phải nói dối chứ? Đối với Yukiho, dù tự sát hay tai nạn thì có
gì khác biệt đâu? Nếu nói một năm trước Fumiyo đã mua bảo hiểm nhân thọ
thì có lẽ còn là muốn tiền bồi thường, nhưng đâu có chuyện đó. Vả lại,
khi ấy Yukiho vẫn còn học cấp I, chắc không nghĩ xa được đến thế...” Nói đến đó, Koga đột nhiên giật nảy mình. “Chắc không phải bố định nói,
Fumiyo bị Yukiho giết đấy chứ?”
Koga nói bằng giọng đùa cợt, nhưng Sasagaki lại không hề cười.
“Tôi không bảo thế, nhưng có thể con bé đã giở trò gì đó.”
“Giở trò ư?”
“Ví dụ, có thể con bé đã phát hiện mẹ mình có dấu hiệu tự sát, nhưng giả bộ không nhận ra.”
“Ý bố là, Yukiho hy vọng Fumiyo chết?”
“Sau khi Fumiyo chết không được bao lâu, Yukiho liền được bà Karasawa Reiko nhận nuôi. Có lẽ từ trước đó rất lâu họ đã đề cập đến chuyện này
rồi. Rất có thể Fumiyo không đồng ý, nhưng bản thân Yukiho lại muốn làm
con nuôi.”
“Có điều, cũng không thể vì vậy mà thấy mẹ đẻ mình chết cũng không cứu chứ?”
“Con bé ấy có thể thản nhiên làm chuyện đó. Nó che giấu việc mẹ mình
tự sát còn vì một lý do khác. Có thể đối với nó đây mới là lý do quan
trọng nhất. Đó là đánh giá của người ngoài. Mẹ chết vì tai nạn sẽ khiến
cho người đời thương cảm. Nhưng nếu là tự sát ắt sẽ bị người ta nhìn với ánh mắt khác, nghi ngờ đằng sau có nguyên nhân gì đó không đơn giản.
Nếu nghĩ cho tương lai, lựa chọn bên nào hẳn là rất rõ ràng rồi.”
“Con hiểu ý bố, nhưng... vẫn hơi khó chấp nhận.” Koga lại gọi thêm hai chai rượu trắng.
“Tôi cũng vậy, khi ấy vẫn chưa nghĩ đến những chuyện đó. Trong quá
trình lần theo điều tra Karasawa Yukiho, mới dần dà sắp xếp ra những suy nghĩ này. Ồ, cái này ngon này! Là cái gì tẩm bột rán vậy?” Ông cầm đũa
gắp lên một miếng nhỏ, cẩn thận quan sát.
“Bố đoán xem?” Koga đắc ý cười.
“Không biết nên mới hỏi cậu chứ, là cái gì vậy? Vị này tôi chưa ăn bao giờ.”
“Natto đấy ạ.”
“Natto? Cái thứ đậu đã thối hoắc ra ấy à?”
“Vâng ạ.” Koga cười cười đưa cốc rượu lên miệng, “Con nghĩ bố có ghét ăn Natto mấy chăng nữa, nếu làm kiểu này, chắc sẽ ăn được.”
“Ờ, đây chính là cái thứ Natto dính nhơm nhớp ấy à?” Sasagaki ngửi
ngửi, xem xét kỹ càng rồi mới bỏ vào miệng. Một vị bùi bùi lan tỏa trong miệng. “Ừm, ngon!”
“Có nghĩa là không nên có định kiến với bất kỳ điều gì.”
“Hoàn toàn chính xác.” Sasagaki uống rượu, cảm giác lồng ngực ấm sực
lên. “Không sai, định kiến. Chính vì vậy, chúng ta mới phạm phải sai lầm lớn. Sau khi bắt đầu cảm thấy Yukiho không phải một cô bé bình thường,
tôi xem xét lại vụ án mạng chủ tiệm cầm đồ, và phát hiện ra chúng ta đã
sơ sót mấy điểm quan trọng.”
“Điểm quan trọng gì ạ?” Ánh mắt Koga nghiêm túc.
Sasagaki nhìn lại anh ta. “Đầu tiên, dấu giày.”
“Dấu giày?”
“Dấu giày ở hiện trường nơi phát hiện cái xác. Trên sàn nhà có một
lớp bụi, để lại khá nhiều dấu giày. Nhưng chúng ta hoàn toàn không để ý. Cậu còn nhớ là tại sao không?”
“Vì không phát hiện ra dấu giày nào thuộc về hung thủ, đúng không ạ?”
Sasagaki gật đầu.
“Dấu giày ở hiện trường, ngoài giày da của nạn nhân ra, toàn là giày
thể thao của lũ trẻ. Chỗ đó bị lũ trẻ con coi là sân chơi, người phát
hiện ra xác chết lại là học sinh trường cấp I Oe, có vết giày trẻ con là chuyện đương nhiên. Thế nhưng, kẽ hở chính là đây.”
“Ý bố là, hung thủ cũng đi giày thể thao của trẻ con?”
“Cậu không cảm thấy, chúng ta thật sự rất sơ suất khi hoàn toàn không nghĩ đến điểm này à?”
Lời nói của Sasagaki làm khóe miệng Koga nhếch lên. Anh ta tự rót
rượu cho mình rồi uống một hơi cạn sạch. “Trẻ con không thể giết người
kiểu đó được chứ?”
“Đổi một góc độ khác thì chính vì là trẻ con nên mới làm được. Vì nạn nhân không cảnh giác.”
“Nhưng mà...”
“Chúng ta còn bỏ sót một điểm.” Sasagaki đặt đũa xuống, giơ ngón trỏ lên. “Chính là chứng cứ ngoại phạm.”
“Có sơ hở gì ạ?”
“Chúng ta để mắt đến Nishimoto Fumiyo, sau khi xác nhận chứng cứ
ngoại phạm của chị ta, việc đầu tiên nghĩ đến là có thể chị ta có đồng
phạm là đàn ông. Vì vậy mà tìm được Terasaki. Nhưng trước đó, chúng ta
đáng lẽ phải chú ý hơn đến một người khác.”
“Con còn nhớ.” Koga vê cằm, ngước mắt lên. “Hình như lúc đó Yukiho đã đến thư viện rồi.”
Sasagaki nhìn anh ta nói. “Cậu nhớ cũng rõ thật đấy.”
Koga cười thiểu não. “Cả bố cũng cho rằng con là loại mọt thi cử không biết nghiệp vụ thực tế sao?”
“Không phải, tôi không có ý đó. Chỉ là tôi cho rằng, cảnh sát chúng
ta không ai nắm được hành tung của Yukiho ngày hôm đó. Không sai, Yukiho đã đến thư viện. Nhưng mà, điều tra kỹ càng thì thư viện ấy và tòa nhà
hiện trường xảy ra vụ án mạng chỉ gần trong gang tấc. Đối với Yukiho,
tòa nhà ấy nằm ngay trên đường từ thư viện trở về nhà.”
“Con hiểu ý bố, nhưng nói gì thì nói, con bé khi ấy mới học lớp năm mà, lớp năm cũng mới...”
“Mười một tuổi. Tuổi ấy đã có trí tuệ và kiến thức tương đối rồi.”
Sasagaki lấy ra bao Seven Stars, rút một điếu đưa lên miệng, rồi tìm
diêm.
Koga nhanh chóng vươn tay ra, trong tay cầm bật lửa. “Bố nói đúng.”
Anh ta vừa nói vừa đánh lửa. Bật lửa cao cấp ngay cả tiếng xẹt lửa cũng
rất trầm.
Sasagaki cảm ơn, rồi mới ghé lại gần ngọn lửa châm thuốc. Vừa phun ra một làn khói trắng, ông vừa nhìn chằm chằm vào tay Koga. “Dunhill à?”
“Không, Cartier.”
Sasagaki “ừm” một tiếng, kéo cái gạt tàn lại.
“Sau khi Terasaki chết vì tai nạn ô tô, chúng ta đã tìm được trong xe của y một chiếc bật lửa Dunhill. Cậu còn nhớ không?”
“Khi ấy mọi người nghi ngờ đó là bật lửa của tay chủ tiệm cầm đồ bị giết, nhưng không tra ra được, bèn gác lại đó.”
“Tôi cho rằng đó chính là bật lửa của nạn nhân, nhưng hung thủ không
phải Terasaki. Theo như suy luận của tôi, kẻ muốn Terasaki gánh tội nếu
không phải đã lén lút bỏ thứ đó trong xe, thì là đã tìm cớ gì đó mà đưa
cho y.”
“Ý bố đó cũng là mánh lới của Yukiho à?”
“Suy luận như vậy là hợp lý. Còn hơn nói Terasaki tình cờ lại dùng đúng loại bật lửa giống nạn nhân.”
Koga thở dài một tiếng, ngay sau đó lại trầm ngâm.
“Con thật sự khâm phục sự linh hoạt của bố khi nghi ngờ Yukiho. Đúng
là có thể hồi đó chúng ta đã sơ hở khi không điều tra kỹ càng về cô ta
với lý do Yukiho còn nhỏ. Nhưng bố à, đây chẳng qua chỉ là một khả năng
thôi, có phải không? Bố có chứng cứ quan trọng nào chứng minh Yukiho
chính là hung thủ không?”
“Chứng cứ quan trọng...” Sasagaki hít một hơi thuốc, chầm chậm phả
khói ra. Trong chớp mắt, làn khói thuốc ngưng tụ lại trên đỉnh đầu Koga, rồi nhanh chóng tản đi. “Không có, tôi chỉ có thể nói là không có.”
“Nếu đã vậy, chi bằng hãy nghĩ lại một lần nữa từ đầu xem. Với lại,
bố à, rất đáng tiếc, vụ án này đã quá thời hạn khởi tố rồi. Cho dù bố có tìm ra hung thủ thật sự, chúng ta cũng chẳng làm gì được hắn.”
“Tôi biết chứ.”
“Vậy...”
“Cậu nghe tôi nói đã.” Sasagaki dụi điếu thuốc vào gạt tàn, sau đó
đưa mắt nhìn xung quanh, kiểm tra thấy không có ai nghe trộm mới tiếp
lời. “Cậu đã hiểu lầm một chuyện quan trọng nhất, tôi không phải đang
đuổi theo thủ phạm sát hại tay chủ tiệm cầm đồ kia. Tiện thể cho cậu
biết luôn, tôi cũng không chỉ đuổi theo một mình Karasawa Yukiho.”
“Bố đang đuổi theo một kẻ khác?” Hai mắt Koga sáng bừng lên, bắn ra
những tia nhìn sắc bén, gương mặt cũng xuất hiện biểu cảm của một trưởng ban điều tra.
“Tôi đang đuổi theo,” Sasagaki nở nụ cười đắc ý, “cả tôm pháo và cá bống trắng.”
3
Thời gian khám bệnh của bệnh viện trực thuộc đại học Teito bắt đầu từ chín giờ sáng, còn thời gian làm việc của Kurihara Noriko
thì bắt đầu từ tám giờ năm mươi phút. Đó là vì từ lúc bệnh viện bắt đầu
khám bệnh cho đến lúc đơn thuốc đưa tới phòng dược, có một khoảng thời
gian chênh lệch tương đối dài.
Khi đơn thuốc đưa tới phòng dược, các dược sĩ sẽ lấy thuốc theo nhóm
hai người. Một người điều chế thuốc, người còn lại xác nhận xem có sai
sót gì không, rồi cho thuốc vào túi. Người xác nhận phải đóng dấu lên
túi thuốc.
Ngoài phục vụ các bệnh nhân đến khám, còn có công việc ở các phòng
bệnh nội trú, chẳng hạn như đưa thuốc tiêm hoặc điều chế thuốc khẩn cấp.
Hôm đó, trong lúc Noriko cùng đồng nghiệp đang tối mắt tối mũi với
những công việc này, có một người đàn ông cứ ngồi ở góc phòng dược. Anh
ta là một phó giáo sư trẻ tuổi của khoa Y, cặp mắt từ đầu chí cuối chăm
chú dán vào màn hình máy tính.
Từ hai năm về trước, đại học Teito bắt đầu tích cực tiến hành trao
đổi thông tin với các cơ quan nghiên cứu khác qua hệ thống máy tính. Một trong những thành quả cụ thể nhất chính là tiến hành hợp tác trực tuyến với trung tâm nghiên cứu của một công ty bào chế dược phẩm. Nhờ vậy,
phía bệnh viện có thể thông qua hệ thống này lấy được các số liệu cần
thiết về các loại dược phẩm do công ty này sản xuất và tiêu thụ.
Về cơ bản, bất cứ ai cũng có thể sử dụng được hệ thống này, nhưng
điều kiện tiên quyết là phải có tên người dùng và mật khẩu. Noriko có cả hai thứ, song từ khi cỗ máy chẳng rõ dùng để làm gì này chuyển vào đây, cô chưa từng chạm đến nó. Khi muốn tìm hiểu các thông tin liên quan đến dược phẩm, cô sẽ dùng cách thức trước đây, tức là hỏi công ty sản xuất. Những dược sĩ khác cũng làm vậy.
Mọi người đều biết tay phó giáo sư trẻ tuổi ngồi trước màn hình máy
tính đang hợp tác với một công ty dược phẩm, cùng tiến hành nghiên cứu
gì đó. Noriko cho rằng, hệ thống này đối với những người như vậy mà nói
hẳn là thuận tiện lắm. Nhưng máy tính dường như không phải hoàn hảo gì.
Chỉ mấy ngày trước thôi, kỹ thuật viên ở bên ngoài vừa đến thảo luận với các bác sĩ, bọn họ nghi ngờ máy tính đã bị hacker thâm nhập.
Tất nhiên, Noriko hoàn toàn chẳng hiểu gì về mấy chuyện này.
Buổi chiều, Noriko xuống phòng bệnh hướng dẫn các bệnh nhân nội trú
dùng thuốc, bàn bạc với các bác sĩ và y tá về thuốc dùng cho người bệnh, sau đó về phòng Dược pha chế thuốc. Đây là một ngày như mọi ngày khác.
Trong lúc cô làm những công việc hằng ngày ấy, đồng hồ đã chỉ năm giờ.
Đang chuẩn bị về nhà thì có đồng nghiệp gọi cô, bảo là có điện thoại tìm.
Người cô nôn nao. Có lẽ là anh ta gọi.
“A lô.” Cô nói vào ống nghe, giọng hơi khàn khàn.
“À... cô Kurihara Noriko phải không?” Là giọng đàn ông, nhưng không
hề giống với giọng nói mà Noriko hằng chờ đợi. Giọng đối phương nhỏ đến
nỗi khiến người ta liên tưởng đến người mắc bệnh, nghe hơi quen tai.
Cô trả lời. “Vâng tôi đây.”
“Cô còn nhớ tôi không? Tôi là Fujii, Fujii Tamotsu.”
“Anh Fujii...” Vừa thốt ra cái tên này, Noriko cũng nhớ ra luôn.
Fujii Tamotsu là người đàn ông cô quen qua công ty mai mối, người duy
nhất đã hẹn hò đến lần thứ ba. Cô ậm ờ một tiếng. “Anh khỏe không ạ?”
“Vâng, cũng tàm tạm. Cô Kurihara cũng vẫn khỏe chứ?”
“Vâng..”
“Thực ra, giờ tôi đang ở gần bệnh viện. Vừa nãy tôi ở trong đó trông thấy cô, hình như cô gầy đi một chút.”
“Thế ạ...” Noriko rất kinh ngạc, không biết rốt cuộc anh ta tìm mình làm gì.
“Xin hỏi, lát nữa có thể gặp nhau được không? Uống một tách trà.”
Nghe người đàn ông nói, Noriko cảm thấy phiền phức vô cùng. Cứ tưởng anh ta có chuyện gì quan trọng.
“Thật ngại quá, hôm nay tôi có việc rồi.”
“Một lát thôi cũng được. Có chuyện này dù thế nào tôi cũng phải nói với cô. Chỉ cần ba mươi phút thôi, được không?”
Noriko cố ý thở dài thành tiếng để đối phương nghe thấy.
“Xin anh đừng như vậy nữa. Anh chỉ gọi điện đến thôi đã gây phiền phức cho tôi rồi, tôi gác máy đây.”
“Xin gượm đã. Vậy xin hãy trả lời một câu hỏi của tôi thôi. Cô vẫn sống chung với người đó chứ?”
“Hả?”
“Nếu cô vẫn sống chung với anh ta, tôi nhất định phải nói chuyện này cho cô biết.”
“Tôi muốn nói trực tiếp với cô.” Có lẽ cảm thấy câu nói này đã thu hút được sự quan tâm của cô, người đàn ông kiên quyết nói.
Noriko hơi do dự, nhưng không thể phớt lờ được.
“Được rồi, chúng ta gặp nhau ở đâu?”
Địa điểm Fujii chỉ định là một quán cà phê cách bệnh viện mấy phút đi bộ, ở ngay gần ga Ogikubo.
Cô vừa bước vào cửa, người đàn ông ngồi ở phía trong đã giơ tay vẫy
vẫy. Thân hình gầy gò như con bọ ngựa của anh ta vẫn không hề thay đổi.
Anh ta mặc bộ vest màu xám, nhưng cái áo trông cứ như thể treo trên mắc
áo vậy.
“Lâu lắm không gặp.” Noriko ngồi xuống đối diện với Fujii.
“Tôi xin lỗi vì đột nhiên lại gọi điện thoại cho cô thế này.”
“Là chuyện gì vậy ạ?”
“Uống chút gì trước đã.”
“Không cần đâu. Nghe anh nói xong là tôi đi luôn.”
“Nhưng mà, chuyện ấy không nói hết ngay được trong vài phút đâu.”
Fujii vẫy nhân viên phục vụ, gọi trà sữa Royal, sau đó nhìn Noriko mỉm
cười. “Cô thích trà sữa Royal, đúng không nhỉ?”
Đúng là trước đây khi hẹn hò với anh ta, cô thường gọi loại đó. Thấy
anh ta còn nhớ cả chuyện này, Noriko cảm thấy không thoải mái cho lắm.
“Mẹ anh vẫn khỏe chứ?” Cô muốn lấy chuyện này ra móc máy anh ta.
Gương mặt Fujii đột nhiên trở nên u ám, anh ta lắc đầu. “Mẹ tôi mất nửa năm trước rồi.”
“Ôi... Vậy sao. Tôi xin chia buồn cùng anh. Bác bị bệnh ạ?”
“Không, là tai nạn, bị nghẹn chết.”
“Ăn bánh giầy hay gì đó ạ?”
“Không, là bông.”
“Bông?”
“Nhân lúc tôi không để ý, bà đã ăn bông trong chăn. Tôi thực sự không hiểu nổi tại sao bà lại làm thế nữa. Lúc lấy ra xem, cục bông ấy còn to hơn quả bóng mềm nữa. Cô có tin nổi không?”
Noriko lắc đầu, cảm thấy thực khó mà tin nổi.
“Tôi vừa đau lòng vừa tự trách mình, chẳng còn tâm trí làm gì trong
một thời gian. Nhưng thương tâm thì thương tâm trong lòng cũng không
khỏi thấy nhẹ nhõm, thầm nhủ, à, sau này không cần phải lo mẹ đi lung
tung nữa.” Fujii thở hắt ra một hơi.
Noriko có thể hiểu được tâm trạng này của anh ta. Do công việc, cô đã chứng kiến nhiều người mệt mỏi vì phải chăm sóc người nhà bị bệnh rồi.
Nhưng mà, cô thầm nghĩ, chuyện này không thể oán trách tôi được.
Trà sữa đã được bưng ra, cô uống một ngụm. Fujii nhìn cô, nheo nheo mắt lại, “Lâu lắm không thấy cô uống hồng trà như vậy rồi.”
Noriko cụp mí mắt xuống, không biết nên đối đáp thế nào.
“Thực ra khi mẹ tôi qua đời, ngoài thở phào nhẹ nhõm ra, tôi còn một
suy nghĩ không an phận nữa.” Fujii tiếp tục. “Chính là, giờ chắc cô ấy
chấp nhận qua lại với mình rồi nhỉ. Cô ấy mà tôi nói, chắc em cũng biết
là ai đấy?”
“Chuyện đã lâu rồi mà...”
“Tôi vẫn không thể quên được em nên đã đến khu căn hộ của em. Đó là
khoảng một tháng sau khi mẹ tôi qua đời. Khi ấy tôi mới biết em đã sống
chung với người khác rồi. Nói thực lòng, tôi rất sốc, nhưng ngoài ra,
tôi cũng hết sức kinh ngạc khi nhìn thấy anh ta.”
Noriko nhìn Fujii. “Có gì mà kinh ngạc chứ?”
“Thật ra tôi từng gặp anh ta rồi.”
“Không phải chứ?”
“Thật đó. Tôi không biết anh ta tên là gì, nhưng khuôn mặt anh ta thì tôi nhớ rất rõ.”
“Anh gặp anh ấy ở đâu?”
“Ở ngay bên cạnh em.”
“Sao?”
“Có lẽ khoảng tháng Tư năm ngoái. Nói thực với em, hồi đó chỉ cần có
thời gian rảnh là tôi lại chạy đến bệnh viện hoặc khu nhà em ở để ngắm
em, chỉ là em không phát hiện ra thôi.”
“Tôi hoàn toàn không biết gì cả.” Noriko lắc đầu. Cô có nằm mơ cũng
không thể ngờ lại có người làm vậy với mình. Bất giác cô khó chịu đến
nổi cả da gà lên.
“Nhưng mà,” Fujii dường như không hề cảm nhận được sự khó chịu của
cô, lại tiếp lời, “lúc đó không chỉ có mình tôi quan sát em, mà còn một
người khác cũng cứ nhìn em chăm chăm. Anh ta đến bệnh viện, cũng đến cả
khu căn hộ nữa. Tôi cảm thấy nhất định là có vấn đề, thậm chí còn muốn
báo cho em biết. Nhưng không lâu sau đó, tôi quá bận rộn với công việc
và chăm sóc mẹ, không có chút thời gian nào cả. Tôi vẫn băn khoăn chuyện người kia, nhưng sau đấy cũng không có hành động gì.”
“Người kia mà anh nói...”
“Đúng, chính là người sống chung với em ấy.”
“Sao có thể được?” Cô lắc đầu, cảm thấy cơ mặt mình hơi cứng lại. “Anh chắc chắn đã nhầm lẫn rồi.”
“Trăm phần trăm không thể lầm được. Trông tôi như vậy chứ nhớ mặt
người tốt lắm. Anh ta chính là người đó.” Fujii khẳng định chắc nịch.
Noriko cầm cốc lên, nhưng chẳng có tâm trạng uống trà, vô số dòng suy nghĩ tựa như cuồng phong bão táp đang cuồn cuộn trong tâm trí cô.
“Tất nhiên, tôi cũng không vì chuyện này mà khẳng định anh ta là
người xấu. Có lẽ anh ta cũng chỉ giống như tôi, vì say mê em nên mới làm thế. Chỉ là, nói thế nào nhỉ? Giống như tôi vừa mới nói ấy, không khí
lúc đó thật sự quá bất bình thường. Hễ nghĩ đến chuyện em ở bên anh ta,
tôi lại đứng ngồi không yên. Nói thì nói vậy, song tôi cho rằng mình
không nên can dự vào, nên mới chịu đựng đến tận hôm nay. Nhưng mà, mấy
hôm trước tình cờ trông thấy em, từ hôm ấy đến giờ, trong đầu tôi chỉ
toàn nghĩ đến em, nên hôm nay mới hạ quyết tâm nói chuyện này cho em
biết.”
Những gì Fujii nói sau đó, Noriko gần như không nghe lọt chữ nào.
Noriko thậm chí còn chẳng có tâm trạng nào đáp lại chủ đích của anh ta
là muốn cô chia tay với người đàn ông đang sống chung, qua lại với anh
ta. Không phải vì cô cảm thấy quá tức cười, mà là cô không có tâm trạng
làm điều đó.
Noriko không nhớ mình rời khỏi đó thế nào nữa. Đến khi định thần lại, cô đã ở giữa con phố khuya rồi.
Anh ta nói là tháng Tư, tháng Tư năm ngoái.
Chuyện đó không thể nào. Noriko gặp Akiyoshi vào tháng Năm. Vả lại cuộc gặp gỡ của bọn họ chắc là một sự ngẫu nhiên.
Không phải vậy sao? Chẳng lẽ không phải là ngẫu nhiên?
Cô nhớ lại sự việc lúc đó. Gương mặt Akiyoshi vặn vẹo vì đau bụng.
Trước lúc ấy, phải chăng anh ta đã đợi Noriko về nhà? Tất cả những
chuyện đó, đều là màn kịch của anh ta để tiếp cận cô?
Nhưng mục đích của anh ta là gì cơ chứ?
Giả sử Akiyoshi tiếp cận Noriko là có mục đích, vậy tại sao lại chọn
cô? Cô không phải người ngộ nhận về bản thân. Có thể khẳng định trăm
phần trăm nguyên nhân cô được chọn tuyệt đối không phải vì nhan sắc.
Do cô phù hợp với điều kiện gì đó chăng? Dược sĩ? Gái già? Sống một mình? Đại học Teito?
Cô thầm giật nảy mình, nhớ đến công ty mai mối. Khi đăng ký, cô đã
cung cấp rất nhiều thông tin cá nhân. Chỉ cần tra tìm dữ liệu ở đó, muốn tìm được đối tượng phù hợp với các điều kiện mình mong đợi không hề
khó. Có lẽ, Akiyoshi có thể tiếp xúc với những dữ liệu ấy. Hồi trước anh ta làm việc tại một công ty phần mềm tên là Memorix. Hệ thống của trung tâm mai mối liệu có phải do công ty ấy thiết kế?
Cô đã về đến căn hộ từ lúc nào. Cô do dự bước lên cầu thang, mở cửa nhà.
“Hễ nghĩ đến chuyện em ở bên anh ta là tôi lại đứng ngồi không yên.” Lời nói của Fujii vang lên bên tai cô.
“Nếu biết được sự thật này, anh sẽ chẳng có gì phải lo lắng nữa.” Cô nhìn căn phòng tối đen lẩm bẩm.
4
Có người đang đập búa trong đầu. Pang... pang... pang...
Đồng thời, còn có cả tiếng cười khúc khích. Nghe đến đây, cô mở mắt
ra. Trên bức tường hình hoa có một vệt sáng. Đó là ánh sáng ban mai
chiếu vào qua khe hở của tấm rèm cửa sổ.
Shinozuka Mika quay đầu lại nhìn chiếc đồng hồ báo thức để cạnh gối.
Chiếc đồng hồ này là của Yasuharu mua ở London về cho cô, mặt đồng hồ có hình người có thể cử động. Khi đến thời gian được cài đặt, sẽ có một
đôi thiếu niên nam nữ xuất hiện nhảy múa theo tiếng nhạc. Mika hẹn báo
thức lúc bảy rưỡi, kim chỉ đã sắp đến giờ đó. Chỉ cần đợi thêm một phút
nữa, tiết tấu nhẹ nhàng sẽ vang lên như thường lệ, nhưng cô đã vươn tay
ra xóa cài đặt.
Mika xuống giường, mở rèm cửa ra. Ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ lớn
và tấm màn ren rải đầy trong phòng, làm căn phòng vốn âm u tức thì trở
nên sáng sủa. Trong tấm gương lớn trên tường, một thiếu nữ mặc áo ngủ
nhàu nhĩ, đầu tóc bù xù đang đứng đó, nét mặt khó coi đến cực độ.
Lại vang lên một tiếng “pang”, kế đó là tiếng nói chuyện. Cô không
nghe rõ nội dung cuộc trò chuyện, nhưng có thể tưởng tượng ra, chắc lại
là những câu đối đáp chẳng ra sao.
Mika đi tới bên cửa sổ, cúi nhìn sân vườn cỏ xanh mơn mởn. Quả nhiên
đúng như cô dự đoán, Yasuharu và Yukiho đang tập đánh golf trên bãi cỏ.
Thực ra là Yasuharu đang dạy Yukiho đánh golf thì đúng hơn.
Yukiho cầm gậy đứng ở tư thế đánh bóng, Yasuharu đứng sau lưng dán
người vào cô ta, tay nắm lấy tay cô ta trên cây gậy đánh golf, tựa như
đôi chim liền cánh. Yasuharu thì thầm gì đó vào tai Yukiho, đồng thời
cầm tay cô ta di chuyển cây gậy, chầm chậm vung lên, rồi lại chầm chậm
hạ xuống. Cặp môi Yasuharu dường như có thể chạm vào cổ Yukiho bất cứ
lúc nào. Không, chắc chắn là một chốc một lát ông ấy lại cố ý chạm vào.
Luyện tập kiểu đó một hồi, Yasuharu rốt cuộc cũng tách ra khỏi
Yukiho. Trước cặp mắt chăm chú của ông ta, Yukiho thử dùng gậy đẩy, có
lúc cô ta đánh rất tốt, nhưng số lần đánh chưa tốt nhiều hơn. Yukiho nở
nụ cười bẽn lẽn, Yasuharu đưa ra lời khuyên gì đó. Sau đó, lại quay lại
bước đầu tiên, bắt đầu cái trò đôi chim liền cánh tức cười kia. Một buổi luyện tập thế này sẽ kéo dài chừng ba mươi phút.
Dạo gần đây, ngày nào cũng trông thấy cảnh tượng này. Cụ thể thì Mika không rõ Yukiho chủ động nói muốn học đánh golf, hay là Yasuharu đề
nghị, nhưng xem chừng có vẻ bọn họ đang tạo ra sở thích chung.
Hồi mẹ muốn học đánh golf, rõ ràng bố phản đối kịch liệt...
Mika rời khỏi khung cửa sổ, tới đứng trước tấm gương lớn. Trong gương hiện ra một thân hình thiếu nữ vừa tròn mười lăm. Thân thể gầy gò vẫn
chưa có những đường cong tròn trịa của phụ nữ, song tay chân lại đặc
biệt thon dài, xương vai gồ lên thấy rõ.
Mika thầm đặt chồng thân thể của Yukiho lên đó. Mika từng một lần
trông thấy Yukiho lõa thể. Cô không để ý Yukiho đang ở trong phòng tắm,
liền mở cửa ra. Yukiho trần truồng như nhộng, cả khăn tắm cũng không
khoác trên người. Trong mắt Mika hiện lên một cơ thể phụ nữ hoàn mỹ, tựa như được phác nên bởi những đường cong tính toán tỉ mỉ bằng máy tính,
đồng thời lại gọn gàng như chiếc bình hoa được nặn trên bàn xoay vậy. Bộ ngực đầy đặn hình dáng hoàn mỹ, làn da trắng muốt hơi ánh lên sắc hồng
lấm tấm những hạt nước nhỏ li ti. Trên người cô ta không phải không có
mỡ thừa, nhưng lượng mỡ rất nhỏ ấy lại khiến những đường cong phức tạp
trên thân thể toát lên vẻ mềm mại. Mika quên cả thở. Tuy rằng chỉ mấy
giây ngắn ngủi đó thôi, nhưng tấm thân ấy đã khắc sâu vào tâm trí cô.
Lúc đó, phản ứng của Yukiho thật hoàn hảo. Cô ta không hề hoảng hốt, cũng chẳng hề tỏ vẻ khó chịu chút nào.
“A, Mika, đi tắm hả?” Yukiho cười nói, không hề cuống quýt che đậy cơ thể của mình.
Người luống cuống ngược lại là Mika, cô không nói không rằng bỏ chạy
biến về phòng, chui lên giường, tim đập thình thịch không ngớt.
Nhớ lại vẻ ngượng nghịu của mình khi ấy, gương mặt Mika méo xệch đi,
hình ảnh cô trong gương cũng hiện ra vẻ mặt tương tự. Cô cầm cái lược
lên chải lại mái tóc rối bù. Tóc bết lại thành búi, không sao chải nổi,
cô dồn sức vào giật mạnh, làm đứt mấy sợi.
Lúc này, có tiếng gõ cửa vang lên. “Cô Mika, cô dậy chưa? Sáng rồi.”
Mika không trả lời. Sau tiếng gõ thứ ba, cánh cửa mở ra, Kasai Taeko rụt rè thò đầu vào.
“Ồ, cô đã dậy rồi à?” Taeko vừa vào phòng, liền bắt tay dọn dẹp cái
giường Mika vừa ra khỏi. Thân hình mập mạp, cái tạp dề buộc bên hông to
bò, áo len xắn đến khuỷu, tóc búi tó củ hành. Từ hồi bà đến nhà làm
người giúp việc, Mika vẫn luôn nghĩ trông Taeko hệt một khuôn với những
người hầu trong phim nước ngoài ngày xưa.
“Cháu vốn định ngủ thêm một lúc nữa, nhưng lại tỉnh rồi, tại bên ngoài ồn quá đi mất.”
“Bên ngoài?” Taeko ngẩn mặt không hiểu gì, kế đó mới gật đầu như sực nhận ra. “Dạo này ông chủ cũng dậy rất sớm thật.”
“Thật tức cười, sáng sớm ngày ra đã đánh bóng đánh biếc gì chứ.”
“Vì ông bà chủ đều rất bận, chỉ có sáng sớm là rảnh chút thời gian. Tôi thấy vận động cũng là chuyện tốt mà.”
“Hồi mẹ cháu còn sống, bố có thế này đâu.”
“Con người ta mà, khi có tuổi rồi sẽ thay đổi thôi.”
“Thế nên bố mới kết hôn với phụ nữ trẻ? Kiếm một người trẻ hơn mẹ cháu cả chục tuổi.”
“Cô Mika, bố cô vẫn còn trẻ mà, không thể độc thân cả đời được đúng
không? Cô Mika sớm muộn gì cũng sẽ đi lấy chồng, còn cậu chủ rồi cũng có ngày rời khỏi nhà này.”
“Dì Taeko nói chuyện đúng là lộn xộn. Vừa mới nói có tuổi rồi người ta sẽ thay đổi, một chốc sau lại nói vẫn còn trẻ.”
Câu nói của Mika dường như làm Taeko, người nhiều năm nay vẫn cưng
chiều cô cũng cảm thấy không vui. Taeko ngậm miệng lại, đi ra phía cửa.
“Bữa sáng chuẩn bị xong rồi, xin hãy xuống nhà sớm một chút. Ông chủ
có dặn, sau này dù cô chủ gần muộn học, ông ấy cũng không cho xe đưa cô
đến trường đâu.”
“Hừm!” Mika kêu lên một tiếng. “Nhất định là do cô ta xúi giục bố rồi.”
Taeko không nói một lời, chuẩn bị đi ra. Đúng lúc này, Mika lại kêu lên “Đợi đã”. Bàn tay toan đóng cửa của Taeko liền dừng lại.
“Dì Taeko, dì đứng bên phe cháu chứ?” Mika hỏi.
Taeko lộ vẻ bối rối, kế đó bật cười khúc khích. “Tôi không phải kẻ thù của ai cả.” Kế đó, bà giúp việc mập mạp đóng cửa lại.
Mika chuẩn bị các thứ để đi học xong xuôi, xuống đến tầng một, ba
người còn lại đã ngồi trước bàn ăn, bắt đầu dùng bữa rồi. Yasuharu và
Yukiho ngồi sánh vai dựa lưng vào tường, trước mặt là em trai của Mika,
Youdai. Youdai năm nay học lớp năm.
“Em thực sự không có tự tin, ít nhất phải dùng gậy gỗ số 1 cho tốt đã, bằng không sẽ gây thêm phiền phức cho mọi người.”
“Đến lúc đánh thật, sẽ phát hiện ra chẳng khó như em tưởng tượng đâu. Huống hồ, cái gậy gỗ số 1 mà em nói ít nhất phải dùng cho tốt đã, mới
là khó nhất đấy, dùng cho tốt thì là hạng chuyên nghiệp rồi. Tóm lại, em cứ ra sân golf đánh thử xem thế nào, đó là bước đầu tiên.”
“Anh nói vậy em vẫn lo lắm.” Yukiho nghiêng nghiêng đầu, hướng ánh mắt về phía Mika, “A, chào con.”
Mika không trả lời, ngồi xuống chỗ của cô. Lần này Yasuharu cũng chào cô, đồng thời ném ra ánh mắt trách móc. Mika đành lẩm bẩm trong miệng,
“Chào bố.”
Trên bàn ăn, trứng giăm bông, xa lát, bánh sừng bò bày trong các đĩa khác nhau.
“Cô Mika, xin đợi một chút, tôi sẽ mang súp ra ngay.” Giọng Taeko từ trong bếp vọng ra, hình như bà đang dở tay làm việc khác.
Yukiho đặt dao nĩa xuống, đứng dậy. “Không sao đâu, chị Taeko, để tôi làm.”
“Khỏi cần, tôi không ăn xúp.” Nói đoạn, Mika cầm cái bánh sừng bò gặm một miếng, sau đó cầm cốc thủy tinh đựng sữa bò trước mặt Youdai lên
uống một ngụm tướng.
“Ê! Chị này, sao lại uống của em!”
“Thế thì có sao, đồ ki bo!”
Mika cầm nĩa, bắt đầu ăn trứng giăm bông. Lúc này, một bát xúp đặt xuống trước mặt cô, do Yukiho bưng ra.
“Đã bảo là không ăn mà lại.” Cô chẳng thèm ngẩng đầu lên.
“Cô mất công mang ra cho con, con nói năng kiểu gì vậy!” Yasuharu mắng.
“Không sao mà.” Yukiho nhẹ nhàng vỗ về chồng, một bầu không khí im lặng khó xử bao trùm cả bàn ăn.
Chẳng ngon gì cả, Mika nghĩ, cả món trứng giăm bông do Taeko làm mà
cô thích nhất cũng chẳng có mùi vị gì, vả lại, ăn sáng kiểu này không
vui vẻ chút nào. Phía trên dạ dày còn hơi ngâm ngẩm đau.
“Phải rồi, tối nay em có việc gì không?” Yasuharu vừa uống cà phê vừa hỏi Yukiho.
“Tối nay? Không ạ.”
“Vậy cả nhà bốn người chúng ta ra ngoài ăn một bữa đi, bạn anh mở một nhà hàng Ý ở Yotsuya, bảo anh nhất định phải đến ủng hộ.”
“Ồ, món Ý ạ, hay quá.”
“Mika và Youdai nghe thấy chưa, có chương trình ti vi nào muốn xem thì nhớ mà hẹn giờ ghi băng lại.”
“Hay quá! Vậy bữa lót dạ con sẽ ăn ít thôi.” Youdai vui vẻ nói.
Mika lườm em trai một cái, nói, “Con không đi đâu.”
Ánh mắt của hai vợ chồng cùng lúc rơi trên người cô.
“Tại sao?” Yasuhara hỏi. “Con có việc gì à? Hôm nay không có giờ học đàn piano, cũng không phải học gia sư cơ mà?”
“Con chỉ không muốn đi thôi, không đi cũng không sao chứ.”
“Tại sao lại không muốn đi?”
“Có gì đâu mà phải hỏi.”
“Con nói năng kiểu gì vậy? Muốn nói gì thì cứ nói đi!”
“Anh à.” Yukiho chen vào, “Tối nay thôi đi vậy. Nghĩ kỹ lại, em cũng không phải hoàn toàn rảnh.”
Yasuharu không còn biết nói gì, bèn trừng mắt lên nhìn con gái. Rõ
ràng Yukiho đang nói đỡ cho Mika, nhưng điều này lại càng làm Mika thấy
bực bội khó chịu.
Cô thô lỗ buông cái nĩa xuống, đứng phắt dậy. “Con đi học đây.”
“Mika!”
Mika vờ như không nghe thấy tiếng gọi của Yasuharu, cầm cặp sách và
áo khoác đi ra hành lang. Lúc cô đang đi giày ở tiền sảnh, Yukiho và
Taeko đi ra.
“Cẩn thận ô tô nhé, không được vội vàng đâu.”
Yukiho cầm áo khoác để dưới đất lên đưa cho Mika. Mika lầm lì giật
lấy. Nhìn cô cho tay vào áo, Yukiho vừa mỉm cười vừa nói, “Chiếc áo len
màu xanh sẫm này thật đáng yêu.” Sau đó cô ta bồi thêm một câu “Đúng
không”, như tìm kiếm sự đồng tình của Taeko.
Taeko cũng cười cười gật đầu, “Đúng đấy.”
“Bây giờ đồng phục đều may rất đẹp. Thích thật. Thời chúng tôi ấy à, trông cứng nhắc lắm.”
Một ngọn lửa giận không tên trào lên trong tâm trí. Mika cởi áo
khoác, rồi trước ánh mắt kinh ngạc của Yukiho và Taeko, cô cởi luôn cả
chiếc áo len Ralph Lauren ra.
“Cô Mika, cô làm gì vậy?” Taeko hoảng hốt nói.
“Cháu không muốn mặc nữa.”
“Nhưng mà lạnh đó!”
“Cháu bảo là không cần mà.”
Có lẽ tại nghe thấy tiếng ồn, Yasuharu đi ra. “Lại dằn dỗi gì nữa thế?”
“Không có gì, con đi đây.”
“Ơ! Cô Mika! Cô chủ!”
“Mặc kệ nó!” Tiếng quát giận dữ của Yasuharu dường như muốn át đi
tiếng gọi của Taeko. Mika bỏ lại sau lưng lời quở trách của bố, chạy ra
phía cổng. Cô rất thích đoạn đường lát gạch dài được bao bọc bởi cây cối và hoa lá từ tiền sảnh ra cổng này. Để cảm nhận sự thay đổi của các
mùa, có lúc cô thậm chí còn cố tình bước chậm lại. Thế nhưng, lúc này,
độ dài của con đường lát gạch ấy lại khiến Mika vô cùng đau khổ.
Bản thân Mika cũng không hiểu rốt cuộc chuyện gì khiến cô khó chịu
như vậy. Trong lòng cô, một Mika khác đang lạnh lùng hỏi: Mày rốt cuộc
bị làm sao vậy? Đối với câu hỏi này, cô trả lời: Tao không biết! Không
biết, chỉ là rất tức giận nên chẳng biết làm sao cả...
Lần đầu tiên cô gặp Yukiho là mùa xuân năm nay. Yasuharu dẫn hai chị
em cô đến cửa hàng đồ hiệu ở Nam Aoyama. Một người phụ nữ đẹp đến sững
sờ ra tiếp đón họ. Người đó chính là Yukiho. Yasuharu nói với cô ta, ông muốn mua thêm quần áo mới cho lũ trẻ. Nghe vậy cô ta liền bảo người làm trong cửa hàng liên tục mang quần áo từ phía sau ra. Lúc này, Mika mới
phát hiện trong cửa hàng không có khách nào khác, cả cửa hàng đều được
họ bao trọn.
Hai chị em cô tựa như biến thành người mẫu, không ngừng thay đồ trước gương. Chẳng bao lâu sau, Youdai nhăn mặt nói, “Con mệt rồi.”
Mika đang ở tuổi ưa làm đẹp, mặc quần áo hàng hiệu được lựa chọn tỉ
mỉ đương nhiên không thể không vui cho được. Chỉ là, có một chuyện cô
vẫn luôn thắc mắc, người phụ nữ này rốt cuộc là ai? Đồng thời, cô cũng
cảm nhận được có lẽ giữa cô ta và bố mình có quan hệ đặc biệt gì đó.
Lúc chọn váy dự tiệc, Mika đã ngờ rằng người phụ nữ này có thể sẽ trở thành một người đặc biệt với mình và em trai.
“Cũng có khi cả nhà được mời đi ăn tiệc phải không? Khi ấy Mika mà
mặc bộ này, nhất định sẽ nổi bật nhất, người làm cha làm mẹ cũng mát mày mát mặt.” Yukiho nói với Yasuharu như thế.
Giọng điệu thân mật của cô ta khiến Mika thấy rất ngứa tai. Nhưng
điều tác động đến Mika hơn cả, là trong cách nói ấy của cô ta có chứa
hai hàm ý: một là bản thân cô ta đương nhiên cũng tham gia buổi tiệc đó, thứ nữa là cô ta đã coi Mika như một món trang trí cho mình rồi.
Sau khi thử quần áo xong, mấy người bắt đầu bàn bạc xem nên mua những món nào. Yasuharu hỏi Mika muốn những chiếc nào, Mika do dự, món nào cô cũng muốn, khó mà quyết bỏ cái nào lấy cái nào. “Bố quyết định đi, cái
nào con cũng thích cả.”
Nghe Mika nói thế, Yasuharu bảo “Khó nhỉ”, rồi chọn lấy mấy món. Nhìn những món quần áo ông lựa ra, Mika nghĩ quả nhiên là phong cách của bố, nhiều trang phục toát lên khí chất tiểu thư, không hở hang, chân váy
cũng rất dài. Điều này giống sở thích của người mẹ đã khuất của cô. Mẹ
cô vẫn không bứt được tâm tình thời thiếu nữ, thích cho Mika ăn mặc như
búp bê. Cứ nghĩ đến việc dẫu sao bố vẫn chịu ảnh hưởng của mẹ, Mika lại
không khỏi cảm thấy vui vui trong dạ.
Nhưng cuối cùng, Yasuharu hỏi Yukiho, “Em thấy thế nào?”
Yukiho khoanh hai tay trước ngực, nhìn đống quần áo nói, “Em cho
rằng, Mika có thể mặc các loại trang phục rực rỡ hơn, hoạt bát hơn một
chút.”
“Vậy sao? Nếu là em, em sẽ chọn những cái nào?”
“Nếu là em à...” Vừa nói, Yukiho vừa chọn ra mấy món quần áo, đa phần đều là các thứ tương đối già dặn, hơi có vẻ chơi bời, không có cái nào
mang phong cách thiếu nữ cả.
“Nó mới học cấp hai, liệu có già dặn quá không?”
“Cô bé lớn hơn anh tưởng nhiều.”
“Ồ?” Yasuharu gãi gãi đầu, hỏi Mika muốn thế nào.
“Bố quyết định là được rồi.” Cô nói.
Yasuharu nghe vậy liền gật đầu với Yukiho. “Được, vậy mua hết mấy thứ này. Nếu mặc vào không đẹp thì em phải chịu trách nhiệm đấ nhé.”
“Yên tâm đi mà.” Sau khi nói thế với Yasuharu, Yukiho quay sang nhìn
Mika cười bảo, “Kể từ hôm nay, cháu tốt nghiệp lớp búp bê rồi.”
Lúc ấy, Mika cảm giác một chỗ nào đó trong lòng mình bị chà đạp lên.
Cô cho rằng người mẹ đã khuất hay chưng diện cho cô giống như búp bê đã
bị làm nhục. Nhớ lại, có thể khoảnh khắc đó là lần đầu tiên cô nảy sinh
cảm xúc tiêu cực với Yukiho.
Từ ngày hôm đó, Mika và Youdai thường được Yasuharu dẫn ra ngoài,
cùng dùng bữa, đi hóng gió với Yukiho. Những lúc bên cạnh Yukiho,
Yasuharu luôn tỏ ra ồn ào khác thường. Hồi mẹ Mika còn sống, thỉnh
thoảng đi chơi vào ngày nghỉ, Yasuharu cũng hầu như không hé răng nửa
lời. Nhưng ở trước mặt Yukiho, ông lại thao thao bất tuyệt, hơn nữa
chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng hỏi ý kiến Yukiho, làm theo lời cô ta. Mỗi lần như thế, trong mắt Mika, Yukiho lại trở thành một tên hề ngu xuẩn
đến không thể cứu vãn được.
Một ngày tháng Bảy nọ, Yasuharu nói với cô một tin tức trọng đại. Đó
không phải trao đổi, cũng không phải hỏi dò, mà chỉ là thông báo. Ông
nói, ông sẽ kết hôn với Karasawa Yukiho.
Youdai ngẩn người ra, tuy không phải hân hoan vô cùng, nhưng cũng
không hề phản đối chuyện Yukiho sẽ trở thành mẹ mới. Mika cho rằng đó là vì thằng bé còn chưa có suy nghĩ của riêng nó, mà hồi mẹ bọn cô qua
đời, nó mới có bốn tuổi.
Mika nói thẳng là cô không vui vẻ gì. Còn nói, đối với cô, người mẹ đã mất bảy năm trước là người mẹ duy nhất.
“Vậy cũng được.” Yasuharu nói, “Bố không bảo con quên mẹ đi. Chỉ là
gia đình này sẽ có thêm thành viên mới, chúng ta sẽ có thêm một người
thân mới.”
Mika không nói không rằng. Cô cúi gằm đầu, thầm gào thét trong lòng: Cô ta còn lâu mới là người thân của con!
Thế nhưng, cô không có cách nào ngăn lại hòn đã đã bắt đầu chuyện
động. Tất nhiên đều đang tiến triển theo chiều hướng mà Mika không mong
đợi. Yasuharu hết sức vui vẻ vì đón được vợ mới về. Tự sâu trong đáy
lòng, cô thấy khinh thường người cha như thế. Hễ nghĩ đến chuyện bố mình lại trở nên trần tục đến mức ấy, cô càng không thể nào tha thứ cho
Yukiho.
Nếu hỏi Mika không thích Yukiho ở điểm nào, cô cũng không trả lời
được. Rốt cuộc, chỉ có thể nói đó là trực giác. Cô thừa nhận Yukiho rất
đẹp, rất khâm phục trí tuệ của cô ta. Cô ta còn trẻ như vậy mà đã một
tay quản lý mấy cửa hàng, nhất định phải có tài cán hơn người. Thế
nhưng, cứ ở bên cạnh Yukiho, Mika lại cảm thấy người mình cứng đờ ra.
Trong đầu cô không ngừng phát tín hiệu cảnh báo: tuyệt đối không được lơ là cảnh giác với người này! Cô cảm thấy được khí chất toả ra từ cô ta
hàm chứa một thứ ánh sáng dị chất, nó không tồn tại trong thế giới mà
bọn họ sống từ trước đến giờ. Mà thứ dị chất này, tuyệt đối không mang
lại hạnh phúc cho bọn họ.
Thế nhưng, có lẽ suy nghĩ này không phải do một mình Mika tưởng tượng ra. Có thể khẳng định, trong đó có vài thành phần quả thực là chịu ảnh
hưởng của một người khác.
Người đó chính là Shinozuka Kazunari.
Từ lúc Yasuharu bày tỏ với gia tộc rằng muốn cưới Yukiho, Kazunari đã liên tiếp ghé đến. Trong đông đảo người thân, chú họ cô là người duy
nhất kiên quyết phản đối cuộc hôn nhân này. Mika đã mấy lần lén nghe chú và bố nói chuyện trong phòng khách.
“Đó là vì anh họ không biết bộ mặt thật của cô ta. Ít nhất, cô ta
cũng không phải loại người an phận ở nhà, đặt hạnh phúc gia đình lên đầu đâu. Xin anh đấy, có thể nghĩ lại được không?” Kazunari nói với giọng
khẩn cầu.
Nhưng Yasuharu lại tỏ thái độ chán ngán, không coi những lời em họ
nói ra gì. Dần dà, dường như Yasuharu bắt đầu thấy chán ghét Kazunari.
Đã mấy lần Mika tận mắt chứng kiến ông giả bộ không có nhà, từ chối gặp
mặt Kazunari.
Và thế là ba tháng sau, Yasuharu kết hôn với Yukiho. Bọn họ không tổ
chức hôn lễ xa hoa, tiệc mừng cũng không làm hoành tráng, nhưng cô dâu
chú rể tỏ ra cực kỳ hạnh phúc. Khách khứa cũng khá là vui vẻ.
Duy chỉ có Mika ủ dột. Cô cho rằng sự việc đã đến mức không thể cứu
vãn được nữa rồi. Không phải, có lẽ không chỉ có mình cô, vì cả
Shinozuka Kazunari cũng tham gia bữa tiệc.
Cuộc sống có mẹ mới trong nhà liền bắt đầu. Nhìn bề ngoài, Shinozuka
không có thay đổi gì lớn. Nhưng Mika cảm nhận được, có rất nhiều chuyện
đang thực sự thay đổi. Những kỷ niệm về người mẹ đã qua đời của cô bị
xoá đi, hình thái cuộc sống cũng biến dạng, thậm chí quan điểm sống của
bố cô cũng thay đổi.
Mẹ đẻ cô hồi còn sống rất thích cắm hoa. Tiền sảnh, hành lang, góc
phòng... bao giờ cũng trang trí bằng các loại hoa theo bốn mùa. Giờ đây, hoa bày ở những chỗ ấy càng đẹp đẽ, lộng lẫy hơn, làm ai cũng phải trầm trồ.
Chỉ có điều, đó không phải là hoa tươi, mà toàn là hoa giả được làm hết sức khéo léo.
Thậm chí Mika còn nghĩ, lẽ nào cả nhà cô cũng đều biến thành hoa giả?
5
Xuống tàu điện ngầm thuộc tuyến Tozai ở ga Urayasu, qua
cầu Kasai đi ngược hướng với Tokyo thêm một đoạn ngắn nữa, rẽ trái ở
sông Edo cũ, một toà nhà màu trắng có hình gần như khối lập phương sừng
sững trên con đường nhỏ, trên cột ở cổng đề tên công ty “Dầu mỡ SH”.
Không thấy có bảo vệ, Sasagaki đi thẳng vào trong.
Băng qua bãi đỗ xe tải xếp thành hàng, ông vào trong toà nhà. Ngay
bên phải là một quầy lễ tân nhỏ. Một phụ nữ chừng bốn chục tuổi đang
ngồi viết gì đó. Chị ta ngẩng đầu lên, trông thấy Sasagaki liền kinh
ngạc nhíu mày.
Sasagaki chìa danh thiếp ra, tỏ ý muốn gặp Shinozuka Kazunari. Nhìn
tấm danh thiếp, nét mặt người phụ nữ kia không hề dịu đi chút nào. Danh
thiếp không có chức danh gần như không thể khiến người ta hạ hàng rào
cảnh giác xuống.
“Ông có hẹn với giám đốc không?” Chị ta hỏi.
“Giám đốc?”
“Đúng, anh Shinozuka Kazunari là giám đốc của chúng tôi.”
“Ồ... có, trước khi tới đây tôi có gọi điện cho anh ta rồi.”
“Xin đợi cho một lát.”
Người phụ nữ cầm điện thoại bên cạnh lên, bấm số nội bộ gọi tới văn
phòng làm việc của Kazunari. Sau vài câu nói, chị ta vừa đặt ống nghe
xuống, vừa nhìn Sasagaki.
“Giám đốc bảo ông đi thẳng vào phòng làm việc của anh ấy.”
“À. Cho hỏi, phòng làm việc ở đâu vậy?”
“Tầng ba.” Dứt lời, chị ta lại cúi đầu viết tiếp. Chị ta đang viết
địa chỉ người nhận vào thiệp chúc mừng năm mới. Nhìn quyển sổ ghi địa
chỉ liên lạc trải ra bên cạnh, là đồ cá nhân của chị ta, thiệp chúc mừng rõ ràng không phải gửi đi với danh nghĩa công ty.
“Cho hỏi, ở chỗ nào trên tầng ba?”
Nghe Sasagaki hỏi vậy, chị ta bực mình ra mặt, giơ cái bút ký tên chỉ ra sau lưng ông.
“Vào thang máy bên trong đó lên tầng ba, đi dọc theo hành lang, trên cửa có treo biển phòng làm việc của giám đốc.”
“Vâng, cảm ơn cô.” Sasagaki cúi đầu cảm ơn nhưng người phụ nữ đã cắm mặt vào làm tiếp việc của mình.
Sasagaki theo lời chỉ dẫn lên đến tầng ba, liền hiểu ra tại sao chị
ta lại tỏ vẻ khó chịu khi chỉ dẫn như vậy. Không gian ở đây được bố trí
hết sức đơn giản, chỉ là một hành lang hình vuông, tất cả các phòng đều
hướng mặt ra ngoài hành lang. Sasagaki vừa đi vừa nhìn biển hiệu trên
cửa, sau chỗ rẽ đầu tiên, tấm biển đề “Phòng Giám đốc” đã xuất hiện.
Sasagaki đẩy cửa.
Bên trong vẳng ra tiếng “Mời vào”, Sasagaki đẩy cửa.
Shinozuka Kazunari đứng dậy khỏi chỗ ngồi trước cửa sổ. Anh ta mặc bộ vest hai hàng cúc màu nâu.
“Lâu lắm không gặp anh, tình hình dạo này ổn chứ?”
“Tốt xấu gì thì vẫn còn sống.”
Giữa phòng làm việc là một bộ xô pha. Kazunari mời Sasagaki ngồi
xuống chiếc ghế dài dành cho hai người, còn mình ngồi xuống chiếc ghế
bành đơn có tay vịn.
“Lần trước gặp nhau là lúc nào ấy nhỉ?” Kazunari hỏi.
“Tháng Chín năm ngoái, trong phòng tiếp khách của Dược phẩm Shinozuka.”
“Đúng rồi.” Kazunari gật đầu. “Đã hơn một năm rồi. Thời gian trôi nhanh thật đấy.”
Khoảng thời gian này, Sasagaki có liên lạc với Kazunari bằng điện thoại, nhưng không hề gặp mặt.
“Lần này tôi cũng gọi điện tới Dược phẩm Shinozuka trước, họ nói với tôi, anh đã được chuyển tới đây rồi.”
“À, vâng, từ tháng Chín năm nay.” Kazunari hơi cụp mắt xuống, tựa như muốn nói gì đó rồi lại thôi.
“Không ngờ anh lại làm giám đốc. Thăng tiến nhanh thật đấy! Còn trẻ như vậy mà, giỏi thật!” Sasagaki kinh ngạc thốt lên.
Kazunari chẳng nói chẳng rằng đứng dậy, cầm điện thoại trên bàn làm việc lên.
“Mang cho tôi hai cốc cà phê vào đây. Ừm, ngay lập tức.” Anh ta đặt ống nghe xuống, đứng nguyên đó nói.
“Tôi nghĩ lần trước tôi đã nói với ông qua điện thoại rồi, anh họ Yasuharu của tôi cuối cùng đã kết hôn.”
“Mùng 10 tháng Mười, ngày lễ Thể thao.” Sasagaki gật đầu, “Hôn lễ hẳn là xa hoa hoành tráng lắm đúng không?
“Không, rất khiêm tốn. Họ cử hành hôn lễ trong nhà thờ xong, thì mời
khách trong một khách sạn ở Tokyo, chỉ có người rất thân tham dự. Dường
như vì hai bên đều tái hôn nên không muốn làm khoa trương quá. Huống hồ
anh họ tôi còn có con nữa.”
“Anh Shinozuka cũng tham dự chứ?”
“Đúng vậy, họ hàng mà. Nhưng...” Anh ta lại ngồi xuống ghế, thở dài
một tiếng rồi tiếp lời, “Hai người bọn họ chắc không muốn mời tôi lắm.”
“Anh nói cho đến trước khi hôn lễ diễn ra, anh vẫn kiên trì phản đối nhỉ.”
“Đúng vậy.” Kazunari gật đầu, nhìn chăm chăm vào Sasagaki. Ánh mắt vô cùng nghiêm túc và bức thiết.
Cho đến mùa xuân năm nay, Sasagaki vẫn giữ liên hệ chặt chẽ với
Shinozuka Kazunari. Kazunari cần tìm ra đầu mối về bộ mặt thật của
Karasawa Yukiho, còn Sasagaki thì muốn kiếm cách lần ra Kirihara Ryoji.
Thế nhưng, đôi bên đều không tìm được đầu mối nào mang tính then chốt.
Trong khi đó, Shinozuka Yasuharu và Karasawa Yukiho đã kết hôn.
“Được quen biết với ông Sasagaki quả là may mắn, tiếc rằng đến cuối
cùng vẫn không thể tra ra được gốc rễ của cô ta, cũng không thể khiến
anh họ tôi mở mắt.”
“Cũng khó trách, cô ta đã dùng cách đó lừa gạt vô số đàn ông rồi.” Sasagaki tiếp lời, “Tôi cũng là một trong số đó.”
“Mười chín năm rồi... đúng không?”
“Đúng vậy, mười chín năm rồi.” Sasagaki lấy thuốc lá ra. “Tôi hút được không?”
“Được chứ, được chứ, mời ông.” Kazunari đặt chiếc gạt tàn thuỷ tinh
trước mặt Sasagaki. “Ông Sasagaki này, lúc trước trong điện thoại tôi
cũng đã nài nỉ ông mấy lần rồi, hôm nay ông có sẵn lòng kể tất cả câu
chuyện kéo dài đến mười chín năm ấy cho tôi không?”
“À, đương nhiên. Có thể nói, hôm nay tôi đến đây cũng là vì chuyện này.” Sasagaki châm thuốc. Lúc này, tiếng gõ cửa vang lên.
“Vừa khéo, cà phê mang đến rồi.” Kazunari đứng lên.
Vừa uống cà phê, Sasagaki bắt đầu kể chuyện. Ông kể lúc thì tỉ mỉ đến từng chi tiết, lúc lại qua loa rồi giải thích thêm toàn bộ quá trình từ khi phát hiện ra cái xác trong toà nhà xây được nửa chừng rồi bỏ hoang, nghi can lần lượt đổi từ người này sang người khác, cho đến khi
Terasaki Tadao, người cuối cùng của tổ chuyên án coi là nhân vật trọng
điểm chết vì tai nạn giao thông, khiến cuộc điều tra buộc phải kết thúc. Mới đầu Shinozuka Kazunari còn cầm cốc cà phê, nhưng nghe được nửa
chừng, anh ta đặt cốc xuống bàn, khoanh tay trước ngực, chăm chú lắng
nghe. Khi cái tên Nishimoto Yukiho xuất hiện, anh ta mới đổi chân gác,
hít một hơi thật sâu.
“... Đây chính là khái quát về vụ án mạng của tay chủ tiệm cầm đồ.” Sasagaki uống một ngụm cà phê, chỉ còn hơi âm ấm.
“Cứ vậy mà trở thành án hết thời hiệu truy cứu sao?”
“Không phải vèo một cái đã trở thành án thối, nhưng lời khai và đầu
mối mới càng lúc càng ít, vì vậy đã có dấu hiệu sớm muộn gì cũng sẽ trở
thành án thối.”
“Nhưng mà, ông Sasagaki không bỏ cuộc.”
“Không, nói thực lòng, tôi cũng đã bỏ cuộc một nửa.”
Đặt cốc cà phê xuống. Sasagaki lại tiếp tục kể.
Sau khi Terasaki Tadao chết vì tai nạn khoảng một tháng, Sasagaki mới phát hiện ra phần ghi chép ấy. Tình trạng không tìm ra được vật chứng
chứng minh Terasaki là hung thủ, cũng không phát hiện ra nghi can nào
khác kéo dài khiến nội bộ tổ chuyên án mệt mỏi chán chường. Nghe nói bản thân tổ này cũng sắp bị giải tán. Khủng hoảng dầu mỏ khiến cả xã hội
chìm trong bầu không khí nặng nề, những vụ bạo lực như cướp bóc, phóng
hoả, bắt cóc liên tiếp diễn ra. Có lẽ quan điểm thật sự của tầng lớp
lãnh đạo cảnh sát tỉnh Osaka là không thể chia sẻ nhiều nhân lực vào một vụ án mạng vô thời hạn. Chẳng những thế, hung thủ có thể đã chết rồi.
Bản thân Sasagaki cũng bắt đầu có ý nghĩ có lẽ chỉ đến đây là thôi.
Trước đó, ông từng trải qua ba vụ án thối. Những vụ sẽ trở thành án thối này, bao giờ cũng có tính chất đặc thù. Những vụ thoạt nhìn cứ ngỡ rằng sẽ nhanh chóng bắt được hung thủ, nhưng cuối cùng lại kết thúc mà chẳng tìm ra được gì còn nhiều hơn những vụ tất cả đều như giữa màn sương mù, khiến người ta không biết bắt tay từ đâu. Vụ án mạng chủ tiệm cầm đồ
khi ấy, có thứ mùi chẳng lành này.
Vì vậy, thực tình việc Sasagaki đang xem lại tất cả báo cáo điều tra
từ trước chỉ là nhất thời nổi hứng mà thôi. Ngoài chuyện đó ra, ông đã
chẳng thể làm gì trong vụ án này nữa.
Ông gần như xem lướt cả đống báo cáo điều tra dày cộm. Tài liệu nhiều không có nghĩa là nhiều manh mối, ngược lại còn có thể nói là do điều
tra không có trọng điểm, khiến những bản báo cáo vô nghĩa cứ không ngừng tăng lên.
Bàn tay đang lật giở tài liệu của Sasagaki dừng lại khi trông thấy
bản báo cáo điều tra ghi lời kể của cậu bé phát hiện ra cái xác. Cậu bé
ấy tên là Kikuchi Michihiro, chín tuổi. Cậu bé nói với anh trai học lớp
năm đầu tiên, anh trai cậu xác nhận là xác chết, liền về báo với mẹ.
Người báo cảnh sát thực tế là Tomoko, mẹ của hai anh em, vì vậy bản báo
cáo này là bản tóm tắt dựa theo lời của mẹ Kikuchi.
Sasagaki cũng biết rõ quá trình phát hiện ra cái xác được ghi trong
báo cáo. Khi bọn con trai đang di chuyển trong hệ thống thông gió của
toà nhà, chơi trò chơi mà chúng gọi là “đường hầm thời gian”, Kikuchi
Michihiro bị lạc mất lũ bạn, cắm đầu cắm cổ bò lung tung trong ống thông gió mới đến căn phòng ấy. Và cậu phát hiện ra một người đàn ông ngã ở
đó. Cậu bé lấy làm lạ, nhìn kỹ lại thì người ông ta còn chảy máu, lúc
đó, cậu mới nhận ra dường như ông ta đã chết. Cậu biết phải báo cho
những người khác, liền vội vã rời khỏi hiện trường.
Vấn đề ở phần tiếp theo. Báo cáo được viết như sau.
“Cậu bé cực kỳ sợ hãi, muốn nhanh chóng rời khỏi đó, nhưng cửa đã bị
phế thải, gạch vụn chặn mất, khó mà mở ra được. Cậu bé kiếm cách mở cửa
ra bên ngoài tìm lũ bạn, nhưng không tìm được, liền vội vã chạy về nhà.”
Xem tới đây, Sasagaki cảm thấy kì lạ. Ông băn khoăn phần “bị phế thải, gạch vụn chặn mất”.
Ông nhớ lại cánh cửa hiện trường lúc đó, đó là cửa mở vào bên trong.
Lời khai của Kikichi Michihiro chỉ ra nói rõ “khó mở ra được”, như vậy
là những thứ phế thải, gạch vụn” kia hẳn phải đặt ở vị trí ngăn cản cánh cửa đóng vào mở ra.
Là hung thủ cố ý sắp đặt ư? Để kéo dài thời gian cái xác bị phát hiện, nên cố ý đặt chướng ngại vật ở bên trong cửa hay sao?
Không thể nào. Đã mở cửa bên ngoài rồi, làm sao có thể đặt chướng
ngại vật ở phía sau cánh cửa được nữa? Vậy thì, lời kể của cậu bé nên
giải thích thế nào đây?
Sasagaki lập tức tiến hành xác nhận. Phần “người thẩm vấn” trong bản báo cáo được điền tên Kosaka ở đồn cảnh sát Tây Fuse.
Kosaka vẫn còn nhớ như in chuyện này, nhưng giải thích cũng không được rõ lắm.
“À, chuyện ấy ạ, đúng là hơi mơ hồ.” Kosaka chau mày nói. “Nó nhớ
không rõ lắm, lúc nó toan mở cửa, có rất nhiều thứ chắn dưới chân, nhưng nó không xác định được là cửa hoàn toàn không thể mở ra, hay có thể hé
đủ để người chui lọt. Cũng khó trách, lúc đó nó hẳn là kinh hoàng lắm.
“Hung thủ đã có thể đi qua được, nên cửa ít nhất cũng phải mở đủ để người qua lọt chứ nhỉ.” Kosaka bổ sung thêm.
Sasagaki cũng tìm bản báo cáo giám định hiện trường ra xem, tiếc rằng tương quan vị trí giữa cửa và “phế thải, gạch vụn” lại không được ghi
chép tỉ mỉ. Nguyên nhân là do Kikuchi Michihiro đã di chuyển những thứ
ấy, làm mất dấu vết.
Vậy là, Sasagaki từ bỏ hướng điều tra này. Vì ông cũng như Kosaka,
tin rằng hung thủ có thể đã thoát ra từ cánh cửa ấy. Mà ngoài ông ra,
không có nhân viên điều tra nào băn khoăn về chuyện này.
Khoảng một năm sau Sasagaki mới nhớ ra điểm nghi vấn nhỏ này, chính
là lúc cái chết của Nishimoto Fumiyo khiến ông hướng sự nghi ngờ sang
Yukiho. Sasagaki nghĩ thế này: giả sử bên trong cánh cửa có đặt chướng
ngại vật, vậy thì, mức độ có thể hé ra của cánh cửa sẽ trở thành điều
kiện hạn chế, từ đó có thể lọc ra các nghi can. Lúc đó, trong đầu ông
nghĩ đến Yukiho. Ông cho rằng, nếu là Yukiho, thì dẫu khe hở tương đối
hẹp, hẳn cũng có thể chui qua được.
Tuy rằng không biết trẻ con có thể nhớ được mấy phần những chuyện xảy ra từ hơn một năm trước, Sasagaki vẫn đi tìm gặp Kikuchi Michihiro, bấy giờ đã lên lớp bốn.
Và cậu bé lớp bốn đó kể ra một chuyện khiến Sasagaki hết sức kinh ngạc,
Kikuchi Michihiro, cậu không hề quên chuyện xảy ra một năm trước.
Thậm chí còn nói, hiện giờ có thể kể lại mạch lạc rõ ràng hơn nữa.
Sasagaki cho rằng chuyện này là có khả năng. Muốn cậu bé chín tuổi kinh
hãi tột độ vì phát hiện ra xác chết kể lại kỹ càng tình huống lúc đó,
hẳn là một việc vô cùng khắc nghiệt. Nhưng trong một năm, cậu cũng đã
lớn lên rất nhiều rồi.
Sasagaki hỏi cậu có nhớ chuyện cánh cửa hay không, cậu bé không hề do dự gật đầu.
Ông bèn yêu cầu cậu kể lại tình huống lúc đó một cách tỉ mỉ nhất có thể. Cậu bé im lặng giây lát, rồi thong thả nói.
“Cửa hoàn toàn không thể mở ra được.”
“Gì hả?” Sasagaki kinh ngạc hỏi. “Hoàn toàn... Cháu nói thế là sao?”
“Lúc ấy cháu muốn mau chóng thông báo cho người khác, liền chạy ra mở cửa tức thì. Nhưng mà, cánh cửa không nhúc nhích gì hết. Nhìn xuống
dưới, thấy chất đầy gạch là gạch.”
Sasagaki giật mình. “Thật sao?”
Cậu bé gật mạnh đầu.
“Lúc đó sao cháu không nói vậy? Là vì sau này mới nhớ ra à?”
“Cháu nói vậy ngay từ đầu rồi mà. Nhưng chú cảnh sát nghe cháu nói
xong, liền bảo vậy thì rất kỳ lạ, hỏi cháu có phải đã nhớ lầm hay không
làm cháu thấy không tự tin, chính mình cũng không dám chắc nữa. Nhưng
mà, sau này cháu nghĩ kỹ lại, cánh cửa thực sự không thể mở ra được.”
Sasagaki bất giác bóp cổ tay mình. Lời khai quý báu đã có từ một năm
trước, nhưng lại bị bẻ cong vì sự ngộ nhận của điều tra viên.
Sasagaki lập tức báo cáo chuyện này lên cấp trên, nhưng phản ứng của
cấp trên rất lãnh đạm, cho rằng không thể căn cứ vào trí nhớ của trẻ
con. Thậm chí còn nói rằng, tin vào lời chúng cả năm sau mới sửa chữa
lại, liệu có phải là đầu óc có vấn đề hay không?
Khi ấy, cấp trên của Sasagaki không còn là tổ trưởng Nakatsuka hồi án mạng xảy ra nữa. Nakatsuka đã được điều đi nơi khác trước đó không lâu, cấp trên kế nhiệm là người rất háo danh, cho rằng điều tra vụ án mạng
chẳng hề nổi bật lại sắp trở thành án thối như thế, thà rằng đi phá
những vụ chấn động còn hơn, hòng nâng cao danh tiếng.
Tuy Sasagaki mang danh điều tra viên vụ án mạng tay chủ tiệm cầm đồ
đó, nhưng cũng chỉ là kiêm nghiệm. Cấp trên của ông không tán thành
thuộc hạ của mình truy tra một vụ án chẳng được tính mấy thành tích.
Bất đắc dĩ, Sasagaki đành một mình tiến hành điều tra. Ông đã nhìn thấy hướng điều tra.
Theo lời khai của Kikuchi Michihiro thì chắc chắn hung thủ sát hại
Kirihara Yosuke không thể nào mở cửa rời khỏi đó. Hơn nữa tất cả cửa sổ ở hiện trường đều được cài then bên trong. Toà nhà này tuy chưa hoàn công đã bị bỏ hoang, nhưng cửa kính không bị vỡ, trên tường cũng không có
chỗ hổng nào. Như vậy, thì chỉ có một khả năng xảy ra...
Hung thủ ngược lại với Kikuchi Michihiro, đã rời khỏi hiện trường qua lỗ thông gió.
Nếu hung thủ là người trưởng thành thì không thể nghĩ ra cách này
được. Chỉ có bọn trẻ con từng nghịch trong hệ thống ống thông gió mới
nghĩ ra ý tưởng này.
Thế nhưng, kết quả điều tra của ông lại không được như mong đợi. Đầu
tiên, ông hy vọng có thể chứng minh Yukiho từng lăn lê bò toài trong ống thông gió, tức là từng tham gia trò chơi “đường hầm thời gian”. Song,
ông lại đụng phải một bức tường. Ông đã hỏi những đứa trẻ thân với
Yukiho, bọn chúng nói con bé chưa bao giờ chơi trò đó. Ông lại hỏi han
mấy đứa trẻ từng chơi đùa trong toà nhà, cũng không đứa nào từng thấy có con gái tham gia. Một đứa trẻ nói với Sasagaki thế này.
“Bọn con gái không bao giờ chơi ở trong toà nhà bẩn thỉu thế này đâu
ạ, bên trong có cả chuột chết, còn có nhiều sâu bọ kỳ quái lắm. Với cả,
bò qua bò lại trong ống thông gió một lúc thôi, cả người sẽ bẩn hết.”
Sasagaki không thể không đồng tình với ý kiến này. Ngoài ra, một cậu
bé từng bò trong ống thông gió mấy chục lần nói, con gái không thể chơi
trò này được. Theo cậu, trong hệ thống ống thông gió có một số chỗ dốc,
có lúc cần phải rạp người xuống để leo bám đến vài mét, nếu không tự tin vào thể lực và khả năng vận động của mình thì tuyệt đối không thể thoải mái hoạt động trong đó được.
Sasagaki dẫn cậu bé ấy đến hiện trường, thử xem có thể thoát ra khỏi
gian phòng phát hiện thi thể qua đường ống thông gió hay không. Cậu bé
mất khoảng mười lăm phút, rồi xuất hiện ở ống thông gió phía bên kia
tiền sảnh toà nhà.
“Mệt chết đi được.” Đây là cảm nhận của cậu bé. “Ở giữa có một đoạn
phải bò lên cao, nếu lực cánh tay không đủ, chắc chắn không bò lên được. Con gái không thể được đâu ạ!”
Sasagaki không thể coi nhẹ ý kiến của cậu bé. Dĩ nhiên, trong đám con gái học cấp I, cũng có một số đứa thể lực và khả năng vận động đều
không thua kém lũ con trai, nhưng hễ nghĩ đến Nishimoto Yukiho, ông thực sự không thể nào tin con bé có thể bò trong hệ thống thông gió nhanh
nhẹn như khỉ được. Theo ông điều tra, năng lực vận động của Nishimoto
Yukiho không phải đặc biệt xuất sắc gì.
Sasagaki bắt đầu nghĩ lại, liệu mình hão huyền khi nghi ngờ một cô bé mười một tuổi là hung thủ giết người hay lời khai của Kikuchi Michihiro thực sự là ảo giác của trẻ con.
“Tôi không biết hệ thống thông gió mà ông nói như thế nào, nhưng đúng là khó thể tưởng tượng con gái lại chơi trò đó, đặc biệt là Karasawa
Yukiho.” Shinozuka Kazunari trầm tư nói. Sasagaki không thể biết được
anh ta gọi Yukiho bằng họ cũ, thuần tuý chỉ vì quen miệng, hay vì không
muốn thừa nhận hiện giờ cô ta có chung họ với mình.
“Vậy tôi hoàn toàn đi vào ngõ cụt.”
“Không phải ông đã tìm được đáp án rồi sao?”
“Tôi không biết có thể khẳng định là đáp án được hay không nữa.”
Sasagaki châm điếu thuốc thứ hai. “Tôi thử quay trở lại điểm xuất phát,
gạt hết toàn bộ quan điểm trước đây sang một bên, và đã nhìn thấy những
thứ trước đó không hề thấy.”
“Ý ông là...”
“Rất đơn giản.” Sasagaki nói. “Con gái không thể nào chui qua ống
thông gió, vậy thì kẻ lợi dụng ống thông gió để rời khỏi hiện trường là
một đứa con trai.”
“Con trai...” Shinozuka Kazunari im lặng một lúc như nghiền ngẫm ý tứ của hai chữ này, rồi cất tiếng hỏi, “Ông muốn nói, Kirihara Ryoji... đã giết cha ruột của mình?”
“Đúng vậy.” Sasagaki gật đầu, “Kết quả suy luận là như thế.”
6
Tất nhiên, ý nghĩ bất ngờ đó không phải lập tức xuất hiện
trong đầu Sasagaki. Một chuyện rất nhỏ nhặt đã làm ông chú ý đến thằng
bé tên Kirihara Ryoji này.
Đó là chuyện xảy ra rất lâu sau vụ án mạng, khi Sasagaki quay lại tiệm cầm đồ Kirihara.
Sasagaki làm bộ nói chuyện phiếm hòng moi được chút gì đó liên quan
đến Kirihara Yosuke lúc còn sống từ miệng Matsuura. Matsuura tỏ rõ thái
độ chán ghét, cũng chẳng muốn nghiêm túc trả lời những câu hỏi Sasagaki
đặt ra. Hơn một năm trời không ngừng bị thẩm vấn hỏi han, cũng khó trách y không sao giữ nổi thái độ hoà nhã như lúc đầu.
“Ông cảnh sát à, ông đến bao nhiêu lần nữa cũng không có kết quả gì đâu.” Matsuura chau mày nói.
Lúc này, ánh mắt Sasagaki dừng lại ở một quyển sách đặt trên góc tủ quầy. Ông cầm quyển sách ấy lên, hỏi Matsuura, “Đây là...”
“Ồ, đấy là sách của Ryo.” Y trả lời. “Vừa nãy chẳng hiểu nó làm cái gì mà bỏ ở đó, chắc là quên mất rồi.”
“Ryoji thích đọc sách à?”
“Nó đọc cũng khá nhiều, quyển ấy hình như là mua, nhưng hồi trước nó cũng thường đến thư viện lắm.”
“Thường đến thư viện?”
“Phải rồi.” Matsuura gật đầu, vẻ mặt như thể đang nói: thế thì có gì không ổn?
“Hừm.” Sasagaki gật đầu, trả quyển sách về vị trí cũ, nhưng bắt đầu cảm thấy nhộn nhạo trong lòng.
Đó là quyển Cuốn theo chiều gió, cũng chính là quyển sách mà Yukiho đang đọc lúc Sasagaki đến tìm Nishimoto Fumiyo.
Sasagaki không biết đây có thể gọi là điểm chung hay không. Hai học
sinh cấp I ham đọc sách tình cờ lại đọc cùng một quyển sách, khả năng
này là rất lớn. Vả lại, Yukiho và Ryoji không phải đọc Cuốn theo chiều
gió trong cùng một thời điểm, Yukiho đọc nó sớm hơn một năm.
Nhưng đây cũng là một sự trùng hợp khiến người ta cảm thấy tò mò, vậy là Sasagaki đến thư viện đó. Từ toà nhà phát hiện cái xác của Kirihara
Yosuke đi về phía Bắc chừng hai trăm mét, có một nhà nhỏ màu xám. Đó
chính là thư viện.
Sasagaki đưa cho nữ thủ thư đeo kính, thoạt nhìn đã biết thời trẻ là
một thiếu nữ mê văn chương xem ảnh Nishimoto Yukiho. Cô vừa nhìn tấm
ảnh, đã gật mạnh đầu.
“Cô bé này hồi trước hay đến lắm, lần nào cũng mượn rất nhiều sách, tôi nhớ cô bé.”
“Cô bé chỉ đến một mình à?”
“Vâng, chỉ đến một mình.” Nói đoạn, người thủ thư hơi nghiêng nghiêng đầu. “À, nhưng mà, thỉnh thoảng cũng đi với bạn nữa, một cậu bé.”
“Cậu bé, hình như là bạn học.”
Sasagaki vội vàng lấy ảnh ra, là ảnh chụp vợ chồng nhà Kirihara với Ryoji. Ông chỉ vào Ryoji nói, “Có phải cậu bé này không?”
Người thủ thư nheo nheo mắt nhìn tấm ảnh.
“Vâng, có vẻ giống, nhưng tôi không dám chắc một trăm phần trăm.”
“Chúng luôn đi với nhau à?”
“Tôi nghĩ là không, chỉ thỉnh thoảng thôi. Hai đứa nó thường cùng tìm sách. À, còn nữa, chúng còn chơi trò cắt giấy.”
“Cắt giấy?”
“Cậu bé khéo tay cắt giấy thành các hình khác nhau cho cô bé xem. Tôi nhớ mình từng nhắc nhở nó đừng vứt giấy vụn ra lung tung. Nhưng tôi xin nhắc lại là, tôi thật sự không thể xác định nó có phải thằng bé ở trên
ảnh hay không, chỉ có thể nói là rất giống.”
Có lẽ sợ ý kiến của mình có ảnh hưởng gì đó mang tính quyết định nên
giọng người thủ thư nghe rất cẩn trọng. Thế nhưng, Sasagaki đã gần như
xác định. Trong đáy mắt ông hiện lên hình cắt giấy tinh xảo từng thấy
trong phòng Ryoji. Thì ra Yukiho và Ryoji thường gặp nhau ở đây. Lúc xảy ra án mạng, hai đứa đã quen nhau rồi.
Đối với Sasagaki, đây gần như là một phát hiện mới đảo ngược tất cả
những gì ông nghĩ trước đó, cách nhìn của ông đối với vụ án mạng đã thay đổi một trăm tám mươi độ.
Vậy là, ông lại quay về với giả thiết hung thủ thoát thân qua lối thông gió.
Nếu là Kirihara Ryoji, thì có thể chui qua chui lại tự nhiên trong
ống thông gió. Sự thật là một cậu bé từng học cùng lớp với Ryoji hồi lớp ba và lớp bốn ở trường cấp I Oe nói, bọn chúng thường hay chui vào ống
thông gió chơi. Theo lời cậu bé ấy, Ryoji rất thông thạo vị trí và hướng đi trong hệ thống thông gió của toà nhà.
Còn chứng cứ ngoại phạm? Vào thời điểm được suy đoán là thời điểm tử
vong của Kirahara Yosuke, Ryoji, Yaeko và Matsuura đều ở nhà. Nhưng khả
năng hai người kia bao che cho Ryoji rất lớn, mà tổ chuyên án lại chưa
từng xem xét kỹ theo chiều hướng này.
Nhưng mà...
Con trai liệu có sát hại cha đẻ của mình hay không?
Lẽ dĩ nhiên, trong lịch sự tội phạm dài đằng đẵng, cũng có nhiều vụ
án con giết cha. Nhưng đằng sau những vụ án dị thường như thế, chắc chắn phải có bối cảnh, động cơ và điều kiện. Nếu bị hỏi giữa hai cha con
Kirihara phải chăng có tồn tại một trong những vấn đề trên, Sasagaki
đành phải trả lời là không có vấn đề gì cả. Theo như ông điều tra được,
giữa hai cha con nhà này không hề có bất kỳ va chạm gì. Chẳng những vậy, gần như tất cả lời khai đều nói Kirihara Yosuke cưng chiều đứa con duy
nhất, Ryoji cũng rất kính trọng cha mình.
Sasagaki một mặt tiếp tục tiến hành điều tra thực địa, một mặt nghi
ngờ phải chăng đây là tưởng tượng của mình, liệu có phải đó chỉ là những ý tưởng hão huyền nảy sinh do suy nghĩ quá nhiều vì rơi vào giữa đám
sương mù mờ mịt hay không?
“Tôi hiểu rất rõ, nếu nói với người khác những suy đoán này, chỉ tổ
bị coi là viển vông hão huyền. Vì vậy, giả thuyết cho rằng Ryoji là hung thủ, tôi thậm chí còn không nhắc đến với đồng nghiệp và cấp trên. Nếu
nói ra, nhất định bọn họ sẽ nghĩ đầu óc tôi có vấn đề, có lẽ từ khi ấy
đã phải lùi khỏi tuyến đầu rồi.” Sasagaki cười thiểu não. Thái độ nửa
đùa nửa thật.
“Vậy thì, sau này ông có phát hiện thêm gì về động cơ hay không?” Kazunari hỏi.
Sasagaki lắc đầu. “Vào thời điểm đó phải nói là không có phát hiện,
Ryoji không thể nào vì một triệu yên đó mà giết chết cha mình được.”
“Ông nói là vào thời điểm đó không có, thế tức là, giờ đã có rồi?”
Kazunari hơi nhổm người lên, Sasagaki giơ tay bảo anh ta đừng rốt ruột.
“Làm ơi để tôi kể theo thứ tự. Trong tình trạng ấy, tôi muốn tự mình
điều tra cũng bị ngăn trở. Nhưng sau đấy tôi vẫn luôn theo dõi hai đứa
trẻ này. Nói vậy nhưng không phải lúc nào cũng bám sát, chỉ là thỉnh
thoảng đến khu vực quanh đấy hỏi thăm một vài thông tin, nắm được quá
trình trưởng thành của chúng, học trường nào lớp nào chẳng hạn, vì tôi
cho rằng, bọn chúng ắt hẳn sẽ tiếp xúc với nhau vào một lúc nào đó, ở
một nơi nào đó.”
“Kết quả thế nào?”
Sasagaki đáp lại bằng một tiếng thở dài.
“Tôi không thể tìm ra được điểm giao nhau giữa hai con người này.
Nhìn từ trên xuống dưới từ trong ra ngoài, bọn chúng đều là hai người
hoàn toàn không có dính dáng gì đến nhau. Nếu tình trạng này cứ tiếp tục kéo dài, chắc là ngay cả tôi cũng sẽ bỏ cuộc.”
“Đã xảy ra chuyện gì ạ?”
“Đúng thế, hồi chúng học lớp chín...” Sasagaki đưa ngón tay vào bao
thuốc, nhưng bên trong đã trống không. Kazunari liền mở nắp hộp thuỷ
tinh đặt trên bàn, bên trong đừng đầy thuốc lá hiệu Kent. Sasagaki nói
cảm ơn, đoạn cầm lên một điếu.
“Hồi học lớp chín... nói vậy, có liên quan đến vụ bạn học của
Karasawa Yukiho bị tấn công?” Kazunari vừa châm thuốc cho Sasagaki vừa
nói.
Sasagaki nhìn Kazunari. “Anh cũng biết chuyện đó à?”
“Anh Imaeda nói cho tôi biết.” Kazunari đáp, vụ án nghi là hiếp dâm
thời cấp II, rồi chuyện người phát hiện ra nạn nhân là Yukiho, đều do
Imaeda nói với anh ta. Kazunari còn nói, anh ta từng kể với Imaeda, thời đại học bản thân mình cũng biết đến một vụ việc tương tự, và Imaeda đã
coi Yukiho là điểm liên kết giữa hai vụ việc này.
“Quả không hổ là thám tử chuyên nghiệp, cả những chuyện này mà cũng điều tra được. Tôi đang muốn nói đến vụ án hiếp dâm đó đây.”
“Vâng.”
“Chỉ có điều, góc nhìn của tôi có hơi khác với anh Imaeda. Vụ án hiếp dâm đó cuối cùng không bắt được thủ phạm, nhưng khi ấy có một nghi can, đó là một học sinh lớp chín của một trường khác. Nhưng sau đó đã xác
nhận được chứng cứ ngoại phạm của cậu ta, giải tỏa mọi nghi ngờ. Vấn đề
là ở người xác nhận chứng cứ ngoại phạm của nghi phạm kia.” Sasagaki
phun ra một màn khói mà ông gọi là khói thuốc lá cao cấp hình thành bởi
thuốc lá cao cấp, rồi tiếp lời, “Nghi phạm ấy tên là Kikuchi Fumihiko,
chính là anh trai của cậu bé phát hiện ra cái xác mà tôi nhắc đến lúc
nãy, còn người làm chứng cậu ta không có mặt tại hiện trường, chính là
Kirihara Ryoji.”
“Ồ?” Kazunari kinh ngạc thốt lên một tiếng, thân hình hơi bật dậy khỏi xô pha.
Sasagaki có vẻ rất hài lòng trước phản ứng của anh ta.
“Chuyện này đúng là thật kỳ lạ! Không thể giải thích bằng hai chữ ‘trùng hợp’ được.”
“Rốt cuộc là thế nào?”
“Trên thực tế, vụ án hơn một năm rồi tôi mới nghe nói đến. Chính Kikuchi Fumihiko nói cho tôi biết.”
“Chính cậu ta?”
“Vì việc phát hiện ra xác chết kia nên tôi có quen biết hai anh em
Kikuchi. Một lần tình cờ gặp lại sau một thời gian dài, Kikuchi Fumihiko có nói rằng một năm trước xảy ra một chuyện kỳ lạ, sau đó kể lại vụ
hiếp dâm cùng chuyện cậu ta bị nghi ngờ.”
Sasagaki tình cờ gặp Kikuchi Fumihiko phía trước một đền thờ Thần Đạo bên cạnh trường cấp I Oe. Bấy giờ cậu ta đã là một học sinh cấp III.
Sau khi kể chuyện trường lớp, cậu ta dường như sực nhớ ra, bèn kể lại
chuyện vụ hiếp dâm đó.
“Nói một cách vắn tắt là thế này: lúc vụ án xảy ra, Kikuchi đang xem
phim. Đúng lúc cậu ta khổ sở không biết chứng minh chuyện này thế nào,
Kirihara Ryoji liền xuất hiện. Phía đối diện rạp chiếu phim có một hiệu
sách nhỏ, hôm ấy Kirihara và người bạn thời cấp I cùng ở trong hiệu sách đó, tình cờ trông thấy Kikuchi đi vào rạp chiếu phim. Cảnh sát cũng đã
xác nhận lại với người bạn đi cùng Kirihara, chứng minh lời khai của cậu ta là sự thật.”
“Vì vậy Kikuchi đã được minh oan?”
“Đúng thế, Kikuchi cho rằng mình rất may mắn. Nhưng chẳng bao lâu
sau, Kirihara liền liên lạc với cậu ta, ý nói rằng, nếu cậu ta biết thì
đừng có làm bừa.”
“Làm bừa?”
“Kikuchi nói, lúc ấy cậu ta lấy được một tấm ảnh từ chỗ bạn, nghe nói là chụp mẹ Kirihara với người làm công trong tiệm cầm đồ hẹn hò với
nhau. Kikuchi từng cầm tấm ảnh đó cho Kirihara xem.”
“Ảnh hẹn hò... nói như vậy, hai người họ quả nhiên là có tư tình.”
“Chắc vậy. Nhưng tạm gác chuyện này sang một bên đã.” Sasagaki gật
đầu, gảy gảy tàn thuốc, “Kirihara yêu cầu Kikuchi giao tấm ảnh ra, đồng
thời bắt cậu ta phải thề, từ đó trở đi không được tìm hiểu về vụ án mạng ấy nữa.”
“Nghĩa là đòi trả ơn nhỉ.”
“Đúng thế. Nhưng mà, sau đó Kikuchi nghĩ kỹ lại chuyện này, cho rằng
sự việc có thể không đơn thuần như vậy, nên mới kể với tôi.”
Sasagaki vừa nói vừa nhớ lại gương mặt mọc đầy mụn trứng cá của Kikuchi Fumihiko.
“Không đơn thuần nghĩa là...”
“Nghĩa là tất cả có thể đều là sắp đặt.” Điếu thuốc giữa hai ngón tay Sasagaki đã rất ngắn, nhưng ông vẫn rít thêm một hơi nữa. “Sở dĩ
Kikuchi bị nghi ngờ vì móc chìa khoá của cậu ta rơi ở hiện trường. Nhưng Kikuchi nói cậu ta chưa từng đến chỗ đó, mà cái móc chìa khoá ấy cũng
không phải thứ dễ dàng rơi ra được.”
“Ý ông là, Kirihara Ryoji đã trộm cái móc chìa khoá, rồi bỏ ở hiện trường.”
“Có vẻ Kikuchi nghĩ như thế. Vậy nên cậu ta nói Kirihara mới là hung
thủ thực sự. Sau khi trông thấy Kikuchi ở rạp chiếu phim cùng người bạn
kia, cậu ta lập tức chạy đến hiện trường, tấn công cô bé đã xác định từ
trước rồi để lại chứng cứ, khiến Kikuchi bị nghi ngờ.”
“Từ trước đó Kirihara đã biết Kikuchi sẽ đi xem phim vào ngày hôm ấy sao?” Kazunari đưa ra một nghi vấn hiển nhiên.
“Vấn đề chính là ở đây.” Sasagaki giơ ngón trỏ lên. “Kikuchi nói, cậu ta không hề kể chuyện này cho Kirihara biết.”
“Vậy thì, chẳng phải Kirihara không thể sắp đặt được cái bẫy này sao?”
“Đúng là sẽ dẫn đến kết luận đó, suy luận của Kikuchi cũng bị kẹt lại ở đây.”
“Nhưng mà, cháu vẫn cảm thấy chuyện này nhất định là do nó bày ra.”
Đến giờ Sasagaki vẫn nhớ như in nét mặt không phục của Kikuchi khi nói
ra những lời đó.
“Tôi cũng cảm thấy rất kỳ lạ, vì vậy sau khi nghe chuyện của Kikuchu, bèn tìm đọc lại ghi chép của vụ án hiếp dâm đó, kết quả làm tôi giật
mình kinh ngạc.”
“Vì Karasawa Yukiho cũng dính dáng vào phải không?”
“Chính thế.” Sasagaki giật mạnh đầu. “Nạn nhân là một cô bé tên
Fujimura Miyako, người phát hiện là Karasawa Yukiho. Tôi cho rằng ở đây
nhất định có vấn đề, nên lại tìm gặp Kikuchi, xác định lại tường tận
từng chi tiết.”
“Ông nói tường tận tức là...”
“Chi tiết từng sự việc xảy ra cho đến ngày cậu ta đi xem phim. Kết quả, tôi phát hiện ra một chuyện rất thú vị.”
Sasagaki thấy miệng khô khốc, bèn uống hết chỗ cà phê đã lạnh ngắt.
“Khi đó, mẹ Kikuchi đang làm việc ở hàng bán bánh ngọt trong chợ, vé xem phim ưu đãi là của khách cho mẹ cậu ta. Lại là bộ phim Kikuchi rất muốn xem. Tuy nhiên, thời hạn sử dụng lại chính là ngày hôm đó, như vậy tức
là, cậu ta chỉ có thể đi xem luôn hôm đó thôi.”
Nghe tới đây, Kazunari dường như đã hiểu được ý của Sasagaki.
“Người khách cho tấm vé ưu đãi ấy là ai?”
“Cậu ta không biết họ tên, nhưng nhớ là mẹ mình từng nói thế này: một cô bé phong thái tao nhã, chắc học lớp chín hoặc cấp III...”
“Karasawa Yuhiko?”
“Nghĩ như vậy cũng không bất ngờ gì đúng không? Nếu cho rằng Karasawa Yukiho và Kirihara Ryoji muốn bịt miệng Kikuchi, nên mới thiết kế ra vụ án hiếp dâm đó, mọi việc đều trở nên rất logic. Tuy rằng vì chuyện này
mà hy sinh một cô bé vô tội hoàn toàn không liên quan gì, thật không thể tìm được từ ngữ nào ngoài từ ‘tàn nhẫn’.”
“Không, cô bé họ Fujimura ấy, có lẽ không thể nói là hoàn toàn không liên quan.”
Câu nói này làm Sasagaki nhìn chằm chằm vào Kazunari, “Anh nói vậy là ý gì?”
“Bọn chúng chọn cô bé ấy là có nguyên nhân. Đây cũng là do anh Imaeda nói với tôi.”
Kazunari thuật lại chuyện cô bé bị tấn công có ý cạnh tranh với
Yukiho, còn đi khắp nơi gieo rắc tin đồn về thân thế của Yukiho, nhưng
sau khi sự việc xảy ra lại hoàn toàn thay đổi thái độ, hết sức nghe lời
Yukiho... cho Sasagaki. Ông hoàn toàn không biết gì về những chuyện này.
“Đây là lần đầu tiên tôi nghe chuyện này đấy. Thì ra thế, vụ việc này có thể cùng lúc đạt được mục đích của Karasawa và Kirihara, đúng là một mũi tên trúng hai đích!” Sasagaki trầm ngâm, sau đó, ông nhìn Shinozuka nói, “Có chuyện này hơi khó nói, nhưng vụ việc xảy ra thời đại học mà
anh Shinozuka vừa nhắc đến lúc nãy, có đúng là ngẫu nhiên không?”
Kazunari nhìn vào mắt Sasagaki. “Ý ông là, đó cũng là ý đồ của Karasawa Yukiho?”
“Tôi không thể khẳng định là không phải vậy.”
“Anh Imaeda cũng đưa ra suy lận tương tự.”
“Vậy sao? Đúng như tôi nghĩ.”
“Nếu đúng là thế, tại sao cô ta phải làm chuyện đó chứ?”
“Vì cô ta tin cách làm này có thể dễ dàng tước đoạt đi linh hồn của đối phương.”
“Tước đoạt linh hồn?”
“Đúng. Động cơ sát hạt tay chủ tiệm cầm đồ, có lẽ ẩn giấu trong niềm tin như vậy.”
Đúng lúc Kazunari trợn tròn mắt lên, chiếc điện thoại trên bàn làm việc đổ chuông.
7
Shinozuka Kazunari nói một tiếng “Xin lỗi” rồi rời chỗ ngồi.
Sau khi thấp giọng nói mấy câu, anh ta lập tức quay lại. “Xin lỗi ông.”
“Anh bận à?”
“Không có gì. Cuộc điện thoại vừa nãy không phải công việc của công ty, là cá nhân tôi đang tiến hành điều tra.”
“Điều tra?”
“Vâng.” Kazunari gật đầu, có vẻ hơi do dự, nhưng cuối cùng vẫn mở miệng. “Vừa nãy ông Sasagaki bảo là tôi đã thăng chức nhỉ?”
“Đúng vậy.” Sasagaki thầm nghĩ, nói vậy thì có gì không ổn đâu?
“Thực ra, đây coi như là giáng chức.”
“Giáng chức? Không phải chứ.” Sasagaki bật cười. “Anh là cậu chủ nhà Shinozuka cơ mà.”
Nhưng Kazunari không cười.
“Ông Sasagaki có biết công ty Dược phẩm Unics không nhỉ?”
“Tôi biết.”
“Từ năm ngoái đến năm nay, không ngừng xảy ra những sự việc lạ lùng.
Chúng tôi và họ là đối thủ cạnh tranh trên rất nhiều lĩnh vực, có mấy
hạng mục tiêu nghiên cứu, tư liệu nội bộ của công ty Dược phẩm Shinozuka đã bị tiết lộ cho đối phương.”
“Ơ, có chuyện này sao?”
“Là người bên trong Unics bí mật thông báo, nhưng Unics không chịu thừa nhận.” Nói đoạn, Kazunari cười gượng.
“Làm công việc nghiên cứu thì nội bộ nhất định là phức tạp lắm. Nhưng chuyên này thì có quan hệ gì với anh Shinozuka?”
“Thông tin nội bộ từ công ty ấy nói tư liệu là do tôi cung cấp.”
Sasagaki giật mình kinh ngạc. “Sao có thể đươc?”
“Đúng vậy.” Kazunari lắc đầu. “Tôi hoàn toàn không biết chuyện là thế nào. Cũng không ai biết kẻ tố cáo rốt cuộc là ai, vì hắn ta chỉ liên
lạc qua điện thoại và thư từ. Chỉ có điều, tư liệu nội bộ của Dược phẩm
Shinozuka đúng là đã bị tiết lộ ra ngoài. Nhìn thấy tư liệu của kẻ mật
báo kia gửi đến, đám người phòng Nghiên cứu đều xanh mặt.”
“Nhưng anh Shinozuka không thể nào làm chuyện đó được.”
“Nhất định là có người bày kế hại tôi.”
“Anh có nghi ai không?”
“Không.” Kazunari trả lời ngay lập tức.
“Ừm. Nhưng mà, nếu vì vậy mà bị giáng chức, thì thật sự quá...” Sasagaki nghiêng đầu trầm tư.
“Các thành viên hội đồng quản trị dường như cũng tin tôi không làm
điều đó. Nhưng đã xảy ra chuyện như thế, công ty cũng không thể không có hành động gì. Vả lại, cũng có người cho rằng nếu đã bị người khác bày
kế làm hại, chứng tỏ bản thân phải có vấn đề.”
Sasagaki không biết nên nói gì, chỉ trầm ngâm mãi.
“Còn một điểm nữa.” Nói tới đây, Kazunari giơ một ngón tay lên.
“Trong số các thành viên hội đồng quản trị có một người hy vọng có thể
điều tôi đi xa cho khuất mắt.”
“Ai?”
“Anh họ tôi, Yasuharu.”
“À... Ra là vậy.” Sasagaki đã hiểu ra.
“Anh ấy dường như cho rằng đây là một cơ hội tốt, có thể tống khứ mớ
phiền phức làm khó vị hôn thê của mình đi. Nhưng với tôi thì lại nói,
lần điều động này chỉ là tạm thời, sẽ nhanh chóng điều trở về. Có trời
mới biết là đến lúc nào.”
“Cuộc điều tra mà anh nói chỉ việc gì vậy?”
Nghe Sasagaki nói, sắc mặt Kazunari lại trở nên nặng nề.
“Tôi đang điều tra xem tư liệu nội bộ làm sao lại bị tiết lộ ra ngoài?”
“Có manh mối gì không?”
“Ở mức độ nào đó thì coi như có.” Kazunari nói. “Hình như thủ phạm xâm nhập qua máy tính.”
“Máy tính?”
“Công ty Dược phẩm Shinozuka đang chuyển sang điện tử hoá, không chỉ
nội bộ công ty liên lạc với nhau qua mạng, mà mấy cơ quan nghiên cứu bên ngoài cũng có thể trao đổi số liệu bất cứ lúc nào. Xem chừng hắn đã xâm nhập qua hệ thống mạng này. Chính là cái kẻ được coi là hacker đó.”
Sasagaki không biết trả lời như thế nào, bèn im lặng. Đây là lĩnh vực ông không thạo.
Kazunari dường như cũng hiểu được tâm sự của viên cảnh sát già, khoé miệng nở một nụ cười.
“Không cần phải nhọc công suy nghĩ vậy đâu. Tóm lại là giở trò trên
máy tính của công ty Dược phẩm Shinozuka thông qua đường dây điện thoại. Dựa theo những gì điều tra được trước mắt đã biết kẻ kia xâm nhập từ
đâu rồi. Máy tính của khoa Dược trường đại học Teito là trạm trung
chuyển. Có nghĩa là, thủ phạm đã xâm nhập hệ thống của đại học Teito,
rồi từ đó đi vào mạng của công ty Dược phẩm Shinozuka. Chỉ có điều, muốn điều tra ra kẻ ấy xâm nhập hệ thống của Đại học Teito từ đâu, sợ là hết sức khó khăn.”
“Đại học Teito?”
Sasagaki cảm thấy tên này quen quen. Ngẫm nghĩ một hồi, chợt nhớ ra
câu chuyện giữa ông và Sugawara Eri. Cô gái đến tận nơi tìm Imaeda,
chính là dược sĩ ở bệnh viện trực thuộc đại học Teito.
“Anh nói là khoa Dược? Vậy dược sĩ tại bệnh viện trực thuộc Đại học Teito cũng có thể sử dụng máy tính ở đó chứ?”
“Về cơ bản thì chắc chắn là vậy. Có điều máy tính của công ty Dược
phẩm Shinozuka tuy có thể liên kết với cơ quan nghiên cứu bên ngoài,
nhưng không phải tất cả thông tin đều công khai. Trong hệ thống chỗ nào
cũng đặt tường lửa để thông tin mật trong nội bộ công ty không thể tiết
lộ ra ngoài. Vì vậy tên hacker kia hẳn phải là người có kiến thức tương
đối về máy tính. Có lẽ hắn là chuyên gia rồi.”
“Chuyên gia máy tính à...?”
Trong đầu Sasagaki chợt loé lên một ý nghĩ. Ông nghĩ đến một kẻ duy
nhất. Dược sĩ ở bệnh viện trực thuộc Đại học Teito từng đến văn phòng
thám tử Imaeda, tên hacker bí ẩn giăng bẫy hại Shinozuka Kazunari... đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi sao?
“Sao vậy ạ?” Kazunari ngạc nhiên hỏi.
“Không có gì.” Sasagaki xua tay. “Không có gì.”
“Cuộc điện thoại ban nãy làm ngắt lời ông.” Kazunari ngồi thẳng lưng lên. “Nếu có thể, phiền ông tiếp tục kể.”
“À, tôi kể tới đâu rồi nhỉ?”
“Động cơ. Ông nói, đó quá nửa là do niềm tin của bọn chúng.”
“Đúng vậy.” Sasagaki cũng ngồi thẳng người lên.
8
Khoảng thời gian ấy tựa như ở trong một túi khí vậy.
Chiều thứ Bảy, Mika như thường lệ ở trong phòng vừa xem tạp chí vừa
nghe nhạc. Trên tủ đầu giường đặt cốc trà không và cái đĩa để mấy cái
bánh quy. Đó là do Taeko mang tới hai mươi phút trước. Lúc ấy, bà nói:
“Cô chủ Mika, lát nữa tôi phải ra ngoài một lúc, phiền cô trông nhà nhé.”
“Bác ra ngoài sẽ khoá cửa lại chứ?”
“Đương nhiên rồi.”
“Vậy thì tốt, mặc xác là ai đến cháu cũng không ra.” Mika nằm dài trên giường xem tạp chí, trả lời.
Sau khi Taeko ra ngoài, căn nhà rộng thênh thang chỉ còn lại một mình Mika. Yasuharu đã đi đánh golf, Yikiho đi làm, em trai Youdai thì sang
nhà ông nội chơi, tối nay nó sẽ ngủ qua đêm bên đó.
Tình trạng này cũng không phải hiếm gặp. Sau khi mẹ đẻ qua đời, Mika
đã thường xuyên bị bỏ ở nhà một mình. Thoạt đầu cô còn cảm thấy buồn,
giờ ngược lại thấy một mình còn thoải mái tự do hơn. Ít nhất, cũng tốt
hơn là ở riêng với Yukiho.
Đúng lúc cô nhổm dậy khỏi giường, chuẩn bị đổi đĩa CD, ngoài hành
lang chợt vang lên tiếng chuông điện thoại. Cô chau mày, nếu là bạn gọi
đến, đương nhiên là cô sẽ rất vui, nhưng có lẽ không phải. Trong nhà cô
có ba đường điện thoại, một đường dành riêng cho Yasuharu, một đường của Yukiho, còn lại là cả nhà dùng chung. Mika đã nài nỉ Yasuharu cho cô có đường dây điện thoại riêng từ lâu, nhưng bố mẹ cô nhất quyết không
chịu.
Mika ra khỏi phòng, cầm chiếc máy con của bộ điện thoại không dây trên hành lang.
“A lô, nhà Shinozuka ạ.”
“À, chào cô. Tôi ở hãng chuyển phát nhanh Kakkou, xin hỏi cô Shinozuka Mika có ở nhà không?” Là giọng một người đàn ông.
“Tôi đây.” Cô trả lời.
“Ồ, à... có đồ của cô Hishikawa Tomoko gửi cho cô, xin hỏi bây giờ đưa đến có được không?”
Nghe thấy mấy câu này, Mika lấy làm thắc mắc. Lúc chuyển phát đồ đến
sẽ báo cho người nhận trước như vậy sao? Có điều, cô cho rằng đây là
phương thức vận chuyển của một hệ thống đặc biệt, nên cũng không nghĩ
ngợi nhiều. Ngược lại, cái tên Hishikiwa Tomoko lại gợi lên trí tò mò
của cô. Tomoko là bạn học chung với cô hồi lớp tám, mùa xuân năm nay vì
công việc của bố, nên đã chuyển nhà đến Nagoya.
“Được ạ.” Cô trả lời.
Người ở đầu dây bên kia nói. “Vậy bây giờ tôi sẽ mang đến.”
Mấy phút sau khi gác điện thoại, chuông cửa vang lên. Mika đang ngồi
đợi ngoài phòng khách cầm ống nghe của máy điện đàm vô tuyến lên, trên
màn hình xuất hiện một người đàn ông mặc đồng phục của công ty chuyển
phát nhanh, hai tay cầm một cái hộp cỡ như thùng giấy đựng hoa quả.
“A lô.”
“Chào cô, tôi ở chuyển phát nhanh Kakkou.”
“Mời vào.” Mika ấn nút mở cửa, như vậy là đã có thể mở khoá cánh cửa bên cạnh cổng lớn.
Mika cầm con dấu ra tiền sảnh đợi. Một lát sau, tiếng chuông vang lên lần thứ hai. Cô mở cửa ra. Người đàn ông ôm thùng giấy đứng ở ngay bên
ngoài.
“Xin hỏi tôi đặt ở đâu ạ? Đồ nặng lắm.” Người đàn ông nói.
“Đặt ở đây được rồi.” Mika chỉ vào sàn tiền sảnh.
Người đàn ông bước vào, đặt thùng giấy xuống đó. Anh ta đeo kính, mũ sụp xuống rất thấp. “Phiền cô đóng dấu.”
“Vâng.” Cô trả lời, lấy con dấu ra. Người đàn ông rút phiếu giao hàng ra. “Phiền cô đóng vào chỗ này.”
“Đóng vào đâu ạ?” Cô bước lại gần anh ta.
“Chỗ này.” Người đàn ông cũng bước lại gần cô.
Mika đang định đóng dấu.
Đúng lúc đó tờ hoá đơn đột nhiên biến mất khỏi tầm mắt.
Cô đang định kêu lên, thì miệng đã bị thứ gì đó chặn lại, hình như là giẻ. Trong cơn kinh ngạc cực độ, cô hít vào một hơi. Vào khoảnh khắc
ngắn ngủi đó, cô đã bất tỉnh.
Cảm giác về thời gian trở nên hết sức kỳ quái. Tai cô ù ghê gớm,
nhưng đó chỉ là lúc có ý thức, ý thức tựa như chiếc radio tín hiệu cực
kỳ kém, chốc chốc lại đứt đoạn. Toàn thân cô không sao nhúc nhích, tay
chân cũng dường như không còn là của mình nữa.
Mika không phân biệt nổi đó là mơ hay thực nữa, đau đớn dữ dội là cảm giác duy nhất mà cô có thể xác định. Cô không chú ý ngay được rằng nỗi
đau đến từ trung tâm cơ thể mình, bởi vì quá đau đớn, cảm giác toàn thân tựa hồ đã tê liệt.
Người đàn ông ở ngay trước mặt cô, nhưng không nhìn rõ mặt hắn. Hơi thở hắn phả lên người cô, rất nóng. Cô bị cưỡng hiếp...
Đây chỉ là nhận thức của bản thân Mika, cô hiểu rằng thân thể mình
đang bị làm nhục, nhưng tâm trí lại tựa như đang quan sát từ xa. Ý thức ở cao hơn một tầng đang quan sát, thầm nhủ: sao mình lại sơ ý thế không
biết?
Một mặt khác, nỗi sợ chưa từng có bủa vây cô. Đó là nỗi sợ khi sắp
sửa rơi xuống một vực sâu không biết dưới đáy có gì. Nỗi sợ không biết
chốn địa ngục này sẽ kéo dài đến bao giờ.
Cô không biết cơn sóng gió ấy đi từ khi nào, có lẽ lúc đó cô đã ngất.
Thị thực dần dần hồi phục lại bình thường đầu tiên, cô nhìn thấy một
hàng bonsai xếp ngay ngắn, toàn là cây xương rồng. Đó là của Yukiho mang từ nhà mẹ ở Osaka đến.
Kế đó, thính giác của cô cũng hồi phục, bên tai nghe thấy tiếng xe không biết từ đâu vẳng tới, có cả tiếng gió nữa.
Đột nhiên, cô nhận ra chỗ này không phải trong nhà, cô đang ở ngoài
sân. Cô nằm trên cỏ, nhìn thấy tấm lưới, đó là tấm lưới Yasuharu dùng để tập đánh golf.
Cô chống nửa thân trên dậy, thấy khắp người đau đớn, có chỗ bị sây
sát, cũng có chỗ bị va bầm tím. Nhưng trung tâm của cơ thể cô có một cảm giác đau đớn âm ỉ không phải bị sây sát, cũng không phải bị va đập, mà
như thế nội tạng bị khuấy đảo lên vậy.
Cô cảm nhận được không khí lạnh lẽo, nhận ra mình gần như loã thể.
Trên người tuy có mặc mấy món quần áo, nhưng đã bị xé thành vải vụn.
Mình rất thích cái áo này... một ý thức khác lạnh lùng đưa ra cảm tưởng.
Váy vẫn còn mặc trên người, nhưng không cần nhìn cũng biết quần lót
đã bị tụt ra. Mika ngây người ra nhìn phía xa, bầu trời bắt đầu ửng sắc
hồng.
“Mika!” Đôt nhiên vẳng đến tiếng gọi.
Mika quay đầu nhìn về phía phát ra tiếng gọi, Yukiho đang chạy như
bay đến. Cô nhìn cảnh tượng trước mắt, cảm giác như mình đang ở trong
mơ.
9
Chiếc quai túi của cửa hàng tiện lợi cấn sâu trên ngón tay cô. Là do nước khoáng trong chai nhựa và gạo quá nặng. Xách theo những
thứ ấy, Kurihara Noriko khó nhọc mở cánh cửa ngoài tiền sảnh.
Cô rất muốn cất tiếng nói “Em về rồi đây”, nhưng không phát ra âm
thanh nào, vì cô biết rõ bên trong đã không còn ai để nghe những lời ấy
nữa.
Noriko đặt những thứ mới mua về xuống trước tủ lạnh, rồi mở cửa căn
phòng kiểu Tây. Trong phòng tối đen như mực, không khí lạnh lẽo. Trong
bóng tối, hiện lên một bộ máy tính cá nhân màu trắng. Lúc trước, màn
hình của nó bao giờ cũng phát sáng, cũng chẳng phát ra âm thanh nào hết.
Noriko quay ra bếp, sắp xếp những thứ vừa mua. Đồ tươi, đồ đông lạnh
cô cho vào tủ lạnh, những thứ khác thì bỏ vào tủ bếp bên cạnh. Trước khi đóng cửa tủ lạnh, cô lấy ra một lon bia.
Cô vào phòng kiểu Nhật, bật ti vi lên, rồi vặn lò sưởi. Trong lúc đợi căn phòng ấm lên, cô đắp tấm chăn cuộn thành một đống trong góc phòng
lên đùi. Trên ti vi, các nghệ sĩ hài đang chơi trò chơi, người nào kết
quả kém nhất sẽ bị phạt nhảy bật cao. Cô thầm nhủ, tiết mục vớ vẩn.
Trước đây, cô chẳng bao giờ xem những chương trình kiểu này, nhưng hiện
giờ, cô lại lấy làm may mắn vì có thứ ngu xuẩn như thế tồn tại trên đời. Ở trong căn phòng u ám lạnh lẽo thế này, cô không hề muốn xem những
chương trình khiến tâm trạng mình thêm nặng nề.
Noriko giật nắp lon bia, uống một ngụm lớn. Chất lỏng lạnh buốt từ cổ họng trôi xuống dạ dày, toàn thân cô nổi da gà, khẽ run lên. Nhưng đó
cũng là một thứ khoái cảm. Vì vậy, cho dù đã vào đông, trong tủ lạnh nhà cô vẫn không thể thiếu bia. Mùa đông năm ngoái cũng thế, những lúc trời lạnh anh ta lại càng muốn uống bia. Anh ta nói, như vậy có thể khiến
thần kinh thêm nhạy bén.
Noriko ngồi ôm gối, thầm nghĩ, phải ăn tối mới được. Không cần nấu
nướng công phu, chỉ cần cho những thứ vừa mua ở cửa hàng tiện lợi 24/24h lúc nãy vào lò vi sóng làm nóng một chút là được. Thế nhưng, ngay cả
thế cô cũng cảm thấy thật phiền phức, cả người rũ ra không còn chút sức
lực nào cả. Hơn nữa, nguyên nhân chủ yếu là cô chẳng hề có cảm giác muốn ăn.
Cô chỉnh âm lượng ti vi lớn lên, trong nhà không có âm thanh, cảm giác càng lạnh lẽo. Cô hơi nhích lại gần chiếc lò sưởi.
Nguyên nhân thì Noriko đã quá rõ. Cô cô đơn. Ở trong căn phòng tĩnh lặng, dường như cô sẽ bị nỗi cô độc đè nén cho vỡ tung.
Hồi trước không như vậy. Sống một thân một mình vừa thoải mái vừa vui vẻ, chính vì nghĩ thế, cô mới thanh lý hợp đồng với trung tâm môi giới
hôn nhân.
Thế nhưng, cuộc sống với Akiyoshi Yuichi, đã khiến suy nghĩ của
Noriko hoàn toàn thay đổi. Cô hiểu được niềm hạnh phúc khi ở bên người
mình yêu thương. Bị cướp đi thứ mình từng sở hữu, không có nghĩa là sẽ
quay lại được như lúc mình chưa có thứ ấy.
Noriko tiếp tục uống bia, cô nhủ lòng không được nhớ đến anh ta nữa,
nhưng trong đầu vẫn cứ hiện lên bóng lưng anh ta ngồi trước máy tính.
Điều này là lẽ đương nhiên, bởi suốt một năm nay, cô chỉ luôn nghĩ đến
anh ta, nhìn thấy mỗi anh ta.
Lon bia nhanh chóng cạn sạch, cô bóp dẹp cái lon không, đặt lên bàn.
Trên bàn còn hai lon nữa cũng bị bóp dẹp như thế, của ngày hôm qua và
hôm kia. Dạo này, cô thậm chí còn chẳng buồn quét dọn nhà cửa.
Ăn cơm trước đã, đúng lúc cô thầm nhủ như vậy, toan dồn sức nhấc tấm thân nặng nề dậy thì chuông cửa ngoài tiền sảnh vang lên.
Cô mở cửa, trước cửa là một người đàn ông chừng hơn sáu mươi tuổi,
trên người mặc chiếc áo khoác cũ sờn, thân hình rắn chắc, ánh mắt sắc
bén. Bằng trực giác, Noriko đoán ra được nghề nghiệp của ông ta, trong
lòng chợt dâng lên một linh cảm chẳng lành.
“Cô Kurihara Noriko phải không?” Người đàn ông hỏi. Là giọng vùng Kansai.
“Đúng vậy. Ông là...”
“Tôi họ Sasagaki. Tôi từ Osaka đến.” Người đàn ông đưa danh thiếp ra, bên trên in hàng chữ “Sasagaki Junzo”, nhưng không có chức danh. Ông ta bổ sung thêm một câu, “Đến mùa xuân năm nay tôi vẫn còn là cảnh sát.”
Quả nhiên mình đoán không sai, Noriko xác nhận lại suy đoán bằng trực giác của mình.
“Thực ra có mấy chuyện muốn hỏi cô, có thể xin cô một chút thời gian không?”
“Bây giờ ạ?”
“Đúng thế. Bên kia có một quán cà phê, sang bên đó nói chuyện cũng được.”
Noriko nghĩ, nên làm thế nào bây giờ nhỉ? Cô không thích để đàn ông
lạ vào nhà, nhưng cô lại lười chẳng muốn bước chân ra cửa nữa.
“Cho tôi hỏi là về chuyện gì được không?”
“Nhiều lắm. Đặc biệt là chuyện cô đến văn phòng thám tử Imaeda.”
Ơ, cô bất giác thốt lên một tiếng kinh ngạc.
“Cô đã tới chỗ anh Imaeda ở Shinjuku phải không, tôi muốn hỏi cô về
chuyện đó trước.” Ông già tự xưng từng là cảnh sát ấy nở một nụ cười
thân thiết.
Cảm giác lo lắng bắt đầu lan rộng trong tâm trí cô. Người này đến hỏi chuyện gì vậy? Nhưng mặt khác, trong lòng cô lại dấy lên chút hy vọng.
Có lẽ có thể biết được tin tức gì của anh ta? Cô chần chừ vài giây, rồi
mở cửa rộng ra. “Mời ông vào.”
“Được không?”
“Không sao cả, chỉ có điều bên trong bừa bãi lắm.”
“Xin phép cô.” Nói đoạn, người đàn ông bước vào nhà. Trên người ông ta toả ra mùi của nam giới về già.
Noriko đến văn phòng thám tử Imaeda vào tháng Chín. Trước đó khoảng
hai tuần, Akiyoshi Yuchi biến mất khỏi chỗ ở của cô. Không có dấu hiệu
gì báo trước, chỉ đột nhiên không thấy tăm hơi đâu nữa. Cô lập tức hiểu
rằng không phải anh ta gặp tai nạn, vì chìa khoá căn hộ được cho vào
phòng bì, bỏ trong hộp thư gắn trên cửa. Đồ đạc của anh ta gần như vẫn
còn nguyên vẹn, nhưng vốn dĩ anh ta đã không có nhiều đồ đạc, mà cũng
chẳng có thứ gì quý giá cả.
Thứ duy nhất có thể chứng minh anh ta từng ở đây chính là bộ máy
tính, nhưng Noriko lại không biết sử dụng thế nào. Rầu rĩ thật lâu, cuối cùng cô mời một người bạn quen dùng máy tính đến nhà. Cô biết rõ là
không nên làm như vậy, nhưng vẫn quyết định nhờ bạn xem xem trong máy
tính của anh ta có thứ gì. Người bạn làm nghề viết lách tự do ấy chẳng
những đã xem máy tính, mà cả các đĩa từ anh ta để lại cũng xem hết, kết
luận là: không có bất cứ thứ gì, không để lại thứ gì cả. Theo lời cô ấy
nói, toàn bộ hệ thống ở trong trạng thái rỗng không, đĩa từ cũng trắng
xoá.
Noriko thầm nghĩ, thật sự không có cách nào tìm được Akiyoshi đi đâu
hay sao? Thứ duy nhất cô có thể nghĩ đến chỉ có tập tài liệu trống không mà anh ta từng mang về, bên trên viết “Văn phòng thám tử Imaeda”.
Cô liền mở danh bạ điện thoại, nhanh chóng tìm được văn phòng thám tử đó. Biết đâu lại phát hiện được gì thì sao? Ý nghĩ này khiến cô gần như không kiềm chế nổi, ngay ngày hôm sau, cô đã đến Shinjuku.
Tiếc rằng cô không thu được chút thông tin nào dù là nhỏ nhất. Nữ
nhân viên trẻ tuổi nói, không có ghi chép nào liên quan đến Akiyoshi,
dưới danh nghĩa là người thuê điều tra hay đối tượng điều tra.
Xem chừng không có cách nào tìm được anh ta rồi. Noriko một mực cho
là thế. Vì vậy, cô không ngờ Sasagaki lại lần theo đầu mối từ văn phòng
thám tử tìm đến cửa.
Sasagaki bắt đầu hỏi từ chuyện cô đến văn phòng thám tử Imaeda.
Noriko thoáng do dự, nhưng vẫn thuật lại vắn tắt quá trình tìm đến văn
phòng thám tử của mình. Nghe thấy người đàn ông đang sống cùng một cô
gái biến mất, Sasagaki cũng có vẻ hơi kinh ngạc.
“Chuyện anh ta có kẹp tài liệu trống không của văn phòng thám tử
Imaeda thực sự rất kỳ lạ. Cô không có đầu mối nào hay sao? Cô đã bao giờ liên lạc với bạn bè hay người nhà của anh ta chưa?”
Cô lắc đầu.
“Cho dù muốn cũng không biết phải liên lạc thế nào. Tôi thực sự không biết gì về anh ấy cả.”
“Đúng là kỳ lạ thật.” Sasagaki có vẻ bối rối.
“Xin hỏi, ông Sasagaki đang điều tra vụ gì vậy?”
Nghe Noriko hỏi, Sasagaki ngần ngừ giây lát, đoạn trả lời, “Thực ra,
đây cũng là một chuyện rất lạ. Anh Imaeda cũng mất tích rồi.”
“Sao?”
“Sau đó lại xảy ra rất nhiều chuyện khác, tôi đang điều tra vụ mất
tích của anh ta, nhưng hoàn toàn không có đầu mối gì cả. Vậy nên mới
đánh liều thử đến làm phiền cô Kurihara một lần xem sao. Thật ngại quá.” Sasagaki cúi thấp mái đầu hoa râm.
“Ra là vậy. Cho tôi hỏi, anh Imaeda mất tích lúc nào vậy?”
“Mùa hè năm ngoái, tháng Tám.”
“Tháng Tám...” Nhớ lại chuyện hồi đó, Noriko hít sâu vào một hơi.
Chính vào thời điểm đó, Akiyoshi đã mang lọ kali xyanua ra ngoài, và
trên kẹp tư liệu anh ta mang về có viết hàng chữ “Văn phòng thám tử
Imaeda.”
“Cô sao vậy?” Viên cảnh sát nghỉ hưu nhạy bén nhận ra vẻ khác thường ở cô, liền hỏi.
“À, không có gì, không có gì.” Noriko vội vàng xua tay.
“Phải rồi.” Sasagaki lấy trong túi ra một tấm ảnh. “Cô đã từng nhìn thấy người này chưa?”
Cô đón lấy tấm ảnh, vừa liếc qua một cái đã suýt kêu lên thành tiếng. Tuy rằng trẻ hơn, nhưng đây rõ ràng chính là Akiyoshi Yuichi.
“Cô thấy sao?” Sasagaki hỏi.
Noriko khó nhọc lấy lại bình tĩnh. Hàng trăm ý nghĩ lẫn lộn trong
đầu. Có nên nói thật không? Nhưng sự thực viên cảnh sát già mang theo
tấm ảnh bên người làm cô lo lắng. Akiyoshi là nghi can của vụ án nào đó
chăng? Sát hại Imaeda? Không phải chứ?
“Không, tôi chưa từng gặp anh ta.” Cô vừa trả lời, vừa đưa tấm ảnh
lại cho Sasagaki. Cô biết đầu ngón tay mình đang run lên, má cũng đỏ
bừng.
Sasagaki nhìn chằm chằm vào Noriko, ánh mắt đã trở về tác phong cảnh sát. Cô bất giác đưa mắt nhìn ra hướng khác.
“Thật đáng tiếc.” Sasagaki dịu giọng, rồi cất tấm ảnh đi. “Vậy, tôi
phải xin phép thôi.” Sau khi đứng lên, ông nói như đột nhiên nhớ ra
chuyện gì đó. “Tôi có thể xem qua đồ đạc của bạn trai cô được không?
Biết đâu có thể có ích.”
“Ơ, đồ đạc của anh ấy ạ?”
“Vâng. Không tiện à?”
“Không, không sao cả.”
Noriko dẫn Sasagaki đến gian phòng kiểu Tây. Ông ta lập tức bước đến bộ máy tính.
“Ồ, anh Akiyoshi biết dùng thứ này à?”
“Vâng, anh ấy dùng để viết tiểu thuyết.”
“Chà.” Sasagaki tỉ mỉ xem xét bộ máy tính và xung quanh. “Xin hỏi, cô có ảnh nào của Akiyoshi không?”
“À... không có.”
“Nhỏ cũng không sao, chỉ cần thấy mặt là được rồi.”
“Thật sự không có tấm nào cả, tôi không chụp.”
Noriko không nói dối. Có mấy lần cô muốn hai người chụp ảnh chung,
nhưng đều bị Akiyoshi từ chối. Vì vậy, sau khi anh ta mất tích, Noriko
chỉ còn biết dựa vào ký ức để dựng lại hình ảnh của anh ta mà thôi.
Sasagaki gật đầu, nhưng ánh mắt rõ ràng vẫn còn vẻ ngờ vực. Cứ nghĩ
không biết ông ta đang nghĩ gì, Noriko lại cảm thấy lo lắng tột độ.
“Vậy thì, có thứ gì do anh Akiyoshi viết không vậy? Giấy nhắn hay nhật ký chẳng hạn.”
“Tôi nghĩ chắc không còn mấy thứ đó đâu. Cho dù có, cũng chẳng còn nữa.”
“Vậy sao?” Sasagaki lại đảo mắt quanh phòng, nhìn Noriko mỉm cười. “Tôi hiểu rồi. Xin lỗi đã làm phiền cô.”
“Thật ngại vì không giúp được gì ông.” Cô nói.
Lúc Sasagaki đi giày ngoài tiền sảnh, Noriko cứ chần chừ không biết
phải làm sao. Người này biết gì đó về Akiyoshi. Cô thật sự rất muốn hỏi
ông ta. Nhưng cô lại cảm thấy, nếu nói với ông ta rằng người trong ảnh
chính là Akiyoshi, sẽ bất lợi cho anh. Cho dù biết rõ không bao giờ gặp
lại nữa, đối với cô anh ta vẫn là người quan trọng nhất trên đời này.
Đi giày xong, Sasagaki quay lại nhìn cô nói, “Xin lỗi đã làm phiền cô lúc cô mệt mỏi thế này.”
Sasagaki lại đảo mắt một vòng trong nhà, tựa hồ đang dò xét nốt lần cuối cùng, đột nhiên, ánh mắt ông ta dừng lại. “Ồ, đó là...”
Ông ta chỉ vào cái tủ nhỏ để điện thoại bên cạnh tủ lạnh, bên trên
vài giấy nhắc việc vứt bừa bộn. “Đó là album phải không?” Viên cảnh sát
già hỏi.
“Ừm.” Noriko đưa tay cầm thứ ông ta đang nhìn chằm chằm lên. Đó là quyển album loại rẻ tiền mà tiệm rửa ảnh tặng cho.
“Không có gì hay ho cả.” Noriko nói. “Là ảnh tôi chụp hồi đi Osaka năm ngoái.”
“Osaka?” Hai mắt Sasagaki sáng lên. “Có thể cho tôi xem được không?”
“Được, nhưng bên trong không chụp người.” Cô đưa quyển album cho ông ta.
Đó là những tấm ảnh cô chụp hồi Akiyoshi dẫn cô đi Osaka, toàn là ảnh các toà nhà và nhà dân thông thường, chứ chẳng phải phong cảnh gì đáng
để thưởng thức, cô chụp với tâm thái chỉ xem nó như một trò đùa. Những
tấm ảnh này, cô cũng chưa cho Akiyoshi xem bao giờ.
Thế nhưng, bộ dạng của Sasagaki lại trở nên hết sức kỳ lạ. Ông ta trợn tròn hai mắt, miệng hơi mở ra.
“Cho hỏi... có gì không ổn vậy?” Cô thắc mắc.
Sasagaki không trả lời cô ngay, mà nhìn chằm chằm vào đống ảnh. Hồi lâu sau, ông ta mới giơ trang đang mở về phía cô.
“Cô từng đi qua đằng trước cửa tiệm cầm đồ này đúng không, tại sao lại chụp nó?
“Tấm này... cũng chẳng có dụng ý gì đặc biệt.”
“Toà nhà này cũng làm người ta thấy rất tò mò. Cô thích điểm gì đó, mà lại muốn chụp lại?”
“Thế thì có gì không ổn?” Giọng cô bắt đầu run lên.
Sasagaki cho tay vào túi áo trước ngực, lấy ra tấm ảnh vừa nãy... ảnh chân dung của Akiyoshi.
“Tôi nói cho cô một chuyện thú vị. Tấm biển của tiệm cầm đồ mà cô
chụp lại đó, viết hàng chữ ‘Tiệm cầm đồ Kirahara’, đúng không nhỉ? Người này họ Kirahara, tên thật của anh ta là Kirahara Ryoji.”
10
Tay chân cô lạnh như nước đá. Mặc dù rúc trong chăn rất
lâu, vẫn thấy khắp người lạnh buốt. Mika vùi đầu xuống gối, cuộn người
lại như chú mèo.
Hai hàm răng không ngừng va vào nhau lập cập, toàn thân run rẩy không thôi.
Cô nhắm mắt lại, thử cố ngủ. Thế nhưng, khi ngủ, cô lại mơ thấy mình
bị gã đàn ông không có mặt kia đè chặt, rồi giật mình tỉnh lại vì quá
hãi hùng, mồ hôi lạnh đầm đìa khắp người, tim đập thình thịch, cơ hồ
muốn ép nát cả lồng ngực ra. Chuyện đó cứ lặp đi lặp lại.
Tình trạng thế này kéo dài mấy tiếng đồng hồ rồi? Liệu mình có phút bình yên nữa không?
Cô không muốn tin rằng sự việc xảy ra ngày hôm nay là sự thật. Cô
muốn coi ngày hôm nay như một ngày bình thường, giống như ngày hôm qua,
hôm kia vậy. Thế nhưng, đây không phải là mơ, cảm giác ngâm ngẩm đau còn sót lại ở bụng dưới chính là bằng chứng.
“Tất cả có cô lo, Mika, cháu không phải nghĩ gì hết.” Giọng Yukiho vang lên bên tai.
Mika không nhớ nổi lúc đó cô ta xuất hiện từ đâu nữa. Cả việc kể lại
cho cô ta sự tình xảy ra thế nào, cũng là một mảng ký ức mơ hồ. Lúc đó,
hẳn là cô không nói được gì, nhưng Yukiho dường như vừa nhìn đã hiểu
ngay chuyện gì xảy ra rồi. Khi định thần lại thì Yukiho đã giúp cô mặc
quần áo xong, để cô ngồi trong xe. Yukiho vừa lái xe, vừa gọi điện
thoại. Cô ta nói rất nhanh, thêm lúc đó đầu óc Mika đang đờ đẫn, không
thể hiểu được nội dung câu chuyện, chỉ lờ mờ nhớ rằng Yukiho có lặp đi
lặp lại “Nhất định phải giữ bí mật tuyệt đối.”
Cô được Yukiho đưa tới bệnh viện, nhưng họ đi vào qua một lối giống
như cửa sau, chứ không phải vào từ cổng chính. Tại sao không đi cổng
chính? Lúc đó Mika không hề nảy ra nghi vấn như vậy, bởi vì linh hồn cô
đã không còn ở bên trong thể xác ấy nữa.
Mika không rõ đã tiến hành kiểm tra những gì, điều trị những gì. Cô chỉ nằm đó, nhắm nghiền hai mắt lại.
Một tiếng đồng hồ sau, bọn họ rời bệnh viện.
“Như vậy, về mặt sức khoẻ không cần lo lắng.” Yukiho vừa lái xe, vừa
dịu dàng nói với cô. Mika cũng không nhớ mình đã trả lời thế nào, có lẽ
cô chẳng nói gì cả.
Yukiho hoàn toàn không nhắc đến việc báo cảnh sát. Chẳng những thế,
thậm chí cô ta không có ý hỏi Mika tường tận sự việc xảy ra thế nào, tựa hồ đối với cô ta, đó chỉ là chuyện vặt vãnh không đáng nhắc đến. Mika
biết ơn vì chuyện đó, cô thực sự không thể nói gì, vả lại còn sợ bị
người lạ biết đã xảy ra chuyện gì nữa.
Lúc về đến nhà, xe của bố cô đã đậu trong ga ra. Tâm trí Mika gần như sụp đổ đến nơi, chuyện này nên nói với bố thế nào đây?
Nhưng vẻ mặt Yukiho lại hết sức bình tĩnh, tựa như nói dối ở mức độ
này đối với cô ta chẳng là gì cả. Cô ta dặn, “Cô bảo với bố cháu rằng
cháu bị cảm, cô dẫn cháu đi khám bác sĩ nhé. Bữa tối cũng nhờ bác Taeko
mang vào phòng cho cháu.”
Đến giờ, Mika đã hiểu ra, tất cả những chuyện này đã trở thành bí mật giữa hai người bọn họ, trở thành bí mật giữa cô và người đàn bà cô căm
ghét nhất trên toàn thế giới...
Yukiho diễn xuất rất tuyệt trước mặt Yasuharu, cô gái giải thích cho
chồng đúng như những gì vừa nói trước đó. Yasuharu hơi lo lắng, nhưng
một câu “Anh đừng lo, đã lấy thuốc ở bệnh viện về rồi” của vợ đã xua tan nỗi băn khoăn, ông cũng không nghi ngờ gì về bộ dạng khác hẳn bình
thường của Mika, ngược lại còn cảm thấy hết sức hài lòng trước việc Mika để người mà thường ngày cô chán ghét là Yukiho đưa đến bệnh viện.
Sau đó, Mika ở rịt trong phòng. Taeko chắc cũng đã được Yukiho dặn
dò, mang bữa tối vào. Lúc bà đặt thức ăn lên bàn, Mika nằm trên giường
giả vờ ngủ.
Mika chẳng muốn ăn chút nào. Sau khi Taeko đi ra, cô đã thử nuốt
miếng nhỏ canh và mì Ý, nhưng cảm giác như thể sẽ nôn ra bất cứ lúc nào, nên cô không ăn nữa, cứ nằm cuộn tròn trên giường như vậy.
Đêm càng về khuya, nỗi sợ hãi cũng dần dần vang lên. Đèn trong phòng
đã tắt hết, Mika sợ một mình trong bóng tối, nhưng để lộ mình dưới ánh
sáng lại khiến cô càng bất an hơn, khiến cô có cảm giác như ai đó đang
quan sát mình. Cô chỉ mong có thể như lũ cá con trong biển khơi, lẳng
lặng trốn vào kẽ đá mà không ai hay biết.
Rốt cuộc đã mấy giờ rồi nhỉ? Trước khi trời sáng, mình còn phải chịu
đựng chừng nào giày vò nữa? Những đêm giống như thế này, sẽ kéo dài đến
bao giờ? Bị cảm giác bất an dồn ép, cô cắn chặt lấy ngón tay cái.
Đúng lúc đó, cánh cửa vang lên tiếng lách cách.
Mika giật mình, nằm trên giường nhìn ra phía cửa. Dù trong bóng tối,
cô cũng biết cánh cửa đang được khẽ khàng mở ra, có người bước vào. Có
thể lờ mờ nhận ra vạt áo ngủ màu bạc. “Ai thế?” Mika hỏi, giọng khàn
khàn.
“Quả nhiên cháu còn thức.” Là giọng của Yukiho.
Mika nhìn sang chỗ khác. Cô không biết nên đối mặt với người cùng sở hữu bí mật cấm kỵ này như thế nào nữa.
Cô cảm thấy Yukiho đang tiến lại gần mình. Cô liếc bằng khoé mắt, thấy Yukiho đang đứng ở ngay cạnh giường.
“Ra đi.” Mika nói. “Mặc xác tôi.”
Yukiho không trả lời, lẳng lặng cởi dây lưng của chiếc áo ngủ. Áo ngủ tụt xuống, một tấm lưng trắng muốt hiện lên mông lung mờ ảo.
Mika còn chưa kịp lên tiếng, Yukiho đã nhào lên giường. Mika muốn
tránh, nhưng đã bị cô ta đè lên bằng một lực mạnh hơn cô tưởng.
Mika bị đè trên giường, hai tay hai chân dang rộng, cặp vú đầy đặn đảo qua đảo lại ngay trước mắt.
“Không!”
“Như thế này phải không?” Yukiho hỏi. “Cháu bị đè như thế này phải không?”
Mika ngoảnh mặt đi, nhưng hai má cô bị bóp lấy, bị dùng sức xoay trở
lại. “Đừng nhìn đi chỗ khác, nhìn bên này, nhìn cô đây này.”
Mika khiếp sợ nhìn Yukiho. Đôi mắt to hơi xếch của Yukiho nhìn thẳng
vào Mika từ phía trên, khuốn mặt kề sát đến độ gần như cảm giác được hơi thở của cô ta.
“Lúc nào muốn ngủ, cháu lại nhớ đến việc bị cưỡng hiếp phải không?”
Yukiho nói. “Cháu không dám nhắm mắt vào, sợ ngủ sẽ nằm mơ, phải không?”
“Vâng.” Mika lí nhí trả lời. Yukiho gật đầu.
“Nhớ kỹ gương mặt cô lúc này. Khi sắp nhớ ra chuyện bị cưỡng hiếp,
thì hãy nhớ đến cô, nhớ cô từng làm thế này với cháu.” Yukiho ngồi lên
người Mika, ấn chặt hai vai, khiến Mika hoàn toàn không nhúc nhích gì
được. “Hay là cháu thà nghĩ đến kẻ cưỡng hiếp cháu, cũng không muốn nghĩ đến cô?”
Mika lắc đầu. Trông thấy phản ứng của cô, Yukiho nhoẻn miệng cười.
“Bé ngoan, không phải sợ, cháu sẽ nhanh chóng đứng dậy được thôi, cô
sẽ bảo vệ cho cháu.” Yukiho dùng cả hai tay nâng gương mặt Mikia lên,
sau đó di chuyển lòng bàn tay như thể tận hưởng sự tiếp xúc của da thịt, “Cô cũng có trải nghiệm giống như cháu, à không, còn kinh khủng hơn
nhiều.”
Mika suýt chút nữa thì kêu lên thất thanh, nhưng Yukiho đã giơ ngón trỏ ấn lên môi cô.
“Lúc đó, cô còn nhỏ hơn cháu bây giờ, thật sự vẫn còn là một đứa trẻ. Thế nhưng, ác quỷ sẽ không tha cho cháu dù cháu là trẻ con. Vả lại, còn không chỉ có một con...”
“Không thể nào.” Mika lẩm bẩm, nhưng không phát ra âm thanh nào.
“Cháu bây giờ, chính là cô lúc đó.” Yukiho ôm choàng lấy Mika. “Thật đáng thương.”
Khoảnh khắc ấy, trong lòng Mika tựa như có thứ gì đó bùng nổ, tựa hồ
sợi dây thần kinh nào đó từng bị cắt đứt lúc trước giờ lại được nối
liền. Thông qua sợi thần kinh ấy, cảm giác bi thương tràn vào lòng cô
như nước lũ.
Mika khóc nức nở trong vòng tay Yukiho.
11
Sasagaki quyết định cùng Shinozuka Kazunari đến biệt thự
nhà Shinozuka Yasuharu vào một ngày Chủ nhật trung tuần tháng Mười hai.
Vì chuyện này, Sasagaki đã đến Tokyo hai tháng liên tiếp.
“Không biết anh ta có muốn gặp tôi không.” Sasagaki ngồi trên xe nói.
“Cũng không đến mức đuổi chúng ta ra ngoài đâu.”
“Mong rằng anh ta ở nhà.”
“Chuyện này ông không cần lo, tôi có thông tin từ bên trong.”
“Bên trong?”
“Chính là bà giúp việc.”
Hơn hai giờ chiều, Kazunari lái chiếc Mercedes đến nhà Shinozuka. Chỗ đậu xe dành cho khách ở ngay bên cạnh cổng lớn, Kazunari dừng xe ở đó.
“Đúng là biệt thự rộng thật. Chỉ nhìn từ bên ngoài thì không thể biết được bên trong rộng chừng nào.” Sasagaki đứng trước cửa ngẩng đầu lên
ngắm nghía, nói. Phía sau cánh cửa và tường bao, chỉ thấy cây cối um tùm nhô lên. Kazunari ấn nút của thiết bị liên lạc bên cạnh cổng, lập tức
có người trả lời.
“Lâu lắm không gặp rồi, cậu Kazunari.” Đó là giọng của một phụ nữ trung niên, dường như đang quan sát qua máy quay.
“Chào chị Taeko, anh Yasuharu có nhà không?”
“Ông chủ đang ở nhà, xin đợi cho một lát.”
Đối phương gác máy. Hai phút sau, trên loa lại vang lên tiếng nói, “Ông chủ mời cậu vòng qua bên sân.”
“Được.”
Cùng lúc Kazunari trả lời, cánh cổng nhỏ bên cạnh vang lên tiếng kim loại lách cách, khoá đã mở ra.
Sasagaki đi theo sau Kazunari, bước vào biệt thự, Con đường lát đá
giữa sân hướng về toà nhà bên trong. Sasagaki thầm nghĩ, thật chẳng khác gì phim nước ngoài cả.
Có hai người phụ nữ từ phía tiền sảnh đi tới. Không cần Kazunari giới thiệu, Sasagaki cũng biết đó là Yukiho và con gái của Shinozuka
Yasuharu, cô bé tên là Mika.
“Tính sao đây?” Kazunari thì thầm hỏi.
“Kiếm bừa một thân phận giúp tôi lấp liếm cho qua.” Sasagaki hạ giọng.
Hai người chầm chậm bước trên con đường lát đá, Yukiho mỉm cười gật
đầu với họ, bốn người vừa khéo dừng chân ở chính giữa con đường.
“Lâu lắm không gặp rồi, cậu khoẻ chứ?” Yukiho hỏi.
“Vẫn ổn, trông chị cũng có vẻ khoẻ.”
“Vâng.”
“Cửa hàng ở Osaka sắp khai trương rồi phải không, chuẩn bị đến đâu rồi ạ?”
“Có rất nhiều việc không thể thực hiện đúng kế hoạch được, nhức đầu
lắm, dẫu có ba đầu sáu tay cũng không đủ. Lát nữa tôi còn phải họp về vụ này nữa đây.”
“Vậy sao. Chị vất vả quá.” Kazunari quay sang cô bé đứng bên cạnh Yukiho, “Còn Mika? Cháu khoẻ không?”
Mika mỉm cười gật đầu, ấn tượng của Sasagaki là cô bé có vẻ mong
manh. Ông từng nghe Kazunari kể cô bé không chịu chấp nhận Yukiho, nhưng theo những gì ông đang thấy thì không hề có chuyện đó. Sasagaki hơi bất ngờ.
“Tôi định tiện thể giúp Mika tìm đồ mặc trong dịp Giáng sinh luôn.” Yukiho nói.
“Ồ, tốt quá.”
“Cậu Kazunari, vị này là...” Ánh mắt Yukiho hướng về phía Sasagaki.
“Ồ, là nhà cung cấp của công ty chúng ta.” Kazunari nói trôi chảy.
“Chào cô.” Sasagaki cúi đầu chào, lúc ngẩng đầu lên, ông gặp ngay ánh mắt của Yukiho.
Đây là lần đầu đối mặt sau mười chín năm dài. Khi cô trưởng thành,
Sasagaki đã trông thấy cô mấy lần, nhưng chưa từng mặt đối mặt như vậy
bao giờ. Ông nhớ lại tình huống lần đầu tiên hai người gặp nhau trong
căn hộ cũ kỹ đó, cô bé lúc đó ở ngay trước mắt ông, cũng có đôi mắt hệt
như vậy.
Cô còn nhớ không, Nishimoto Yukiho? Sasagaki thầm nói với cô. Tôi đã
theo dấu cô suốt mười chín năm, cả nằm mơ cũng thấy cô. Nhưng chắc cô
không nhớ tôi nữa rồi nhỉ? Lão già như tôi, chẳng qua cũng chỉ là một
đám người ngu xuẩn bị cô lừa gạt thôi.
Yukiho nhoẻn miệng tươi cười nói, “Ông ở Osaka phải không?”
Đúng là không thể ngờ được, chắc cô ta nhận ra khẩu âm. “Ồ, đúng vậy.” Sasagaki hơi bối rối.
“Quả nhiên tôi đoán không sai. Lần này tôi mở tiệm ở Shinsaibashi,
ông nhất định phải ghé qua ủng hộ nhé.” Yukiho lấy trong túi ra một tấm
thẻ, là thiệp mời tham gia lễ khai trương.
“Ồ, nếu đã thế, để tôi hỏi người thân xem có muốn đi không.” Sasagaki nói.
“Lâu lắm mới được nghe giọng Osaka.” Yukiho nhìn chằm chằm vào ông.
“Làm tôi nhớ lại hồi trước.” Nét mặt cô ta không có vẻ gì đang cười, ánh mắt như thể đang nhìn về phía xa xăm.
Trên gương mặt ấy lại đột nhiên nở ra một nụ cười rạng rỡ.
“Chồng tôi ở trong sân kia kìa, hình như là bất mãn với kết quả đánh
golf hôm qua, đang tăng cường luyện tập đấy.” Câu này là nói với
Kazunari.
“Vâng, chúng tôi sẽ không làm anh ấy tốn nhiều thời gian đâu.”
“Không sao đâu. Cậu cứ ngồi lâu vào.” Yukiho gật đầu với Mika, đoạn
nhấc chân bước đi. Sasagaki và Kazunari nghiêng người nhường lối.
Nhìn theo bóng lưng Yukiho đi xa dần, Sasagaki thầm nhủ, có thể người phụ nữ này vẫn nhớ mình.
Đúng như Yukiho nói, Yasuharu đang đánh golf ở sân phía Nam, trông
thấy Kazunari đi tới, anh ta liền đặt cây gậy xuống, cười cười bước ra
đón. Từ nét mặt anh ta, không thể cảm nhận được sự lạnh lùng khi đẩy em
họ đến công ty con. Thế nhưng, khi Kazunari vừa giới thiệu Sasagaki,
gương mặt Yasuharu lập tức tỏ ra cảnh giác.
“Cảnh sát nghỉ hưu ở Osaka? Hả?” Anh ta nhìn chằm chằm vào mặt Sasagaki.
“Có một số chuyện, dù thế nào em cũng muốn anh biết.”
Nghe Kazunari nói vậy, nụ cười trên gương mặt Yasuharu hoàn toàn biến mất, anh ta chỉ vào nhà. “Vậy thì vào phòng nói đi.”
“Không cần, ở đây được rồi. Hôm nay trời cũng ấm áp, nói xong bọn em sẽ đi ngay.”
“Ở đây à?” Yasuharu đảo mắt nhìn hai người họ mấy lượt, sau đó khẽ gật đầu. “Được rồi, để tôi bảo Taeko mang đồ uống nóng ra.”
Trong sân có một chiếc bàn ăn màu trắng và bốn cái ghế. Có lẽ vào
những ngày thời tiết nắng ráo, cả nhà họ sẽ ngồi ở đây thưởng thức trà
chiều kiểu Anh Quốc. Vừa uống trà sữa do bà giúp việc mang tới, Sasagaki vừa tưởng tượng ra hình ảnh gia đình hạnh phúc.
Thế nhưng, lúc này không phải là thời gian thưởng thức trà chiều vui
vẻ. Vì Kazunari vừa mở miệng, nét mặt Yasuharu càng lúc càng trở nên khó coi.
Kazunari nói ra những chuyện liên quan đến Yukiho, Sasagaki và
Kazunari đã thảo luận, sắp xếp rất nhiều chuyện có thể ngầm chỉ ra bản
tính của cô ta, cái tên Kirihara Ryoji đương nhiên cũng xuất hiện rất
nhiều lần. Không ngoài dự đoán, mới nói được nửa chừng, Yasuharu đã hết
sức phẫn nộ. Anh ta đập bàn đứng dậy quát, “Vớ vẩn! Tưởng cậu nói gì ai
ngờ...”
“Anh Shinozuka, anh nghe cho hết đã.”
“Không cần nghe cũng biết, tôi không có thời gian nói nhảm với các
người. Cậu có thời gian làm những chuyện vô vị này, chi bằng nghĩ cách
làm thế nào chỉnh đốn cái công ty đó của cậu thì hơn.”
“Chuyện này em cũng có thông tin rồi.” Kazunari cũng đứng lên, nhìn
bóng lưng của Yasuharu nói. “Em đã tìm ra thủ phạm hại em rồi.”
Yasuharu xoay người lại, khoé miệng méo xệch đi vì tức tối. “Chắc cậu sẽ không nói, đây cũng là trò Yukiho bày ra chứ?”
“Chắc anh cũng biết chuyện mạng nội bộ của công ty Dược phẩm
Shinozuka bị hacker xâm nhập, tên hacker đó đã thông qua máy tính của
bệnh viện trực thuộc Đại học Teito để vào. Một dược sĩ của bệnh viện đó
cách đây không lâu từng sống chung với một người đàn ông, người này
chính là kẻ mới rồi bọn em nhắc đến mấy lần, Kirihara Ryoji.”
Những gì Kazunari nói lập tức làm hai mắt Yasuharu trợn lên rõ to,
nhất thời không nói được lời nào, miệng mở nửa chừng rồi cứng đờ ra.
“Đây là sự thực.” Sasagki ở bên cạnh nói chen vào. “Cô dược sĩ đó đã xác nhận rồi, đúng là Kirihara Ryoji.”
Yasuharu dường như đã nói gì đó. Không liên quan... Sasagaki nghe được ba chữ ấy.
Sasagaki lấy từ túi trong áo khoác ra một tấm ảnh.
“Có thể phiền anh xem cái này một chút được không?”
“Đây là gì? Ảnh chụp ở đâu?”
“Vừa nãy anh Kazunari đã nói, toà nhà xảy ra vụ án mạng gần hai mươi
năm trước, chính là ở Osaka. Đây là ảnh cô dược sĩ kia chụp lúc cùng
Kirihara Ryoji đến Osaka.”
“Thế thì sao chứ?”
“Tôi hỏi cô ta thời gian họ đi Osaka, là từ ngày 18 đến 20 tháng Chín năm ngoái. Đây là ngày gì, đương nhiên anh nhớ chứ?”
Yasuharu mất chút thời gian, nhưng cuối cùng đã nhớ ra, không khỏi thấp giọng “a” lên một tiếng.
“Không sai,” Sasagaki nói, “ngày 19 tháng Chín là ngày bà Karasawa
Reiko qua đời. Tôi được biết ngay cả phía bệnh viện cũng cảm thấy khó
hiểu, không biết tại sao bà ấy lại đột nhiên ngừng thở.”
“Nói nhảm!” Yasuharu ném tấm ảnh đi, “Kazunari, cậu dẫn lão già đầu
óc không bình thường này cút xéo đi cho tôi! Kể từ hôm nay, nếu còn dám
nhắc chuyện này nữa thì đừng hòng nghĩ đến chuyện trở lại công ty chúng
ta! Tôi nói cho cậu biết, ông già cậu không còn là thành viên hội đồng
quản trị của công ty này nữa đâu!”
Kế đó, anh ta nhặt quả bóng golf lăn dưới chân ném mạnh về phía tấm
lưới. Quả bóng ném trúng cây cột chăng lưới, bật mạnh lại, đập vào chậu
bonsai trên sân, phát ra tiếng loảng xoảng. Nhưng anh ta chẳng buồn liếc mắt nhìn, đi thẳng vào trong nhà, đập cánh cửa kính đến rầm một tiếng.
Kazunari thở dài, nhìn Sasagaki cười thiểu não. “Có một nửa giống như những gì chúng ta đã dự đoán.”
“Chắc chắn anh ta một lòng một dạ yêu Karasawa Yukiho, đây chính là vũ khí của người phụ nữ đó.”
“Anh họ tôi giờ đang tức điên lên rồi, đợi anh ấy bình tĩnh lại, chắc sẽ nghĩ kỹ những gì chúng ta nói. Chúng ta chỉ có một cách là đợi
thôi.”
“Mong rằng anh ta có thể hiểu ra.”
Hai người đang chuẩn bị trở về thì bà giúp việc chạy ra.
“Có chuyện gì vậy? Tôi nghe thấy tiếng ồn.”
“Anh Yasuharu ném quả bóng golf, không biết đập trúng cái gì đó.”
“Ối! Có ai bị thương không vậy?”
“Chỉ có bonsai bị thương thôi, người không làm sao.”
Bà giúp việc không ngừng “chà chà”, nhìn về phía đám bonsai xếp thành hàng thẳng thớm. “Chết rồi, cây xương rồng của bà chủ...”
“Của Yukiho?”
“Bà chủ mang từ Osaka đến, ôi! Cả chậu hoa bị vỡ ra rồi.”
Kazunari đi tới bên cạnh bà giúp việc xem xét.
“Cô ta thích trồng xương rồng à?”
“Không, nghe nói là người mẹ quá cố của bà chủ thích.”
“À, tôi nhớ ra rồi, đúng vậy. Tôi có nghe cô ta nhắc đến chuyện này trong tang lễ.”
Kazunari đang chuẩn bị quay đi thì bà giúp việc lại kinh hãi kêu lên, “Ồ!”
“Có chuyên gì thế?” Kazunari hỏi.
Bà giúp việc nhặt lên một thứ trong chậu hoa vỡ. “Bên trong có thứ này.”
“Hình như thế, chắc là bị lẫn trong này từ trước.” Bà giúp việc nghiêng nghiêng đầu, ném lại vào đống mảnh vỡ của chậu hoa.
“Sao thế?” Sasagaki cũng lấy làm tò mò, bước lại gần chỗ họ.
“À, không có gì, trong đám đất của cây bonsai có mảnh vỡ thuỷ tinh.” Kazunari nói.
Sasagaki nhìn về phía đó, mảnh thuỷ tinh mỏng dẹt đập vào mắt ông.
Xem ra đúng là một mảnh mắt kính râm, vỡ ở gần giữa mắt kính. Ông cẩn
thận nhặt lên.
Chỉ thoáng nhìn, máu trong người Sasagaki đã sôi lên sùng sục. Mấy
đoạn ký ức lập tức sống lại, liên tiếp giao cắt nhau khiến người ta
không kịp nhìn, rồi nhanh chóng hoà vào thành một dòng chảy.
“Chị nói, đám xương rồng này mang ở Osaka đến à?” Ông thấp giọng hỏi.
“Vâng, vốn là ở nhà mẹ của bà chủ.”
“Khi ấy bonsai đặt trong vườn à?”
“Đúng vậy. Ông Sasagaki, có gì không ổn à?” Kazunari cũng nhận ra sự khác lạ trong thái độ của Sasagaki.
“Giờ thì vẫn chưa biết.” Sasagaki cầm mảnh kính vỡ lên hướng về phía mặt trời.
Mảnh kính liền hiện lên sắc xanh lục nhàn nhạt.
12
Công việc chuẩn bị khai trương cửa hàng R&Y đầu tiên ở Osaka kéo dài đến tận mười một giờ đêm. Hanamoto Natsumi theo sau
Shinozuka Yukiho đang kiểm tra tỉ mỉ lần cuối cùng, đi đi lại lại. Dù là diện tích mặt bằng, hay số lượng và chủng loại mặt hàng, nơi này đều
hơn xa cửa hàng chính ở Tokyo, hoạt động quảng cáo cũng hoàn hảo không
thể hơn được. Giờ chỉ còn ngồi đợi kết quả nữa thôi.
“Như vậy là nỗ lực đến chín chín phần trăm rồi.” Kiểm tra xong xuôi, Yukiho nói.
“Chín chín phần trăm? Vẫn chưa đủ hoàn hảo sao ạ?” Natsumi hỏi.
“Không sao cả, thiếu một phần này, mục tiêu cho ngày mai mới đạt được chứ.” Yukiho vừa nói vừa nở nụ cười tươi, “Được rồi, giờ thì nghỉ ngơi
thoải mái. Tối hôm nay, chúng ta có uống rượu cũng phải tiết chế đấy
nhé.”
“Để dành cho ngày mai ăn mừng.”
“Đúng vậy.”
Lúc hai người ngồi trên chiếc Jaguar màu đỏ thì đã là mười một giờ
rưỡi khuya. Natsumi cầm vô lăng, Yukiho ngồi trên ghế lái phụ hít sâu
một hơi.
“Cùng cố gắng nào! Đừng lo lắng, cô nhất định sẽ làm được mà.”
“Thật ạ? Cũng chỉ mong được thế.” Natsumi hơi e sợ. Trên thực tế,
việc quản lý kinh doanh của cửa hàng Osaka được giao cho cô phụ trách.
“Cô phải tự tin chứ. Tin rằng mình là người giỏi nhất, biết chưa?” Yukiho lay lay vai Natsumi.
“Vâng.” Trả lời xong, Natsumi nhìn Yukiho.
“Nhưng mà, thực ra tôi rất sợ. Tôi lo lắm, không biết có thể làm được như giám đốc hay không. Giám đốc xưa nay chưa bao giờ thấy sợ ạ?”
Đôi mắt của Yukiho nhìn thẳng vào cô. “Natsumi này, trong một ngày,
có lúc mặt trời lên cao, cũng có lúc mặt trời lặn xuống. Đời người cũng
thế, có ban ngày thì phải có đêm đen, chỉ là không giống như mặt trời
kia, lúc lặn lúc mọc theo định kỳ. Có một số người, cả đời đều sống dưới ánh mặt trời rực rỡ, cũng có một số người lại không thể không sống
trong đêm đen tăm tối. Điều con người ta sợ hãi, chính là vầng dương vẫn luôn tồn tại kia lặn xuống rồi không mọc lên nữa, cũng chính là sợ hãi
ánh sáng vốn chiếu trên người mình đột nhiên biến mất, Natsumi lúc này
chính là như vậy đó.”
Natsumi lờ mờ hiểu được những điều bà chủ nói, liền gật đầu.
“Còn tôi,” Yukiho tiếp tục nói, “xưa nay chưa từng sống dưới ánh mặt trời.”
“Sao lại thế ạ!” Natsumi bật cười, “Giám đốc mới là người lúc nào cũng được mặt trời chiếu sáng rực rỡ chứ ạ.”
Yukiho lắc đầu. Ánh mắt cô hết sức chân thành khiến nụ cười của Natsumi biến mất.
“Bầu trời của tôi không có mặt trời, chỉ toàn là bóng đêm, nhưng
không hề tối tăm, vì có thứ khác thay thế cho mặt trời. Tuy rằng không
được sáng như mặt trời, nhưng đối với tôi thì thế đã là đủ rồi. Nhờ chút ánh sáng này, tôi có thể biến đêm đen thành ngày rạng. Cô hiểu không?
Tôi chưa bao giờ có mặt trời, thế nên tôi không sợ mất đi nó.”
“Thứ thay thế mặt trời đó là gì vậy?”
“Chà, là gì nhỉ? Có lẽ sau này cô sẽ hiểu ra thôi.” Nói đoạn, Yukiho
chỉnh lại tư thế ngồi hướng về phía trước. “Được rồi, chúng ta đi.”
Natsumi không thể hỏi tiếp, khởi động động cơ.
Yukiho ở khách sạn Osaka Sky gần Yodoyabashi, còn Natsumi đã thuê căn hộ ở Kitatenma.
“Đêm Osaka, thật ra đến giờ mới bắt đầu đấy.” Yukiho nhìn ra ngoài cửa sổ xe nói.
“Vâng ạ. Osaka không thiếu chỗ để chơi, hồi trước tôi cũng chơi ác lắm.”
Natsumi nói xong, liền cảm thấy Yukiho cười.
“Ở đây một thời gian, lại nói giọng Osaka rồi.”
“Chết, xin lỗi, tôi buột miệng...”
“Không sao đâu, đây là Osaka. Tôi cũng định khi nào đến đây lại nói giọng Osaka theo mọi người mà.”
“Tôi thấy như vậy rất hay.”
“Vậy sao?” Yukiho mỉm cười.
Không lâu sau, họ đã đến khách sạn, Yukiho xuống xe ở ngoài cổng.
“Giám đốc, ngày mai nhờ chị giúp đỡ ạ.”
“Ừm, tối nay có việc gấp gì, thì gọi vào điện thoại di động cho tôi.”
“Vâng ạ, tôi biết rồi.”
“Natsumi,” Yukiho chìa tay phải ra, “thắng hay bại đến bây giờ mới bắt đầu thôi đấy.”
Kim đồng hồ đã qua vạch mười hai giờ, cứ ngỡ hôm nay sẽ
không còn khách nào nữa, nhưng cánh cửa gỗ cũ kỹ lại cót két mở ra. Một
người đàn ông chừng quá lục tuần mặc áo khoác màu xám sậm, chậm rãi bước vào.
Nhìn rõ người đến là ai, cụ cười Kirihara Yaeko cố đùn ra trên mặt
thình lình biến mất, bà ta khẽ thở dài, “Thì ra là ông Sasagaki, tôi còn tưởng thần tài gõ cửa nữa cơ đấy.”
“Nói năng kiểu gì vậy. Tôi không phải thần tài chắc?” Sasagaki cởi
khăn quàng và áo khoác, tự tiện treo lên tường. Ông ngồi xuống giữa quầy bar hình chữ L có thể ngồi được mười người. Bên dưới áo khoác, ông mặc
một bộ vest màu cà phê đã sờn bợt cả ra. Sau khi rời khỏi ngành cảnh
sát, phong cách của Sasagaki không hề thay đổi.
Yaeko đặt chiếc cốc thuỷ tinh xuống trước mặt ông, mở chai bia rót vào. Bà ta biết, khi tới đây ông chỉ uống mỗi bia.
Sasagaki thoải mái uống một ngụm, rồi đưa tay đón lấy đĩa đồ nhắm đơn giảm Yaeko bưng ra.
“Làm ăn thế nào hả? Mùa tiệc cuối năm sắp đến rồi nhỉ.”
“Thì ông thấy đấy thôi, chỗ này của tôi đã xập xệ từ hồi mới bắt đầu
kinh tế bong bóng mấy năm trước rồi. Phải nói là, kinh tế bong bóng chưa bao giờ nổi bong bóng ở chỗ này của tôi mới đúng.”
Yaeko lại lấy thêm một cái cốc nữa, tự rót bia cho mình, cũng chẳng buồn nâng cốc với Sasagaki, một hơi uống hết luôn nửa cốc.
“Bà vẫn uống hùng hục như thế.” Sasagaki đưa tay cầm chai bia lên, rót đầy cốc cho bà ta.
“Cảm ơn.” Yaeko gật đầu. “Đây là lạc thú duy nhất của tôi mà.”
“Bà Yaeko, cửa tiệm này của bà mở được bao nhiêu năm rồi?”
“Ừm, bao nhiêu năm rồi nhỉ?” Bà ta gập ngón tay lại, “Mười bốn năm
rồi... đúng, đúng vậy, tháng Hai sang năm là được mười bốn năm rồi.”
“Cùng giỏi chèo chống lắm, bà vẫn hợp với cái ngành này nhất nhỉ, đúng không?”
“Ha ha!” Bà ta bật cười.
“Có thể. Hồi trước mở quán cà phê ba năm là sập tiệm.”
“Việc ở tiệm cầm đồ, bà cũng chẳng bao giờ ra giúp nhỉ?”
“Đúng vậy, đó là công việc tôi căm ghét nhất, hoàn toàn không phù hợp với tính cách của tôi.”
Dù vậy, bà ta vẫn làm bà chủ tiệm cầm đồ gần ba mươi năm, mặc cho bà
ta khăng khăng đây là sai lầm lớn nhất của đời mình, nếu không lấy
Kirihara, tiếp tục làm việc ở Kitashinchi, giờ không biết đã quản lý
trong tay quán rượu lớn cỡ nào rồi.
Sau khi Yosuke chồng bà bị sát hại, tiệm cầm đồ tạm thời do Matsuura
quản lý, nhưng không lâu sau thì cả họ họp lại, quyết định tiệm cầm đồ
sẽ do em họ của Yosuke quản lý. Vốn dĩ, nhà Kirihara đã kinh doanh tiệm
cầm đồ mấy đời nay, họ hàng thân thích liên kết lại lập ra mấy cửa tiệm. Vì vậy, sau khi Yosuke qua đời, Yaeko cũng không thể muốn làm gì thì
làm.
Chẳng bao lâu sau, Matsuura nghỉ việc ở tiệm. Theo ông chủ mới, tức
em họ của Yosuke nói, Matsuura đã ăn cắp khá nhiều tiền trong tiệm,
nhưng Yaeko chẳng biết số tiền là bao nhiêu, Trên thực tế, bà ta hoàn
toàn không quan tâm đến chuyện ấy.
Yaeko chuyển nhượng lại nhà và cửa tiệm cho em họ, dùng số tiền ấy mở một quán cà phê ở Yehonmachi. Lúc đó, bà ta tính toán sai lầm, thì ra,
đất xây tiệm cầm đồ Kirihara lại đứng tên anh trai Yosuke, chứ không
phải anh ta, Yosuke chẳng qua chỉ thuê lại. Chuyện này Yaeko hoàn toàn
không hay biết.
Hồi mới khai trương, quán cà phê kinh doanh cũng tương đối thuận lợi, nhưng được nửa năm thì khách hàng bắt đầu ít dần, càng về sau lại càng
kém hơn, không rõ nguyên nhân tại sao. Yaeko đã thử thay đổi sản phẩm,
trang trí lại nội thất, song chuyện làm ăn vẫn tiếp tục đi xuống, bất
đắc dĩ đành phải cắt giảm nhân công, nhưng lại dẫn đến chất lượng phục
vụ càng thấp hơn, khách càng không chịu đến nữa.
Cuối cùng, quán mở chưa được ba năm đã phải đóng cửa. Khi ấy, người
bạn làm tiếp viên trong quán rượu của bà ta nói ở Shitenno có một cửa
hàng, hỏi bà ta có muốn lấy lại không. Điều kiện rất tốt, vừa không cần
tiền lợi tức, mà nội thất và trang thiết bị cũng sẵn có cả rồi. Yaeko
lập tức nhận lời, đó chính là cái quán hiện nay. Mười bốn năm nay, cuộc
sống của Yaeko đều nhờ vào cái quán này. Cứ nghĩ đến chuyện không có cái quán, cho dù là hiện tại, bà ta vẫn sợ đến toát mồ hôi lạnh. Chỉ có
điều, khi quán này vừa khai trương, thì trò Kẻ xâm lược ngoài hành tinh
bắt đầu làm mưa làm gió khắp cả nước, khách khứa tranh nhau vào quán cà
phê không phải để uống cà phê mà để chơi trò chơi điện tử, khi ấy, bà ta cực kỳ hối hận vì đã đóng cửa mất quán cà phê kia.
“Con bà sao rồi? Vẫn không có tin tức gì hả?” Sasagaki nói.
Miệng Yaeko méo xệch đi, lắc lắc đầu. “Tôi đã không còn hy vọng gì nữa rồi.”
“Năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Vừa tròn ba mươi?”
“Có trời mới biết, tôi quên rồi.”
Sasagaki bắt đầu thỉnh thoảng ghé qua từ năm thứ tư sau khi Yaeko mở
quán. Ông vốn là cảnh sát phụ trách vụ án mạng của Yosuke, nhưng gần như không bao giờ nhắc đến vụ đó, mà lần nào cũng hỏi thăm Ryoji.
Ryoji ở lại tiệm cầm đồ Kirihara cho tới khi tốt nghiệp cấp II. Lúc
ấy, trong đầu Yaeko chỉ nghĩ đến chuyện làm ăn của quán cà phê, không
phải chăm sóc con trai coi như đã giúp bà ta một việc lớn.
Có lẽ cùng thời điểm Yaeko bắt đầu thích kinh doanh cái quán này,
Ryoji cũng rời khỏi tiệm cầm đồ Kirihara. Không phải vì thế mà cuộc sống ấm áp của hai mẹ con nương tựa lẫn nhau bắt đầu. Yaeki buộc phải ở lại
cùng những khách uống rượu say đến tận nửa đêm, sau đó là về lăn ra ngủ. Lúc bà ta ra khỏi giường thì đã quá trưa, ăn uống qua loa xong, tắm rửa trang điểm, rồi lại mở quán. Bà ta chưa từng nấu bữa sáng cho con trai
lần nào, bữa tối cũng hầu như mua ở bên ngoài. Tính thời gian mẹ con gặp nhau cả ngày gộp lại không biết có được một tiếng đồng hồ không.
Sau đó, số lần Ryoji qua đêm bên ngoài càng lúc càng nhiều. Hỏi đi
đâu, thì nhỉ nhận được những câu trả lời ậm ờ cho qua. Nhưng nhà trường
và cảnh sát đều chưa bao giờ tìm đến nói Ryoji gây phiền phức, nên Yaeko cũng chẳng để tâm lắm. Bà ta đã quá mệt mỏi với cuộc sống hàng ngày
rồi.
Buổi sáng hôm diễn ra lễ tốt nghiệp cấp III, Ryoji chuẩn bị ra ngoài
như thường lệ. Yaeko hôm đó hiếm hoi dậy sớm, nằm trong chăn tiễn cậu ta ra cửa bằng ánh mắt.
Bình thường, Ryoji bao giờ cũng lẳng lặng ra đi, nhưng hôm ấy lại ngoảnh đầu vào trong nhà nói với Yaeko, “Con đi đây.”
“Ừm, đi đường cẩn thận.” Bà ta trả lời, vẫn còn đang bần thần ngái ngủ.
Đó là cuộc đối thoại cuối cùng của hai mẹ con họ. Mấy tiếng đồng hồ
sau, Yaeko mới phát hiện trên bàn trang điểm có mảnh giấy, bên trên chỉ
viết “Con không về nữa đâu”. Đúng như lời nhắn để lại, Ryoji không bao
giờ xuất hiện nữa.
Nếu thật sự muốn tìm con trai, đương nhiên cũng không đến nỗi không
biết phải bắt đầu từ đâu, nhưng Yaeko cũng không tích cực tìm kiếm cho
lắm. Mặc dù cô đơn, nhưng trong lòng bà ta lại cảm thấy chuyện này thành ra như vậy là có nguyên nhân của nó. Bà ta biết rõ mình chưa bao giờ
làm tròn trách nhiệm của một người mẹ, cũng hiểu được rằng Ryoji không
hề coi mình là mẹ.
Yaeko ngờ rằng không biết có phải mình bẩm sinh đã thiếu mất bản năng làm mẹ hay không. Hồi đó bà ta sinh Ryoji không phải vì muốn có con mà
nguyên nhân duy nhất là bà ta chẳng có lý do gì để phá thai cả. Bà ta
kết hôn với Yosuke, cũng vì cho rằng từ đây không cần phải làm việc mà
sẽ được sống sung sướng thoải mái. Thế nhưng, vai trò làm vợ làm mẹ nhạt nhẽo, vô vị hơn những gì bà ta tưởng tượng ban đầu quá nhiều. Bà ta
không muốn làm vợ hay làm mẹ, mà chỉ mong mình mãi mãi là đàn bà thôi.
Khoảng ba tháng sau khi Ryoji bỏ nhà ra đi, bà ta có tư tình với một
người đàn ông bán các hàng tạp hoá nhập khẩu. Ông ta đã xoa dịu trái tim cô đơn của Yaeko, thực hiện nguyện vọng làm đàn bà của bà ta.
Bọn họ sống chung được khoảng hai năm, nguyên nhân chia tay là vì
người đàn ông cần phải trở về ngôi nhà vốn dĩ của ông ta. Ông ta đã có
vợ, nhà ở thành phố Hoki.
Sau đó, bà ta cũng qua lại với mấy người rồi lại chia tay, giờ vẫn
một thân một mình. Cuộc sống rất thoải mái, nhưng cũng có khi cảm thấy
cô đơn buồn chán. Những đêm như thế, bà ta sẽ nhớ đến Ryoji. Nhưng bà ta không cho phép mình có ý nghĩ muốn gặp anh ta, bà ta biết, mình không
có tư cách ấy.
Sasagaki ngậm một điếu Seven Stars, Yaeko nhanh chóng cầm bật lửa lên, giúp ông châm thuốc.
“À, bao nhiêu năm rồi nhỉ, từ khi chồng bà bị hại ấy?” Sasagaki hút một hơi thuốc, hỏi.
“Chừng hai chục năm...”
“Tính kỹ ra thì là mười chín năm, đúng là chuyện rất lâu rồi.”
“Đúng vậy. Ông Sasagaki nghỉ hưu rồi, còn tôi cũng biến thành một bà già.”
“Đã lâu như vậy, có một số chuyện giờ có thể nói ra được rồi chứ?”
“Ý ông là sao?”
“Ý tôi là, có một số chuyện lúc đó không thể nói ra, giờ thì có thể rồi.”
Yaeko cười nhạt, cầm điếu thuốc của mình lên, châm lửa, hướng lên trần nhà đã ngả màu phả ra một làn khói xám mỏng mảnh.
“Ông nói năng lạ thật, tôi chẳng có gì giấu giếm cả.”
“Hả? Thế mà tôi lại nghĩ không thông rất nhiều điểm đấy.”
“Ông vẫn không buông được vụ án đấy à? Thật là kiên nhẫn.” Yaeko dùng đầu ngón tay kẹp điếu thuốc, khẽ dựa người vào cái tủ phía sau. Tiếng
nhạc vẳng lên không biết từ đâu.
“Ngày xảy ra vụ án, bà nói mình và Matsuura, Ryoji ở nhà. Có thật không?”
“Đúng thế.” Yaeko cầm gạt tàn lên, gảy tàn thuốc vào đó. “Chuyện này
không phải ông Sasagaki đã điều tra đến nẫu cả ra rồi hay sao?”
“Điều tra thì điều tra rồi, nhưng chỉ chứng mình được chứng cứ ngoại phạm của Matsuura.”
“Ông muốn nói là tôi giết ông ta?” Yaeko phả khói ra từ lỗ mũi.
“Không, bà cũng ở cùng ông ta. Điểm tôi nghi ngờ là ba người ở chung
với nhau. Trên thực tế, chỉ có bà và Matsuura ở cạnh nhau thôi, phải
không?”
“Ông Sasagaki, rốt cuộc ông muốn nói gì?”
“Bà và Matsuura có quan hệ với nhau phải không?” Sasagaki uống hết
chỗ bia còn lại trong cốc, ra hiệu bà ta không cần phải giúp, ông sẽ tự
rót cho mình. “Không cần phải giấu giếm nữa chứ? Đã là quá khứ rồi. Đến
bây giờ, cũng chẳng còn ai nói ra nói vào nữa.”
“Giờ mới hỏi chuyện quá khứ, là để làm gì?”
“Chẳng để làm gì cả, chỉ là muốn nghĩ cho thông, Khi xảy ra án mạng,
khách đến cầm đồ nói là cửa tiệm khoá cửa. Về chuyện này, Matsuura nói
là ông ta vào kho bảo hiểm, còn bà và con trai thì đang xem ti vi. Nhưng đó không phải sự thật, thật ra bà và Matsuura đang ở trên giường trong
phòng trong, có phải thế không?”
Yaeko bình thản tiếp tục hút thuốc. Nhìn làn khói hững hờ bay lên, bà ta bất giác nghĩ lại hồi đó.
Bà ta không có nhiều tình cảm với Matsuura Isamu, chỉ là hàng ngày
buồn chán. Bà ta sốt ruột, chỉ sợ tiếp tục như vậy mình sẽ không còn là
đàn bà nữa. Vì vậy, khi Matsuura theo đuổi, bà ta liền dễ dàng chấp nhận luôn. Con người này nhất định đã nhìn ra được sự trống rỗng bên trong
của Yaeko, nên mới tìm đến.
“Con trai bà ở trên tầng hai à?” Sasagaki hỏi.
“Sao?”
“Tôi nói Ryoji ấy, khi bà và Matsuura ở trong phòng trong tầng một,
thằng bé đang ở trên tầng hai à? Hai người sợ nó đột nhiên xông vào, nên mới khoá chốt cửa ở cầu thang lại.”
“Khoá chốt cửa?” Lời thốt ra khỏi miệng, Yaeko mới gật mạnh đầu.
“Đúng vậy, nghe ông nói thế, tôi mới nhớ ra trên chốt cửa cầu thang có
gắn thêm một ổ khoá. Quả không hổ là cảnh sát, nhớ rõ thế.”
“Sao hả? Lúc đó Ryoji đang ở trên tầng hai đúng không? Nhưng để che
giấu quan hệ giữa bà và Matsuura, hai người quyết định nói với bên ngoài là ba người ở cùng nhau. Có phải vậy không?”
“Ông muốn nghĩ thế thì tuỳ ông, tôi sẽ chẳng nói gì đâu.” Yaeko dúi đầu mẩu thuốc vào gạt tàn. “Mở thêm chai nữa nhé?”
“Được, mở đi.”
Sasagaki uống chai bia thứ hai với đậu phộng, Yaeko cũng uống với
ông. Nhất thời, cả hai đều im lặng. Yaeko nhớ lại lúc đó. Tất cả đều
đúng như Sasagaki nói, khi xảy ra án mạng, bà ta và Matsuura đang hương
lửa mặn nồng, Ryoji ở trên tầng hai, cửa cầu thang khoá chặt.
Nhưng... Matsuura đề nghị cảnh sát hỏi về chứng cứ ngoại phạm, tốt
nhất là cứ nói Ryoji cũng ở chung, như vậy cảnh sát sẽ không suy đoán
lung tung. Kết quả sau khi bàn bạc, họ quyết định nói rằng lúc đó Yaeko
vào Ryoji đang xem ti vi, xem chương trình phim khoa học viễn tưởng mà
bọn con trai đều mê mẩn. Nội dung chương trình đã có giới thiệu tương
đối tỉ mỉ trên tạp chí thiếu niên mà Ryoji đặt định kỳ khi ấy, Yaeko và
Ryoji đọc tạp chí rồi nhớ kỹ nội dung.
“Không biết Miyazaki sẽ thế nào nhỉ?” Sasagaki đột nhiên buông ra một câu.
“Miyazaki?”
“Tsutomu Miyazaki ấy.”
“À.” Yaeko hất mái tóc dài, cảm giác trên tay vương mấy sợi tóc rụng, đưa mắt nhìn, thì ra là tóc bạc quấn vào ngón giữa. Bà ta lẳng lặng thả sợi tóc rơi xuống đất, không để Sasagaki phát hiện. “Tử hình thôi, cái
loại xấu xa ấy.”
“Mấy ngày trước trên báo đã đăng kết quả phán quyết công khai. Hình
như nói, ba tháng trước khi gây án, người ông kính yêu của hắn qua đời,
làm hắn mất đi chỗ dựa tinh thần gì đó.”
“Thế thì sao chứ, nếu người nào như vậy cũng đi giết người thì còn ra gì nữa.” Yaeko lại châm một điếu thuốc.
Từ năm 1988 đến 1989, ở Saitama và Tokyo liên tiếp có bốn bé gái bị
hại. Yaeko xem tin tức biết được vụ “Bắt cóc và sát hại hàng loại bé
gái” này trong quá trình xử án. Luật sư dựa vào kết quả giám định sức
khoẻ tâm thần để bào chữa, nhưng bà ta không hề thấy kỳ quặc với tâm
thái chuyên chọn các bé gái để ra tay. Bà ta từ lâu đã biết những gã có
tâm lý biến thái kiểu này không ít.
“Nếu biết chuyện đó sớm hơn thì đã tốt.” Sasagaki hạ giọng nói.
“Chuyện gì?”
“Sở thích của chồng bà ấy.”
“À...” Yaeko muốn cười, nhưng cơ mặt lại co rút một cách quái dị.
Đến giờ bà ta đã hiểu, thì ra Sasagaki muốn gợi ra chủ đề này, nên mới nhắc đến Tsutomu Miyazaki.
“Chuyện đó thì giúp được gì chứ?” Bà ta hỏi.
“Không chỉ giúp được không thôi mà nếu biết từ lúc vụ án xảy ra, hướng điều tra sẽ thay đổi một trăm tám mươi độ ngay lập tức.”
“Ồ, thế à!” Yaeko phun ra một hơi khói. “Nhưng mà...”
“Phải rồi, lúc đó đương nhiên không thể nói ra.”
“Lại còn!”
“Cũng không thể trách bà được.” Sasagaki giơ tay chống lên trán. “Vậy mà đã tốn mười chín năm trời.”
Yaeko cố nhịn không hỏi ông câu ấy nghĩ là sao. Trong lòng Sasagaki
hẳn đang giấu bí mật gì đó, nhưng chuyện đã đến nước này, bà ta cũng
không muốn biết nữa.
Tiếp sau đấy lại là một khoảng lặng. Khi chai bia thứ hai còn khoảng một phần ba, Sasagaki đứng lên, “Thôi tôi về đây.”
“Cảm ơn ông, trời lạnh thế này vẫn còn ghé qua, khi nào muốn ghé qua đây ngồi nhé.”
“Được, lần sau tôi sẽ đến.” Sasagaki trả tiền, mặc áo khoác vào, quấn chiếc khăn quàng màu nâu trên cổ, “Tuy rằng hơi sớm một chút, nhưng tôi vẫn chúc bà năm mới vui vẻ.”
“Chúc mừng năm mới!” Yaeko nở một nụ cười vui vẻ.
Sasagaki nắm tay nắm cánh cửa cũ kỹ, rồi lại quay đầu hỏi.
“Đúng là ở trên tầng hai chứ?”
“Sao cơ?”
“Ryoji ấy, có đúng là cậu bé ở trên tầng hai suốt không?”
“Rốt cuộc ông muốn nói gì vậy?”
“Không có gì, làm phiền bà rồi.” Sasagaki mở cửa đi ra.
Yaeko nhìn cánh cửa một lúc, rồi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Da gà nổi khắp người không chỉ vì cơn gió lạnh bên ngoài lọt vào.
“Ryo hình như lại ra ngoài rồi.” Giọng Matsuura văng vẳng bên tai. Ông ta lúc đó đang ở trên Yaeko, tóc mai lấm tấm mồ hôi.
Matsuura nghe có người giẫm lên mái ngói nên mới nói như vậy. Yaeko
cũng biết từ lâu, Ryoji thường trèo qua cửa sổ, rồi leo trên mái nhà ra
ngoài. Nhưng bà ta chưa bao giờ nói gì với Ryoji về chuyện này, thằng bé không ở nhà, bà ta mới tiện hú hí với tình nhân. Hôm ấy cũng thế. Lúc
thằng bé trở về, trên mái ngói phát ra tiếng động khe khẽ. Nhưng mà...
Thế thì sao chứ? Có thể nói Ryoji đã làm gì chứ?
14
Trước cửa hàng có ông già Noel tặng thiệp, bên trong liên
tục phát ra ca khúc Giáng sinh được cải biên lại theo phong cách cổ
điển. Dưới tác động chung của các yếu tố như Giáng sinh, cuối năm, cộng
với ưu đãi khi khai trương, cửa hàng đông đến mức đi không lọt. Đưa mắt
nhìn quanh, khách hàng hầu như đều là các phụ nữ trẻ, Sasagaki thầm
nghĩ, thật giống như một đám côn trùng đang bay quanh một đoá hoa.
Chi nhánh số 1 ở Osaka của cửa hàng R&Y hôm nay khai trương rất
long trọng. Khác với cửa hàng ở Tokyo, ở đây R&Y chiếm cả một toà
nhà, bên trong không chỉ có trang phục mà còn có cả tầng chuyên bán đồ
trang sức, túi và giày. Nghe nói trong tiệm toàn là đồ hiệu cao cấp mà
Sasagaki chưa từng biết đến. Cả xã hội đang khốn đốn vì nền kinh tế bong bóng bị vỡ, nhưng nơi này lại có phương thức kinh doanh đi ngược lại
không khí đó.
Cạnh cầu thang cuốn từ tầng một lên tầng hai có khu để uống cà phê,
khách hàng có thể ngồi đây nghỉ ngơi giây lát. Một tiếng trước, Sasagaki đã ngồi ở một bàn mé ngoài nhìn xuống tầng một. Sau khi trời tối, lưu
lượng khách vẫn không hề giảm bớt. Ông cũng phải xếp hàng rất lâu mới
vào được, hiện giờ ngoài cửa vẫn còn một hàng dài người. Ngại nhân viên
trong tiệm khó chịu, Sasagaki gọi cốc cà phê thứ hai.
Ngồi đối diện với ông là một cặp đôi trẻ tuổi. Người ngoài nhìn vào,
có lẽ cho rằng đó là một đôi vợ chồng trẻ đi cùng ông bố. Chàng trai trẻ thấp giọng nói với ông. “Vẫn chưa thấy xuất hiện.”
“Ừm.” Sasagaki khẽ gật gật đầu, hai mắt vẫn liếc nhìn xuống dưới.
Cặp đôi trẻ tuổi này đều là sĩ quan cảnh sát của Osaka, chàng trai
còn là người thuộc ban điều tra. Sasagaki nhìn đồng hồ, thời gian mở cửa đã sắp hết.
“Giờ vẫn còn chưa biết được.” Ông lẩm nhẩm tự nói một mình.
Người bọn họ đang đợi đương nhiên chính là Kirihara Ryoji. Họ được
phép bắt giữ anh ta ngay khi phát hiện. Giai đoạn hiện tại vẫn chưa thể
truy nã, nhưng cần phải tạm giữ anh ta lại. Sasagaki là cảnh sát đã về
hưu, hiểu biết rất sâu về con người này, đến đây để hỗ trợ điều tra. Tất nhiên, chuyện này là do trưởng ban điều tra Koga sắp xếp.
Kirihara bị tình nghi giết người.
Khi Sasagaki trông thấy mảnh kính vỡ trong chậu cây xương rồng ở nhà
Shinozuka, một ý nghĩ liền loé lên trong đầu ông, đó chính là cách ăn
mặc của Matsuura Isamu lúc y mất tích. Có mấy nhân chứng khai rằng “Ông
ta thường đeo kính râm Rayban màu xanh lục.”
Sasagaki nhờ Koga điều tra về mảnh kính vỡ. Trực giác của ông chính
xác, đó đúng là mảnh kính từ một chiếc Rayban, vả lại bên trên còn sót
lại một dấu vân tay nhỏ, rất giống với vân tay của Matsuura mà cảnh sát
lấy được ở phòng y, tỷ lệ giống nhau đến chín mươi tám phần trăm.
Trong chậu bonsai tại sao lại có mảnh kính vỡ của Matsuura? Có thể
suy luận, hẳn là khi chủ nhân ban đầu của cây xương rồng là bà Karasawa
Reiko đổ đất vào chậu hoa, mảnh kính đã lẫn trong đất rồi. Vậy thì, đất
ấy từ đâu ra? Nếu không mua đất chuyên dùng để làm vườn, thì việc dùng
đất trong vườn nhà mình là suy đoán hợp lý nhất.
Nhưng muốn đào bới vườn nhà Karasawa cần có giấy phép lục soát. Chỉ
dựa vào chút chứng cứ mỏng manh ấy, thực sự rất khó để phán đoán có nên
đưa ra quyết định táo tợn như vậy hay không. Cuối cùng, trưởng ban điều
tra số 1 Koga đã đồng ý không do dự. Tuy hiện nay nhà Karasawa không còn ai cư trú cũng là một yếu tố lớn, nhưng Sasagaki cho rằng, Koga tin vào sự cố chấp của một cảnh sát già đã về hưu.
Cuộc lục soát được tiến hành ngày hôm qua. Trong sân nhà Karasawa, ở
chỗ sát mép tường có một khoảnh đất trống. Các điều tra viên giàu kinh
nghiệm không chút do dự đào bới từ đó.
Sau khi đào bới được hai tiếng, phát hiện ra một bộ xương trắng. Thi
thể không mặc quần áo, đã chết được bảy tám năm. Cảnh sát tỉnh Osaka đã
tìm đến Sở Nghiên cứu khoa học điều tra nhờ hỗ trợ xác nhận thân phận
người chết. Có đến mấy phương pháp, chí ít muốn chứng minh có phải là
Matsuura Isamu hay không chắc chắn không khó.
Sasagaki tin chắc người chết này chính là Matsuura, vì ông nghe được
chi tiết trên ngón tay út bàn tay phải của bộ xương có đeo một chiếc
nhẫn bạch kim. Ông có thể nhớ lại cảnh bàn tay đeo nhẫn của Matsuura cử
động như thể điều đó vừa mới diễn ra hôm qua.
Vả lại, trên tay phải của cái xác còn nắm một chứng cứ khác... trên
ngón tay đã hoá thành xương trắng có quấn mấy sợi tóc người, theo suy
đoán, đã được giật từ trên đầu đối phương xuống trong lúc ẩu đả.
Vấn đề là, liệu có thể khẳng định đó là tóc của Kirihara Ryoji hay
không. Trong tình huống bình thường, có thể dựa vào màu tóc, độ bóng, độ cứng, kích thước, chỉ số tuỷ, trạng thái phân bố của các hạt sắc tố,
nhóm máu... để phân biệt tóc của tất cả mọi người. Nhưng lần này, sợi
tóc được phát hiện đã rơi ra từ nhiều năm trước, vẫn còn chưa biết được
có thể xác định ở mức độ nào, nhưng đối với chuyện này, Koga sớm đã có
chuẩn bị từ trước.
“Nếu thật sự không được, thì phải nhờ đến Viện Nghiên cứu Khoa học Hình sự.” Anh đã nói như thế.
Có vẻ Koga nghĩ tới việc tiến hành giám định ADN. Phương pháp so sánh sự sắp xếp chuỗi ADN để phân biệt thân phận, khoảng một hai năm gần đây đã được sử dụng trong một số vụ án. Cục Cảnh sát đã lên kế hoạch trong
bốn năm tới sẽ đưa hệ thống này vào tất cả các cơ quan cảnh sát các cấp
trên toàn quốc, nhưng trước mắt vẫn do Viện Nghiên cứu Khoa học Hình sự
độc quyền phụ trách.
Sasagaki không thể không thừa nhận thời đại đã thay đổi. Vụ án mạng
chủ tiệm cầm đồ đã qua mười chín năm, thời gian làm tất cả đều biến
dạng, cả cách thức phá án cũng không ngoại lệ.
Nhưng mấu chốt nằm ở chỗ tìm ra được Kirihara Ryoji. Nếu không thể
bắt được anh ta, thì chỉ có bằng chứng suông cũng chẳng ý nghĩa gì.
Sasagaki đề nghị cấp trên triển khai giám sát Shinozuka Yukiho, vì cá
bống trắng luôn ở ngay bên cạnh tôm pháo. Đến giờ ông vẫn tin chắc như
thế. “Ngày cửa hàng đồ hiệu của Yukiho khai trương, Kirihara nhất định
sẽ xuất hiện. Việc mở cửa hàng ở Osaka có ý nghĩa đặc biệt với hai người bọn họ, vả lại, Yukiho cũng phải lo quản lý cửa hàng ở Tokyo, không thể thường xuyên đến Osaka được, họ nhất định sẽ không bỏ qua ngày khai
trương này đâu.” Sasagaki ra sức thuyết phục Koga.
Koga tán đồng ý kiến của người cảnh sát về hưu. Ngày hôm nay, từ lúc
cửa hàng mở cửa, đã có mấy nhóm nhân viên điều tra đổi nhau, liên tục
thay đổi địa điểm, duy trì giám sát R&Y. Sasagaki đã đồng hành với
các điều tra viên từ sáng sớm, khoảng một tiếng trước, ông vẫn còn ngồi
trong quán cà phê đối diện. Nhưng hoàn toàn không có vẻ gì là Kirihara
sẽ xuất hiện, ông bèn đi vào cửa hàng để quan sát.
“Hiện gờ Kirihara vẫn dùng cái tên Akiyoshi Yuichi phải không ạ?” Viên cảnh sát trẻ tuổi thấp giọng hỏi.
“Không biết, có thể là đã đổi rồi.” Sau khi trả lời, Sasagaki nhớ ra
chuyện này không liên quan lắm. Cái tên giả Akiyoshi Yuichi này... Ông
vẫn luôn cảm thấy dường như mình đã nghe cái tên này ở đâu rồi, rốt cuộc đến gần đây mới làm rõ được lý do.
Cái tên này ông nghe được từ cậu bé Kikuchi Fumihiko năm ấy.
Kikuchi Fumihiko bị cảnh sát nghi ngờ vì vụ án hiếp dâm, chính lời
chứng của Kirihara Ryoji đã trả lại cho anh sự trong sạch. Thế nhưng,
khi ấy tại sao anh ta lại bị nghi ngờ nhỉ? Là vì có người báo cảnh sát,
cái móc chìa khoá rơi ở hiện trường là của Kikuchi Fumihiko. Kikuchi
nói, kẻ “phản bội” ấy tên là Akiyoshi Yuichi.
Tại sao Kirihara lại chọn cái tên này là tên giả cho mình? Nguyên
nhân bên trong e rằng phải hỏi chính anh ta mới biết được, nhưng
Sasagaki lập luận theo cách của mình. Có lẽ Kirihara tự biết sự sinh tồn của mình được xây dựng trên cơ sở phản bội hết thảy mọi thứ, nên mới có suy nghĩ tự ngược đãi bản thân, tự xưng là Akiyoshi Yuichi. Nhưng việc
đã đến nước này, những chuyện đó đều không còn quan trọng nữa.
Sasagaki có thể tự tin là đã hiểu được lý do tại sao Kirihara lại cài bẫy Kikuchi. Bức ảnh trong tay Kikuchi rất bất lợi đối với Kirihara.
Nghe nói, trong tấm ảnh chụp Kirihara Yaeko và Matsuura Isamu hẹn hò với nhau. Nếu Kikuchi đem bức ảnh này cho cảnh sát xem, thì sẽ gây ra ảnh
hưởng thế nào? Cuộc điều tra có thể sẽ vì vậy mà triển khai trở lại.
Kirihara lo rằng sẽ mất đi chứng cứ ngoại phạm vào hôm xảy ra vụ án, bởi nếu Yaeko và Matsuura bận tư tình với nhau, vậy thì Kirihara sẽ ở một
mình một chỗ. Suy nghĩ một cách khách quan thì phía cảnh sát không thể
hoài nghi anh ta, khi ấy vẫn còn là học sinh cấp I, nhưng anh ta vẫn hy
vọng có thể che giấu chuyện đó. Tối qua, sau khi gặp Kirihara Yaeko,
Sasagaki càng tin vào suy luận của mình. Hôm đó, Kirihara Ryoji ở một
mình trên tầng hai, nhưng anh ta không hề ở đó suốt. Ở khu vực nhà dân
dày đặc như thế, cũng như kẻ trộm có thể dễ dàng đột nhập từ tầng hai,
muốn từ tầng hai ra bên ngoài thực sự không phải chuyện khó. Ryoji đã từ trên nóc nhà bám vào mép tường leo xuống, rồi lại men theo đường cũ trở về.
Trong khoảng thời gian đó anh ta đã làm gì?
Trong tiệm bắt đầu phát thông báo sắp đóng cửa, dòng người lập tức đổi hướng.
“Xem ra không được rồi.” Viên cảnh sát trẻ tuổi nói, nữ cảnh sát cũng bực bội đảo măt nhìn xung quanh.
Phía cảnh sát đã vạch ra các bước hành động, nếu như không phát hiện
Kirihara Ryoji, hôm nay sẽ chất vấn Shinozuka Yukiho. Nhưng Sasagaki
phản đối, ông cho rằng Yukijo sẽ không tiết lộ bất cứ thông tin nào trợ
giúp cho việc phá án. Cô ta ắt sẽ lộ vẻ kinh ngạc đủ để lừa gạt bất cứ
ai, mà nói, “Trong vườn nhà mẹ tôi phát hiện ra xương người? Thật không
thể nào tin nổi. Thế là thế nào?” Cô ta đáp như thế, cảnh sát sẽ làm
sao? Takamiya Makoto đã xác nhận là vào dịp tết của bảy năm trước khi
Matsuura bị giết, bà Karasawa Reiko nhận lời mời đến nhà Yukiho. Thế
nhưng, không có chứng cứ nào chứng minh giữa Yukiho và Kirihara có bất
cứ liên quan gì cả.
“Ông Sasagaki, ông xem...” Nữ cảnh sát lẳng lặng chỉ tay.
Đưa mắt nhìn về phía ấy, Sasagaki không khỏi trợn tròn mắt lên.
Yukiho đang chậm rãi bước trong cửa hàng, cô ta mặc một bộ vest trắng
tinh, trên gương mặt nở nụ cười có thể nói là hoàn mỹ. Đó không còn là
gương mặt xinh đẹp nữa, mà là ánh sáng tỏa ra từ cô ta, trong chớp mắt
đã thu hút tất cả ánh mắt của khách hàng và nhân viên xung quanh. Có
những người ngoảnh lại nhìn theo khi đã đi qua. Có những người thì thầm
với nhau. Cũng có những người không che giấu ánh mắt ngưỡng mộ.
“Đúng là một nữ hoàng.” Người cảnh sát trẻ thấp giọng nói.
Thế nhưng, trong mắt Sasagaki, Yukiho tựa như nữ hoàng ấy và một bóng hình khác đang xếp chồng lên nhau. Cô bé ông gặp trong căn hộ cho thuê
cũ kỹ, cô bé không có gì để dựa dẫm, không chịu mở rộng tấm lòng.
“Nếu biết được chuyện này sớm hơn một chút...” Câu ông nói với Yaeko tối qua lại vang lên trong óc.
Yaeko đã nói với ông chuyện đó từ năm năm trước, khi ấy bà ta đã khá say. Chính vì vậy, nên mới không giấu giếm gì.
“Giờ tôi mới dám nói, chuyện đó của ông chồng tôi chẳng ra gì cả. Kỳ
thực, ông ta vốn không phải như thế, sau này mới dần dần thay đổi. Ông
ta chạy theo một sở thích kỳ quặc... nên nói thế nào nhỉ? Cái đó gọi là
chứng ấu dâm đúng không? Có hứng thú với mấy đứa bé gái. Lại còn đi mua
một đống thứ ảnh quái dị ấy về nữa. Đống ảnh ấy à? Ông ta vừa chết, tôi
liền xử lý hết luôn, còn phải nói nữa hay sao?”
Những lời tiếp sau đấy của bà ta càng làm Sasagaki kinh ngạc hơn.
“Có một lần, Matsuura nói với tôi một chuyện rất kỳ quái. Anh ta kể,
ông chủ hình như đang mua con gái. Tôi hỏi anh ta mua con gái tức là thế nào, anh ta bảo, tức là bỏ tiền ra cho một đứa con gái còn rất nhỏ rồi
lên giường với anh ta. Tôi sợ hết cả hồn, bảo sao lại có người bán cái
đó. Matsuura cười tôi, nói bà chủ hồi trước rõ ràng xuất thân từ đó mà
ra, thế mà chẳng biết gì cả, thời buổi này, bố mẹ đều nhờ bán con gái mà sống qua ngày đấy.”
Nghe được chuyện này, trong đầu Sasagaki nổi lên một trận phong ba,
các dòng suy nghĩ đều trở nên hỗn loạn. Nhưng sau đó những gì không nhìn ra được trong quá khứ, lại hiện ra rõ mồn một như vừa xua tan được
sương mù.
Yaeko còn chưa nói hết.
“Không lâu sau, chồng tôi bắt đầu có một số hành vi quái dị khó hiểu. Ông ta chạy đi hỏi tay luật sư quen biết xem muốn nhận con người khác
về làm con gái nuôi cần phải làm những thủ tục gì? Khi tôi chất vấn ông
ta chuyện này, ông ta liền nổi giận đùng đùng, bảo chẳng liên quan gì
đến tôi cả. Vẫn chưa hết, ông ta còn đòi ly hôn với tôi nữa. Tôi nghĩ,
từ lúc ấy, đầu óc ông ta chắc đã có vấn đề rồi.”
Sasagaki cho rằng, đây chính là mấu chốt.
Kirihara Yosuke thường xuyên đến căn hộ của mẹ con nhà Nishimoto, mục đích không phải là Nishimoto Fumiyo, mà nhắm vào Nishimoto Yukiho. Chắc hẳn, ông ta đã nhiều lần mua thân thể cô bé, căn hộ cũ kỹ đó chính là
nơi dùng để tiến hành thứ giao dịch bệnh hoạn ấy.
Lúc này, đương nhiên Sasagaki nảy ra một nghi vấn.
Khách hàng phải chăng chỉ có một mình Kirihara Yosuke?
Terasaki Tadao chết vì tai nạn ô tô thì sao? Tổ chuyên án coi y là
tình nhân của Nishimoto Fumiyo, nhưng không ai có thể khẳng định
Terasaki không có sở thích biến thái giống như Kirihara Yosuke.
Tiếc là hiện giờ những điều ấy đều không thể chứng minh được nữa. Cho dù khi ấy vẫn còn khách làng chơi khác, cũng không biết tìm lại từ đâu.
Người duy nhất có thể xác định được, chỉ có Kirihara Yosuke.
Một triệu yên của Kirihara Yosuke, quả nhiên chính là số tiền giao
dịch đưa cho Nishimoto Fumiyo, số tiền ấy không phải để bà ta làm tình
nhân của Kiriahara Yosuke, mà là cái giá để nhận nuôi con gái bà ta. Hẳn là, sau mấy lần mua bán, ông ta hy vọng có thể chiếm lấy con gái bà ta
làm của riêng.
Yosuke đi rồi, Fumiyo ngồi lại một mình trên ghế xích đu công viên. Bà ta có đang vướng bận suy nghĩ nào không?
Sau khi nói chuyện với Fumiyo, Yosuke đến thư viện, để đón cô bé xinh xắn đã giành được trái tim mình. Quá trình xảy ra tiếp theo, Sasagaki
có thể hình dung rõ ràng. Kirihara Yosuke dẫn cô bé vào toà nhà đang xây dở. Có phải cô bé từng kháng cự? Sasagaki suy đoán, có lẽ là không.
Yosuke nhất định đã nói với cô thế này, “Ta đã trả một triệu yên cho mẹ
cháu rồi...”
Chỉ nội việc tưởng tượng trong căn phòng đầy bụi bặm đó đã xảy ra
chuyện gì cũng đủ khiến người ta thấy lộn mửa. Thế nhưng, nếu có người
nhìn thấy cảnh tượng đó thì sao chứ? Sasagaki không tin là Ryoji lúc đó
đang tình cờ chơi đùa trong hệ thống thông gió. Ryoji trốn khỏi nhà qua
lối cửa sổ tầng hai, hẳn là để đến thư viện. Có lẽ cậu ta thường làm vậy để gặp Yukiho, khoe với cô bé tài cắt giấy của mình. Duy chỉ có thư
viện ấy, mới là chốn nghỉ của hai trái tim thơ trẻ. Nhưng hôm đó, Ryoji
lại thấy một cảnh tượng kỳ dị bên cạnh thư viện. Bố cậu và Yukiho đi
cùng nhau. Cậu đi theo. Họ vào toà nhà ấy.
Hai người làm gì trong đó? Cậu bé cảm thấy một nỗi bất an vô hình
dâng lên. Muốn rình xem họ làm gì chỉ có một cách, cậu ta ngay lập tức
bò vào trong ống thông gió.
Vậy là, có thể cậu ta đã nhìn thấy cảnh tượng kinh khủng nhất kia.
Khoảnh khắc ấy, trong lòng cậu bé, ông bố đã trở thành một con dã thú
xấu xí và tàn ác. Chắc chắn cơ thể của cậu ta đã bị sự đau khổ và căm
phẫn chi phối. Đến giờ, Sasagaki vẫn nhớ rõ vết thương của Kirihara
Yosuke, đó cũng là vết thương trong lòng cậu bé. Giết chết bố mình xong, Ryoji để Yukiho chạy trước. Chất gạch sau cửa, hy vọng có thể nhờ vậy
mà ít nhiều kéo dài thời gian phát hiện ra vụ án mạng, có lẽ đó là tất
cả những gì mà trí óc cậu bé nghĩ được. Sau đó, cậu ta lại chui vào ống
thông gió. Hễ nghĩ đến tâm trạng cậu ta lúc bò trong ống thông gió của
toà nhà, Sasagaki lại thấy lòng đau như cắt.
Sau đó, hai người giao hẹn với nhau thế nào thì không thể biết được.
Sasagaki suy đoán, có lẽ không có chuyện giao hẹn gì cả, họ chỉ muốn bảo vệ linh hồn của mình mà thôi. Kết quả, Yukiho không bao giờ dùng gương
mặt thật để đối mặt với thế gian, Ryoji thì đến giờ vẫn đang luẩn quẩn
trong ống thông gió tăm tối. Động cơ trực tiếp khiến Ryoji giết
Matsuura, chắc là vì Matsuura giữ bí mật về chứng cứ ngoại phạm của anh
ta. Có lẽ, trong một dịp tình cờ, Matsuura phát hiện ra có thể Ryoji đã
phạm tội giết bố. Rất có thể y đã ngầm ám chỉ chuyện này với Ryoji, ép
anh ta tham gia vào hành động làm bản lậu của trò chơi điện tử lần đó.
Nhưng Sasagaki cho rằng, còn một động cơ nữa khiến Ryoji sát hại
Matsuura. Vì không ai có thể khẳng định chứng ấu dâm của Kirihara Yosuke có phải bắt nguồn từ chuyện Yaeko ngoại tình hay không. Trong căn phòng kín trên tầng hai ấy, Ryoji ắt hẳn đã vô số lần trông thấy chuyện xấu
xa của mẹ mình và Matsuura. Tất cả đều do tên đó hại bố mẹ mình phát
điên... anh ta có nghĩ vậy cũng không có gì là lạ.
“Ông Sasagaki, chúng ta đi thôi.”
Tiếng gọi của viên cảnh sát làm Sasagaki giật mình sực tỉnh, ông đưa
mắt nhìn quanh, trong quán cà phê đã không còn khách nào khác.
Vẫn không xuất hiện à...
Trong lòng ông không khỏi có cảm giác hụt hẫng. Sasagaki cảm thấy,
nếu hôm nay không tìm được Kirihara ở đây, sợ rằng sẽ không thể bắt được anh ta nữa. Nhưng dù sao cũng không thể ở lì đây mãi được. Đi thôi, ông chán nản nâng cơ thể nặng nề của mình đứng dậy. Ra khỏi quán cà phê, ba người cùng lên thang cuốn. Khách hàng đang túm năm tụm ba rời khỏi.
Nhân viên cửa hàng dường như rất hài lòng vì hoạt động ưu đãi ngày khai
trương đầu tiên đã thành công tốt đẹp. Ông già Noel đứng ngoài cửa phát
thiệp đang đi thang cuốn lên trên, thoạt nhìn ông ta cũng toát lên một
vẻ mệt mỏi nhưng vui sướng. Xuống khỏi thang cuốn, Sasagaki đảo mắt nhìn quanh trong cửa hàng, không thấy bóng dáng Yukiho đâu. Lúc này chắc cô
ta bắt đầu tính toán doanh thu ngày hôm nay rồi.
“Ông vất vả rồi.” Trước khi ra khỏi cửa hàng, viên cảnh sát trẻ khẽ nói.
“Đâu có gì.” Sasagaki trả lời, khẽ gật đầu. Sau này chỉ còn biết giao lại cho bọn họ mà thôi, giao lại cho thế hệ trẻ.
Sasagaki và những người khách khác cùng ra về. Đôi cảnh sát giả làm
tình nhân cũng nhanh chóng bước ra, đi về phía đồng nghiệp giám sát ở
một điểm khác. Có lẽ, tiếp sau đây bọn họ sẽ đi tìm Yukiho để phỏng vấn.
Sasagaki kéo áo khoác, nhấc chân bước đi. Trước mặt ông là hai mẹ con, bọn họ dường như cũng vừa mới từ R&Y đi ra.
“Món quà này hay quá nhỉ, để mang về khoe bố nhé.” Người mẹ nói với đứa con.
“Vâng ạ.” Cô bé chừng ba bốn tuổi gật đầu đáp, trên tay cô cầm thứ gì đó, đang khe khẽ phất phơ. Trong khoảnh khắc, Sasagaki mở to hai mắt.
Cô bé cầm một tờ giấy màu đỏ, cắt thành hình một con tuần lộc rất đẹp.
“Cái này... ở đâu ra vậy?” Sasagaki từ phía sau tóm lấy cánh tay cô bé.
Người mẹ lộ vẻ hoảng hốt, muốn bảo vệ con gái mình. “Có, có chuyện gì vậy?”
Cô bé dường như sắp sửa khóc oà lên đến nơi, người qua đường không ai không đưa mắt qua phía này.
“À! Xin lỗi. Cho tôi hỏi... cái này ở đâu ra vậy?” Sasagaki chỉ vào hình cắt giấy trên tay cô bé.
“Ở đâu ra chứ... được tặng ạ.”
“Tặng ở đâu?”
“Trong cửa hàng đó.”
“Ông già Noel.” Cô bé trả lời.
Sasagaki lập tức xoay người, chẳng buồn để ý đến đầu gối đau nhức vì
giá lạnh, ông dốc hết sức chạy như điên. Cửa hàng đã bắt đầu đóng cửa,
nhưng các cảnh sát vẫn ở gần đó chưa ra về. Nhìn thấy bộ dạng của
Sasagaki, tất cả đều biến sắc mặt.
“Có chuyện gì vậy ạ?” Một người trong bọn họ hỏi.
“Ông già Noel!” Sasagaki hét lớn. “Chính là hắn ta!”
Các cảnh sát lập tức hiểu ra, liền mở cánh cửa kính đang đóng lại,
xông vào bên trong, bất chấp các nhân viên ra sức ngăn cản, giẫm lên
chiếc thang cuốn đã ngừng hoạt động lao lên trên tầng. Sasagaki vốn định xông lên theo bọn họ, nhưng trong đầu ông lại tức khắc nảy ra một ý
nghĩ khác. Ông rẽ ngoặt vào con ngõ nhỏ bên cạnh toà nhà.
Ngu thật! Mình đúng là quá ngu xuẩn! Mình đuổi theo cậu ta bao nhiêu
năm rồi! Không phải cậu ta luôn bảo vệ Yukiho từ nơi không ai nhìn thấy
hay sao? Vòng ra sau toà nhà, Sasagaki nhìn thấy một cầu thang gắn tay
vịn bằng sắt, bên trên có một cánh cửa. Ông leo lên cầu thang, mở cửa
ra. Trước mắt ông là một người đàn ông đang đứng, một người mặc đồ đen.
Đối phương dường như cũng bất ngờ vì có người đột nhiên xuất hiện trước
mặt. Đây quả là một khoảng thời gian kỳ lạ. Sasagaki lập tức hiểu ra
người trước mặt mình chính là Kirihara Ryoji. Nhưng ông không hề nhúc
nhích, cũng không lên tiếng, đầu óc bình tĩnh đưa ra phán đoán: thằng
nhãi này cũng đang nghĩ xem mình là ai.
Thế nhưng, khoảng thời gian ấy có lẽ chỉ kéo dài chưa được một giây. Người kia đã xoay người, chạy theo hướng ngược lại.
“Đứng lại!” Sasagaki đuổi sát không buông.
Xuyên qua hành lang là khu vực bán hàng. Các cảnh sát đã xuất hiện,
Kirihara dốc toàn bộ sức lực lao vào giữa các giá hàng bày toàn hộp với
thùng. “Chính là hắn ta!” Sasagaki hét lớn. Các cảnh sát lập tức đuổi
theo. Chỗ này là hầng hai. Kirihara đang chạy về phía chiếc thang cuốn
đã ngừng hoạt động, Sasagaki tin rằng anh ta không thể thoát thân được
nữa.
Nhưng Kirihara không chạy lên cầu thang, mà dừng lại, không chút do
dự tung mình nhảy xuống tầng một. Bên tai vang lên tiếng hét của nhân
viên cửa hàng, tiếng đổ vỡ vang lên liền sau đó, tựa như cú va đập đã
làm hỏng mất thứ gì đó. Mấy cảnh sát lao xuống cầu thang như bay.
Sasagaki cũng đã đến chỗ cầu thang. Trái tim không chịu nổi nữa, ông ấn vào lồng ngực đang đau nhói, chầm chậm đi xuống.
Cây thông Noel khổng lồ đã đổ xuống, bên cạnh chính là Kirihara
Ryoji. Anh ta nằm sóng soài, hai tay hai chân choãi ra, không nhúc
nhích. Một viên cảnh sát lại gần, định kéo anh ta dậy, nhưng ngừng lại
ngay sau đó, ngoảnh đầu nhìn Sasagaki.
“Sao vậy?” Sasagaki hỏi. Không có câu trả lời.
Sasagaki bước đến gần, định xoay gương mặt Kirihara lên. Lúc này, tiếng hét lại vang lên lần nữa.
Có thứ gì đó cắm trên ngực Kirihara, vì máu tươi phun ra như suối nên khó nhận ra được, nhưng Sasagaki chỉ thoáng đã biết ngay. Đó chính là
chiếc kéo mà Kirihara coi như báu vật, chiếc kéo đã thay đổi cả cuộc đời anh ta!
“Mau đưa tới bệnh viện!” Có người hét lên, rồi tiếng bước chân chạy
sầm sập lại vẳng tới. Sasagaki hiểu, chẳng ích gì nữa, ông đã nhìn xác
chết quen rồi. Cảm giác xung quanh có người, Sasagaki ngẩng đầu lên.
Yukiho đứng ngay cạnh ông, gương mặt trắng muốt như tuyết đang cúi nhìn
Kirihara.
“Người này... là ai?” Sasagaki nhìn vào mắt cô ta.
Gương mặt Yukiho vô cảm, tựa như ma nơ canh. Cô ta lạnh lùng trả lời. “Tôi không biết. Việc thuê lao động thời vụ toàn bộ đều do cửa hàng
trưởng phụ trách.”
Lời vừa mới dứt, một cô gái trẻ liền xuất hiện bên cạnh. Sắc mặt cô
tái mét, cất giọng yếu ớt. “Tôi là cửa hàng trưởng Hanamoto.”
Cảnh sát bắt đầu hành động. Người thực hiện các biện pháp bảo vệ hiện trường, người chuẩn bị thẩm vấn cửa hàng trưởng, người vỗ lên vai
Sasagaki, mời ông rời xa cái xác. Sasagaki loạng choạng ra khỏi vòng vây của cảnh sát. Chỉ thấy Yukiho đang vịn cầu thang đi lên tầng, bóng lưng cô ta tựa như một bóng ma màu trắng.