Kim Đồng chôn mẹ qua loa ở một vạt cỏ bên cạnh đầm lầy. Anh quì xuống lạy tạ mấy người hàng xóm, cảm ơn họ giúp đỡ trong việc chôn cất. Bác Trương Vẹo Cổ cầm tay kéo anh đứng lên, bảo:
- Miễn lễ, miễn lễ!
Các anh Vương Cán và Lý Đại Quan cũng vòng tay đáp lễ, nói:
- Thôi, thôi!
Họ nhìn anh thương hại, nấn ná chưa về. Kim Đồng sực nhớ ra, vội móc túi lấy mấy chục đồng đưa cho bác Trương, nói:
- Bây giờ phải như vậy mới hợp lẽ, mong bác nhận cho!
Bác Trương nói:
- Chỗ bà con lối xóm, tắt lửa tối đèn có nhau, chuyện ma chay có ai làm một mình mà được đâu?
Ngô Pháp Nhân khịt khịt mũi, nói:
- Từ nay trở đi, nhà ai có người chết thì tự đem đi mà chôn!
Anh ta nhìn về khu vục thành phố Đại Lan cát bụi mù trời, bành trướng như điên cuồng, nói:
- Trong khoảng mườii năm nữa, chẳng ai ngó ngàng đến ai đâu!
Kim Đồng móc bao thuốc lá bóc ra mời từng người. Cánh bác Trương tỏ vẻ khách khí từng người nhón lấy một điếu rồi chụm đầu châm lửa, nhả khói, nhặt nhạnh dụng cụ để chuẩn bị ra về. Bác Trương Vẹo Cổ nói:
- Cháu Kim Đồng này, bà thím qui tiên ở tuổi chín lăm là thọ lắm rồi? Người chết như ngọn đèn tắt, khí hóa gió, thịt hóa đất, dù có là vua cũng không thể khác! Cháu đừng buồn rầu quá!
Kim Đồng gật đầu xin vâng. Bác Trương lại hỏi:
- Cháu cùng về với mọi người chứ?
Kim Đồng nói:
- Bác và các anh cứ về trước, cháu xin ở lại một lát với mẹ cháu!
Mấy người kia thở dài, nhặt nhạnh cuốc xẻng, đòn khiêng ra về. Đi được khoảng chục bước, bác Trương ngoái lại khuyên:
- Phải nghĩ cho thoáng, cháu ạ, để bà thím về cõi Phật cho thanh thản?
Kim Đồng nước mắt lưng tròng, nhìn mãi khuôn mặt chất phác của bác Trương, gật đầu liền mấy cái. Nhân dân đi qua bàn tán về những nhà kính trồng rau, nguyền rủa bọn cán bộ thối nát và những khoản thu tàn bạo, cười nhạo những luống đất trên tầng 9, than vãn về những hành vi quái đản của lớp trẻ... Tiếng ồn ào xa dần, họ đã bỏ đi. Từ xa dội đến tiếng thình thịch nặng nề. Đó là tiếng đóng cọc của đội cầu sông Thuồng Luồng. Kim Đồng nhìn quanh, cảm thấy trong lòng trống rỗng, không biết đi đâu về đâu! Anh thấy thành phố Đại Lan giở nanh múa vuốt, phát triển với tốc độ của ung thư ác tính. Những ngôi nhà cao tầng ngỗ ngược, điên cuồng nuốt chửng thôn xóm và đất trồng trọt. Ngôi nhà tranh mẹ ký ngụ đã mấy chục năm, cũng do kinh hoảng mà tự đổ sụp. Ngọn tháp bảy tầng đã chao nghiêng. Mặt trời lên, tiếng ồn từ thành phố lan tới như làn sóng. Hơi nước mù mịt trên đầm, cánh rừng hòe phía tây, chim chóc đã bắt đầu ríu rít, hoa hòe tỏa mùi thơm ngào ngạt. Anh thẫn thờ đi dạo quanh ngôi mộ mới đắp của mẹ sặc mùi đất bùn, rồi quì xuống, kính cẩn dập đầu lạy mẹ lần nữa, nhủ thầm:
- Mẹ ơi, con là đồ vô tích sự, chỉ làm khổ mẹ! Giờ đây mẹ mất rồi, thành Phật thành Tiên rồi, lên hồng phúc trên thiên đàng rồi, không bị con làm phiền nữa! Con cũng già rồi, cuộc đời con cũng sắp đi tong rồi. Con sẽ dâng hiến cái thân tàn này cho Thượng đế. Người anh em cùng cha khác mẹ với con đã thu xếp cho con một công việc trong nhà thờ. Anh ấy sẽ giao cho con nhiệm vụ gác cổng và làm vệ sinh, định kỳ mở nắp hố xí lộ thiên chuyển những thứ ô uế ra cánh đồng rau. Mẹ, đó là nơi trở về tốt nhất của con, có lẽ nó cũng phù hợp với ước nguyện của mẹ?...
Chìm đắm trong suy tưởng, anh như nghe thấy tiếng tụng kinh của các con chiên văng vẳng bên tai:
- Chúa ơi, Chúa của chúng con ở trên trời, chúng con tắm trong ánh hào quang của Chúa! Máu của Chúa tưới cho hoa hồng và hoa tường vi, hãy cho chúng con được ngửi mùi thơm thiêng liêng đó, chúng con được rửa tội, chúng con được yên ổn trong lòng. A men! A men!
Anh áp khuôn mặt nóng bừng vì cảm động lên nấm mồ ẩm ướt, anh ngửi thấy mùi máu và mùi mồ hôi, cảm thấy làn gió mát mẻ thổi qua đầu. Trong cơn thảng thốt, anh thấy mẹ ngồi bên cạnh anh, làn gió sớm mai chính là bàn tay mẹ vừa rửa bằng nước lạnh. Anh cảm thấy không phải mẹ đang nằm trong huyệt mà chính là anh đang nằm, mẹ rắc từng nắm đất lên mặt anh, trong đất có mồ hôi và nước mắt của mẹ. Cảm thấy quá sung sướng, anh ôm mặt khóc hu hu.
- Này, này, đứng dậy đi!
Có tiếng quát nạt phía sau, anh cảm thấy gót chân bị ai đá mấy cái, tiếp theo là mông đít bị một đạp. Hốt hoảng chồm dậy, anh thấy cái khớp xương bị bệnh tê thấp kêu răng rắc, ngực buốt như kim châm. Mặt trời đã lên cao, ánh nắng chan hòa, một bóng xám đen to lớn đang đi động trước mặt anh. Người ấy vênh mặt, dằn giọng hỏi:
- Ai cho anh chôn người ở đây?
Kim Đồng lập tức cảm thấy người nóng ran, chân tay quýnh lên, mồ hôi toát cùng mình, đồng thời, dòng nước tiểu âm ấm cũng vãi ra quần. Anh biết mình vẫn có khả năng nhịn đái, nhưng cứ để mặc cho nó tuôn ra, làm như vãi đái ra quần thì ông người nhà nước này sẽ thương hại anh mà bỏ qua.
Ông.người nhà nước này không thông cảm cho anh, ánh mắt ông đầy vẻ khinh người, kênh kiệu. Phù hiệu trên mũ trên ngực áo ông sáng lóa, trông mà phát khiếp! Không khách khí gì hết, ông ra lệnh:
- Đào tử thi lên lập tức đưa đi hỏa táng!
Kim Đồng nói:
- Thưa lãnh đạo, chỗ đất này là đất hoang, mong ông giơ cao đánh sẽ cho!... Ông người nhà nước nhảy dựng lên như bị chó cắn, nghiêm giọng quát:
- Anh nói lại tôi xem nào? Đất hoang? Ai bảo anh đây là đất hoang? Dù là đất hoang thì vẫn là mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc, ai cho phép anh bậy bạ như thế!
Kim Đồng sụt sịt khóc:
- Lãnh đạo làm ơn, mẹ tôi đã hơn chín mươi tuổi, nhập thổ đâu có dễ, xin đừng hành hạ bà cụ...
Ông người nhà nước nổi giận, nói dứt khoát:
- Đừng nhiều lời, đào lên đi!
Kim Đồng nói:
- Tôi san bằng đi không được sao? San bằng thì không chiếm mặt đất của nhà nước!
Ông người nhà nước tỏ vẻ ngán ngẩm:
- Anh làm sao thế! Anh giả vờ hay lẩm cẩm thật rồi? Hỏa táng người chết là pháp qui!
Kim Đồng quì xuống, nước mắt, nước mũi dàn dụa, van xin:
- Lãnh đạo ơi Chính phủ ơi, xin mở lượng làm phúc, trời tháng sáu nóng nực này mà lại đào lên thì thối rữa ra mất, mẹ tôi chịu sao nổi hở trời?
Ông người nhà nước giận dữ quát:
- Kêu cũng chẳng ích gì, gào cũng chẳng ích gì, chuyện này tôi cũng không quyết định được!
Kim Đồng Chợt có linh cảm, móc túi lấy ra mấy chục đồng nhân dân tệ lúc nãy, dùng cả hai tay đưa cho ông người nhà nước, vừa khóc vừa van xin:
- Lãnh đạo nhận cho chén rượu nhạt, tôi sống độc thân, lại nghèo rớt mồng tơi, tìm người giúp một tay trong chuyện này không dễ dàng chút nào? Trong người chỉ còn mấy đồng tiền còm này thì phí hỏa táng cũng không đủ, có đem đến đó thì chỉ tốn điện nhà nước, ô nhiễm môi trường của Chính phủ, xin ông rủ lòng thương ẹ tôi được ở lại đây... Xin Chính phủ rủ lòng thương?
Ông người nhà nước liếc nhìn mấy tờ giấy bạc nhăn nhúm bẩn thỉu, nổi giận quát:
- Anh định làm gì thế! Anh có biết anh đang làm gì không? Anh đang hối lộ đấy, đang hủ hóa cán bộ nhà nước đây, là phạm tội đấy? Anh định dùng mấy đồng tiền còm này để ta vứt bỏ nguyên tắc hả? Đừng có mà nằm mơ! - Ông người nhà nước dậm chân, nói giọng pháp luật - Trước lúc trời tối phải lôi cái xác lên, nếu không đừng có trách?
Ông người nhà nước hiên ngang bỏ đi. Ông đến, như trên trời rơi xuống. Ông đi như đất nẻ, mất tăm. Kim Đồng bị đổ gục trước khó khăn vượt quá sức anh, hai tay ôm đầu, anh khe khẽ cất tiếng khóc. Chính phủ ơi, chính phủ - ngươi dân ở đây quen gọi các quan chức nhà nước và tất cả những người ăn lương nhà nước là Chính phủ - Vậy là ông Chính phủ gây khó dễ cho tôi rồi! Ngay dù tôi có hỏa thiêu mẹ tôi, thì tôi cũng cần một chỗ đất để chôn tro thi hài chứ? Chỗ này xa thành phố, không phải đất trồng trọt, chôn người ở đây thì chỉ vài năm là biến thành bùn đất. Ông bắt tôi đào lên. Đào lên rồi tôi xoay xở thế nào? Tôi chỉ có một mình, cõng không nổi, kéo thì không có xe, hỏa thiêu thì không đủ tiền trả lệ phí, càng không có tiền mua hộp đựng tro. Để nhờ được mấy ông trong làng, tôi phải chạy rạc cảng! Chính phủ ơi! Ông há không biết rằng thời buổi bây giờ khác trước, bây giờ không có tiền người ta không làm, không còn nghĩa khí như ngày xưa. Tuy bác Trương không lấy tiền của tôi những người giúp chôn cất không lấy tiền của tôi, nhưng đào lên thì phải trả tiền họ mới dào, ngay dù người ta không lấy tiền, thì cái nợ nhân tình này tôi biết lấy gì để trả? Chính phủ ơi, Chính phủ kính mến ơi, xin ông nghĩ lại cho tôi...
Anh vừa khóc vừa kể lể, làm như ông người nhà nước đang đứng trước mặt.
Một chiếc xe măng ca Nhật màu kim nhũ từ con đường nhỏ chạy tới, kéo theo cát bụi mù mịt. Kim Đồng hoảng sợ, tưởng người ta đến bắt anh. Thoạt đầu, anh gần như chết khiếp, nhưng cùng với chiếc xe tiến lại gần, trong lòng anh lại cảm thấy thanh thản. Mình đã tám năm lao động cải tạo ở nông trường, bây giờ ngồi tù tám năm nữa thì có gì đáng ngại. ở tù, công việc do người cắt đặt, cơm nước có người nấu nướng, chỉ cần nai lưng ra mà làm là yên thân, đối với Kim Đồng thì ở tu là thiên đàng. Điều quan trọng là, bắt mình đi rồi thì họ có bỏ ra một vạn nhân dân tệ cũng không thuê được người đào xác mẹ mình lên. Và như vậy, mẹ không bị hành hạ nữa, mẹ có một mảnh đất ở Cao Mật, coi như được yên nghỉ. Mình báo hại mẹ cả một đời, giờ đây đổi lấy bằng an ẹ bằng sự mất tự do của mình là dáng giá, là một lần báo hiếu của đứa con bất hiếu này, là sự vươn lên của đồ bị thịt là mình. Nghĩ đến đây, anh sung sướng đến lịm người, anh gạt nước mắt đứng lên, những nếp nhăn trên mặt giãn ra, hai vai thoải mái như cất được gánh nặng. Anh duỗi hai tay ra phía trước như chờ đợi người ta còng tay anh lại. Nhưng rất đáng tiếc là chiếc xe măng ca lắc lư chạy qua trước mặt anh, kính xe tráng thủy ngân sáng lóa mắt, không thể nhìn rõ trong xe có những gì. Đến chỗ cách mộ mới khoảng trăm thước, chiếc xe dùng lại. Cửa xe mở, ba người xuống xe, hai người đàn ông thì một to béo, mặc quần áo săn màu xanh pha trắng; một mảnh khảnh, tay cầm khẩu súng săn hai nòng, cổ tay đeo một bao da nhỏ, bên trong là mobil phone.
Kim Đồng trong thời kỳ Trung tâm nuôi chim Phương Đông làm ăn phát đạt, anh cũng từng đeo của này ở cổ tay, vì vậy anh biết nó. Đi giữa hai người đàn ông là một phụ nữ mặc váy màu đỏ, vì xa nên trông không rõ mặt mũi, nhưng qua sắc da mịn màng màu sứ, có thể đoán người đàn bà này đẹp.
Ba người đi thành hàng dọc theo con đường nhỏ ven đầm, chậm rãi đi lại về phía Kim Đồng. Người đàn bà ríu rít kể chuyện gì đó, thỉnh thoảng lại bật cười khanh khách. Người đàn ông to lớn đôi lúc lại ho một tiếng, tiếng ho khỏe nghe như tiếng sắt tiếng đồng. Người đàn ông mảnh khảnh đi sau cùng, thái dộ cung kính, thoạt nhìn đã biết ngay là thư ký. Đột nhiên, người cao to quài tay về phía sau, viên thư ký nhanh nhẹn dưa khẩu súng cho ông ta. Người cao to dón lấy khẩu súng, không ngắm, nâng lên ngang tầm là lẩy có, bắn liền hai phát, tiếng nổ sắc nhọn, ù cả tai. Nhìn ra phía đầm, đàn thiên nga đang khó nhọc cất cánh. Hai con trúng đạn, một con nổi trên mặt nước, đã chết, còn một con đang đập cánh lia lịa trong bụi cỏ nước, cổ đầy máu lắc lư như rắn hổ mang. Người đàn bà mặc váy đỏ vỗ tay hoan hô:
- Trúng rồi, trúng rồi! Ôi anh phó thị trưởng Mã, anh quả là nhà thiện xạ!
Nhìn cặp vú tung tẩy của chị ta, Kim Đồng biết rằng chị ta ăn mặc trẻ trung thế thôi, thực ra không còn trẻ nữa. Động tác nhảy cẫng chẳng qua là bắt chước nữ sinh trung học một cách vụng về và điều đó khiến Kim Đồng ngán ngẩm. Còn anh chàng đàn ông cũng là loại bất trị, sắp chết đến nơi mà vẫn đi tìm thú tiêu khiển. Người đàn bà váy đỏ như cố ý trêu tức Kim Đồng. Chị ta giơ hai cánh tay trắng nõn ôm lấy cổ người đàn ông rồi dướn người lên dẩu mỏ hôn đánh chụt một cái. Anh thư ký cởi giày da, xắn quần lội ra nhặt hai con thiên nga. Khi nhặt con thiên nga chưa chết hẳn, anh thư ký suýt nữa bị sa lầy chỗ bùn sâu lút đầu, khiến phó thị trưởng Mã sợ quá gọi to:
- Cẩn thận, Tiểu Hà!
Anh thư ký đặt cả hai con thiên nga lên đám cỏ xanh. Người đàn bà váy đỏ cúi xuống lấy ngón tay gãi gãi lông con thiên nga, đột nhiên kinh ngạc kêu lên:
- Ôi, thiên nga có rận này!
Những người đi săn tiếp tục tiến lên, đi qua trước mặt Kim Đồng. Phó thị trưởng Mã và anh thư ký mải tìm kiếm con mồi trong đầm, hoàn toàn không để ý nấm mồ mới đắp, ngược lại, người đàn bà váy đỏ mấy bận đưa mắt nhìn Kim Đồng. Trong mùi nước hoa đắt tiền sục nức trên người đàn bà, Kim Đồng phân biệt được ngay mùi chồn hôi quyện lẫn. Người đàn bà này có một hình thể tuyệt đẹp, chân dài, cổ cao ba ngấn nhưng vú đã chảy dù đã dùng hàng của Thú Một Sừng, nhưng giả thì chung qui vẫn là giả không che mắt được những người sành sỏi. Trong một thoáng khi khoát tay, Kim Đồng còn phát hiện ra chùm lông nách màu lửa của chị ta, và cái mùi hôi như chồn toát ra từ đó. Họ đã đi qua. Kim Đồng hiểu rằng, họ đến không phải vì chuyện của anh, tuy vẫn còn đôi chút băn khoăn, nhưng đã nửa mừng nửa lo. Những người đi săn và hai con thiên nga khiến anh nhớ tới Hàn Chim. Anh ta đúng là một quái nhân trong chuyện hiểu ngôn ngữ của loài chim, nếu không anh ta làm sao sống nổi mười lăm năm trong thâm sơn cùng cốc? Chắc chắn anh ta trò chuyện, giao lưu tư tưởng với các loài chim, kể lể với chúng về nỗi nhớ quê da diết. Có thể rất nhiều con chim vượt trùng dương sang Cao Mật báo tin, có điều, ta không hiểu tiếng nói của chúng đấy thôi. Đoàng, đoành? Lại hai tiếng súng nữa, lại một con vịt trời bị bắn chết. Con chim đáng thương bay khỏi mặt nước mấy thước mới trúng đạn, nó rơi thẳng xuống như một cục gạch. Anh thư ký tay xách đôi giày da, tay xắn quần định xuống vớt con vịt, nhưng ông Mã ngăn lại:
- Chú Hà, bỏ, con này nhỏ!
Người đàn bà váy đỏ õng ẹo:
- ứ ừ, em thích những lông xanh biếc trên người nó cơ!
Tiểu Hà nói:
- Không sao, để em xuống nhặt!
Anh ta hăng hái lội ào xuống, bước trong bùn oàm oạp, bước đi khó khăn vì bùn đã lút đầu gối. Khi gần đến chỗ con vịt thì rõ ràng là bùn đã sâu, lút ngang đùi. Ông Mã gọi to:
- Chú Hà, quay lại!
Nhưng đã muộn, mặt bùn sủi bong bóng có mùi lưu huỳnh, không phải cơ thể Tiểu Hà lún xuống mà như bùn dềnh lên. Tiểu Hà ngoảnh lại kêu lên điều gì đó mà Kim Đồng nghe không rõ, nhưng khuôn mặt trắng bệch của chàng thanh niên đã ăn sâu trong tâm trí anh.
Trời chạng vạng tối, đám người cấp cứu anh thư ký bất lực ra về, chỉ còn lại một bà già ngồi phệt bên đầm mà gào khóc đến khản giọng. Những dấu chân người dày đặc. Không khí buổi chiều hôm có mùi hơi người, mùi xe cộ và mùi đầm lầy trộn lẫn. Mấy chiến sĩ dò dẫm hết cách cũng không dò thấy đáy. Anh thư ký đã biến thành con luơn, không biết chui vào chỗ nào.
Cả ngày hôm ấy Kim Đồng ngồi bên mộ mẹ, không ai chuyện trò với anh, càng không có ai hỏi người dưới mộ là ai. Cái chết của anh thư ký đã gợi cho anh một ý nghĩ: Nếu ông nhà nước lại đến bắt anh phải khai quật mộ lên thì anh sẽ đào, sẽ khai quật, rồi cõng mẹ trên lưng, chỉ vài chục bước chân là anh sẽ chìm nghỉm trong bùn lầy. Anh nhất quyết không rời mẹ ra để càng nặng hơn, chìm nhanh hơn.
Bóng đêm sẫm dần, chim chóc trú trong bụi cỏ chuẩn bị qua đêm. Thi thoảng có vài con chim hoảng sợ bay vọt lên như bị rắn đớp. Chuyến tầu chạy về hướng tây ầm ầm lao qua. Những bông hoa độc màu đỏ tía bắt đầu nở giữa đầm, nơi con người không thể lội ra. Từng đợt gió đêm đưa lại mùi của đầm lầy. Lúc này mà ông người nhà nước không trở lại thì có nghĩa là ông ta không đến nữa. Ông đến thì tôi cũng không sợ, anh nghĩ. Chàng thanh niên hoạt bát là thế, triển vọng là thế mà chỉ trong ít phút ngay cả thi thể cũng không tìm thấy. Vậy thì với cái tuổi gần kề miệng lỗ như anh có gì đáng sợ? Sau khi rũ bỏ hoàn toàn gánh nặng tinh thần, anh thấy bụng đau quặn, biết là mình đói. Kể từ lúc mẹ nằm xuống, anh ăn uống chẳng ra làm sao. Anh lờ mờ cảm thấy phải vào phố kiếm chút gì ăn. ở đó, những nam nữ thanh niên áo quần lòe loẹt rất thích lãng phí thức ăn. Nhặt lấy mà ăn, một là trong sạch môi trường, hai là không chết đói, ba là đỡ lãng phí. Người ta muốn sống thực ra cũng không khó. Anh định đi, nhưng hai chân không cất nổi. Anh trông thấy phía sau mộ mẹ, nơi không bị dẫm nát, có rất nhiều hoa đang nở, những bông hoa màu nhợt nhạt, chỉ một bông giữa là màu đỏ nhờ nhờ. Loại hoa này có mùi thơm. Anh bò lên mấy bước, giơ tay ngắt lấy bông hoa rồi đưa vào miệng. Cánh hoa rất giòn, như thịt tôm sống, nhưng khi nhai thì xộc lên mũi toàn mùi máu. Vì sao hoa có mùi máu? Vì trên mảnh đất này thấm đẫm máu người.
Đêm hôm ấy, một đêm trời đầy sao, Kim Đồng nằm ngửa bên mộ mẹ, miệng ngậm những cánh hoa, anh nhớ lại bao nhiêu chuyện cũ, đều là những mẩu lấp lánh. Sau đó, dòng hồi ức gián đoạn, lướt qua trước mặt anh là những bầu vú. Trong đời anh đã trông thấy đủ các loại vú, dài có, tròn có, nhọn có, dẹt có, đen có, trắng có, thô có, mịn có. Những bảo bối ấy, nhưng tinh linh ấy trình diễn trước mắt anh kỹ xảo phi hành đặc biệt và những diệu múa kỳ ảo. Chúng giống chim, giống hoa, giống những tia chớp hình cầu, đẹp tuyệt. Báu vật trên trời là mặt trời mặt trăng và những vì sao. Báu vật của đời là vú to mông nẩy? Anh từ bỏ ý nghĩ tóm được chúng, dứt khoát không tóm nổi thì phí sức làm gì? Anh chỉ cần sung sướng ngăm nhìn chúng. Sau đó, trên đầu anh, những bầu vú bay dọc bay ngang ấy tụ lại thành một bầu vú khổng lồ, lớn dần ra, cao dần lên thành quả núi cao, cao nhất giữa trời và đất, núm vú phủ tuyết trắng, mặt trời mặt trăng xoay quanh như hai con bọ dừa màu nhũ bạc.