Hằng hà sa số thiên thể vận hành như con thoi trôi chảy và mạch lạc trong vũ trụ. Chúng phóng ra những tia màu hồng rực rỡ. Thiên thể này có hình bầu vú, thiên thể khác lại có hình cặp mông. Chúng vận hành có vẻ tùy tiện, nhưng thật ra mỗi ngôi đều có quỹ đạo riêng. Rì rầm, loạt soạt, mỗi ngôi đều có điệu hát riêng của mình. Xiên ngang, đâm dọc, ngôi nào đi theo con đường của ngôi ấy. Ngắm nhìn sự hài hòa vĩ đại ấy, mục sư Malôa nước mắt ràn rua kêu lên:
- Ôi! Thượng Đế chí tôn! Người là tất cả!
Mục sư Malôa nằm bất động trên giường. Ông trông thấy một đạo hồng quang rọi trên bầu vú màu phấn hồng của Đức Mẹ Ma-ria và trên khuôn mặt bầu bĩnh của Chúa Hài Đồng trong tay Đức Mẹ. Mùa hè năm ngoái mái nhà bị dột, bức tranh sơn dầu này bị ố từng đám vì nước mưa, khuôn mặt Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng trở nên ngắn ngủn, đần độn và nanh nọc. Một con nhện treo lơ lửng dưới sợi tơ màu trắng bạc trước cửa sổ, đung đưa mỗi khi có làn gió nhẹ. Sáng báo tin vui, chiều báo phát tài; người đàn bà xinh đẹp, sắc mặt nhợt nhạt ấy đã nói như vậy về nhện sa trước mặt. Mình thì có gì vui? Mình chẳng có gì vui cả! Những thiên thể có hình dáng vú và mông lọt qua trong đầu, ông giơ ngón tay khều dử mắt, nghe tiếng bánh xe lọc cọc ngoài đường, tiếng hạc kêu từ đầm lầy vọng tới, và cả tiếng be be ai oán của con dê sữa. Những con chim sẻ mổ bồm bộp trên giấy dán cửa sổ. Chim khách kêu lảnh lót trên cây bạch dương ngoài sân. Bỗng mục sư tỉnh như sáo. Người phụ nữ với cái bụng to kinh khủng bỗng hiện ra dưới làn ánh sáng, cặp môi khô nẻ mấp máy, hình như đang lẩm bẩm câu gì đó. Cô ta mang thai đã mươi hai tháng, chắc chắn hôm nay sinh nở. Mục sư Malôa chợt hiểu ra ý nghĩa của nhện sa và tiếng kêu của con chim khách. Ông bật dậy, bước xuống giường.
Mục sư Malôa xách chiếc bình gốm màu đen, đi men theo con đường lớn phía sau nhà thờ. Thoạt nhìn, ông đã nhận ra bà Lã, vợ ông thợ rèn Thượng Quan Phúc Lộc, đang dùng chổi vun đất bột trên đường. Tim ông mục sư đập thình thịch, miệng lẩm bẩm:
- Ôi Thượng đế! Người là tất cả!
Ông giơ ngón tay ngượng nghịu làm dấu chữ thập rồi chậm rãi nép vào một góc trong, lặng lẽ quan sát người đàn bà cao lớn và béo đẫy. Bà ta vun đất bột thấm đẫm sương đêm, cẩn thận loại bỏ rác rưởi lẫn trong đó. Người đàn bà đồ sộ này cử chỉ vụng về nhưng sinh lực thì có thừa. Chiếc chổi bện bằng thân lúa mạch vàng óng trong tay bà chỉ như một đồ chơi. Bà bốc đất mịn cho vào sọt, dùng tay nén chặt rồi bê sọt đất đứng lên.
Bà Lã bê sọt đất về đến đầu ngõ thì nghe có tiếng ồn ào phía sau. Ngoảnh lại, bà thấy cánh cổng nhà giàu nhất của thị trấn - nhà Phúc Sinh Đường - mở toang, một đám dàn bà ùa ra. Họ cố ý ăn mặc lôi thôi lếch thếch, mặt bôi đầy nhọ nồi. Ngày thường, phụ nữ nhà Phúc Sinh Đường quần là áo lượt, sao hôm nay lại cải trang như vậy? Từ mảnh sân đối diện, lão xà ích có biệt hiệu là Chim Sẻ Rừng đánh ra một cỗ xe lớn mới tinh, bánh hơi, rèm màu xanh. Xe chưa dùng hẳn, đám phụ nữ đã tranh nhau trèo lên. Lão đánh xe ngồi xổm trước con sư tử đá bị sương đêm làm ướt đẫm, lặng lẽ hút thuốc. Ông chủ Phúc Sinh Đường Tư Mã Đình từ sau cổng vọt ra, tay cầm súng hỏa mai, động tác mạnh và nhẹ nhàng như thanh niên. Lão xà ích vội vã đứng lên nhìn ông chủ. Tư Mã Đình giật chiếc tẩu từ miệng lão xà ích, rít mấy hơi rõ kêu, rồi ngẩng nhìn bầu trời rạng đông đang ửng lên màu phấn hồng, bảo lão xà ích:
- Sẻ Rừng, cho xe đến đầu cầu sông Mực rồi đợi ở đấy ta sẽ đến ngay!
Lão xà ích tay cầm cương, vung roi cho ngựa quay đầu xe. Đám phụ nữ chen chúc trên xe la chí chóe. Lão xà ích vung roi đánh bốp, ngựa bắt đầu chạy nước kiệu. Nhạc ngựa kêu loong chong, một vệt bụi dài cuốn theo xe.
Tư Mã Đình đái một bãi ngay trên mặt đường cái, gừ gừ trong họng nhìn theo chiếc xe ngựa, rồi ôm súng trèo lên đài quan sát. Đài cao ba trượng, dựng bởi chín mươi chín cây gỗ tròn. Đỉnh đài là một mặt bằng nhỏ, cắm ngọn cờ hồng. Sáng sớm trời không gió, ngọn cờ ướt đẫm sương, ủ rũ. Bà Lã nhìn thấy Tư Mã Đình đứng trên đình tháp ngóng về phía tây bắc, cổ vươn dài ra, môi dẩu, y hệt con ngỗng đang uống nước. Một đám sương là là mặt tháp, nuốt chửng Tư Mã Đình rồi lại nhả ra. Rạng đông nhuốm đỏ khuôn mặt hắn. Bà Lã trông thấy khuôn mặt Tư Mã Đình như bị phủ lên một lớp hồ loãng, nhớp nháp và sáng lấp lóa. Hắn giơ khẩu súng bằng hai tay, mặt đỏ như mào gà chọi. Một tiếng động nhỏ vang lên, đó là tiếng lẫy cò đập vào hạt nổ. Hắn đợi với vẻ trang nghiêm. Bà Lã cũng đợi, đợi rất lâu, mặc cho sọt đất trên tay nặng trĩu hai tay tê dại, cổ mỏi nhừ. Tư Mã Đình hạ súng xuống, môi trề ra, y hệt một đứa trẻ đang giận dỗi. Bà Lã nghe thấy hắn chửi câu gì. Hắn chửi khẩu súng:
- Đồ ôn dịch, mày dám không nổ!
Hắn lại giơ súng lên, lẩy cò, một tiếng đập nhẹ, một vệt lửa phụt ra đầu nòng át cả màu đỏ của bình minh, sáng trắng khuôn mặt hắn. Một tiếng nổ đanh xé toạc thôn xóm đang yên tĩnh, lửa đỏ rục phụt lên trời, tạo thành các nàng tiên đứng trên mây, những cánh hoa sặc sỡ bay lả tả. Bà Lã thấy lòng rạo rực. Bà là vợ ông thợ rèn nhưng tay nghề thì bà giỏi hơn chồng một bậc, chỉ cần trông thấy sắt và lửa là máu dồn lên mặt, sôi lên trong huyết quản, cơ bắp nổi lên từng búi, chẳng khác chiếc roi tết bằng gân bò. Thép đen đập trên sắt đỏ, hoa lửa bắn ra tứ phía, mồ hôi ướt đẫm lưng, chảy thành dòng giũa hai vú, mùi tanh tanh của sắt rèn len lỏi khắp chỗ.
Bà Lã trông thấy Tư Mã Đình nhảy dựng lên một cái trên đỉnh tháp. Không khí ẩm ướt ban mai quyện đầy khói và mùi thuốc súng. Tư Mã Đình thét to, báo động cho cả vùng đông bắc Cao Mật: