Mạnh Tử hỏi Lương Huệ Vương: “Vui vẻ một mình với vui vẻ cùng người, cái nào vui hơn?”
Vương rằng: “Vui một mình không bằng vui cùng người.”
Mạnh Tử hỏi: “Cùng ít người vui vẻ với cùng nhiều người vui vẻ, cái nào vui hơn?”
Vương rằng: “Ít người không bằng nhiều người.”
Tuyên đế nghỉ thượng triều ba ngày, bốn vị hậu phi liền ngủ lại Duyên Phúc Cung, tỉ mỉ ra vào, không quản khó nhọc mà giảng giải đạo lý này cho Tuyên đế. Tuyên đế bị tấm lòng chân thành của bọn họ làm cho cảm động, đúng sai gì cũng ôm hết vào người, không chọn ba lấy bốn, còn về phần người sướng hay ta sướng, kết cục của việc cùng hậu phi hoan ái, chính là cuối cùng năm người đạt được cuộc sống mới vô cùng ‘hài hòa’.
Vì sợ ảnh hưởng tiểu hoàng tôn đọc sách, Chu hoàng hậu liền làm chủ cho phép hoàng tôn cũng nghỉ ngơi, gọi người mang nó rời xa khỏi tầm mắt Tuyên đế. Tuyên đế nguyên bản còn tưởng được ngậm kẹo đùa cháu, nhưng vì bản thân lại đi lâm hạnh thái phó của hoàng tôn, sợ hoàng tôn chẳng những không học được tôn sư trọng đạo, ngược lại còn bị ảnh hưởng không tốt, đành phải nhịn đau đáp ứng đem tôn nhi đưa về cung.
Đã nhiều ngày hoang đường ở trong Duyên Phúc Cung, hắn ngay cả giường cũng cơ hồ không bước xuống, thức ăn đều do mấy vị hậu phi không tu phụ đức kia đưa vào trong miệng. Tuy rằng bốn người kia đem hắn chiếu cố thật cẩn thận tỉ mỉ, thậm chí cả lời cũng không cần nói, một ánh mắt là có thể lý giải ý tứ của hắn. Nhưng giữa lý giải và làm được còn kém một khoảng cách cực kì xa ― tỷ như nói: Tuyên đế hy vọng mọi người hoà bình ở chung, không cần ở trên giường động thủ, càng không cần dùng thân mình hắn làm tiền đặt cược, nhưng không ai chịu làm theo ý hắn.
Gia môn bất hạnh, vì có hãn…… phi!
Đêm trước ngày thượng triều, Tuyên đế cuối cùng cũng được chút nghỉ ngơi nhàn rỗi, lại vì mấy ngày nay hoang dâm quá độ, nhất thời thanh tĩnh xuống ngược lại khiến hắn ngủ không được, liền dựa vào đầu giường chậm rãi suy nghĩ nên xử trí như thế nào bốn vị hậu phi chẳng phân biệt tôn ti trên dưới, đối với hoàng đế hắn đây không hề biết kính sợ.
Ngày mai sau khi thượng triều, liền hạ chỉ khiển trách cả bốn người bọn họ, sau đó cấm đoán bọn họ ở trong cung điện riêng của mỗi người! Còn phải tước phong hào của bọn họ…… Không đúng, còn chưa có ban phong hào, vậy đoạt quyền lực quản lý cung vụ của Chu Huyên và Thuần Vu Gia! Phế hậu thì liên lụy quá lớn, Chu Huyên cũng chỉ có thể bế môn ở trong cung, tất cả chi tiêu đều ấn theo phân lệ của Hoán Y Cục*, ba cái phi tử trực tiếp biếm làm cung nhân Hoán Y Cục, để bọn họ ở trong cung cảnh tỉnh cho tốt!
[*phòng giặt đồ, ai hay coi phim cổ trang thì biết, bao nhiêu quần áo trong cung đều dồn về đây, ngày ngày chà chà chà…… hahaha!]
Tuyên đế càng nghĩ càng cảm thấy thống khoái, đáy lòng liên tục phác hoạ hình ảnh mấy tên hậu phi kia bị dạy dỗ đến thành thật nghe lời, bộ dáng tiểu tức phụ mà lấy lòng hắn. Thẳng đến hừng đông, hắn lại bỗng nhiên nghĩ đến một chuyện quan trọng ― ba ngày nay hắn đều mang theo hậu phi sinh hoạt tại li cung, vừa trở về triều liền hạ chỉ khiển trách bốn người kia, bộ dáng giống như bị người ta lăn qua lăn lại quá độ, các đại thần trong triều sẽ không nhìn ra hắn mới là người bị đè ở dưới đi?
Vạn nhất bị người nhìn ra được, hoàng đế hắn đây còn cái gì là uy nghiêm, còn cái gì là thể diện, làm sao đối mặt với triều đình quan viên cùng thiên hạ bá tánh? Thôi, áo trong đã không có, ít nhất phải giữ cho được mặt mũi……
Hắn đem thuật khống chế hậu cung ở kiếp trước nghĩ rồi lại nghĩ, phát hiện ra kiếp trước hậu cung không cần hắn lo lắng, những nữ tử đó đều là trời sinh rộng lượng hiền lương. Ngay lúc Tuyên đế cơ hồ muốn tuyệt vọng, hắn bỗng nhiên nhớ tới một chuyện ― những nữ tử đó sau khi vào cung, liền được dạy dỗ cung quy cung lễ, mà đám người Chu Huyên lại đều là nam tử, nên hắn hoàn toàn đã quên mất điểm này.
Chính bởi vì có nữ quan dạy dỗ, kiếp trước những ái phi đó mới người người tuân theo khuôn phép, ôn nhu hiền thục? Nếu để cung nhân điều giáo bọn Chu Huyên học lễ nghi…… Trong đầu Tuyên đế bỗng nhiên toát ra hình ảnh bốn người kia đập phá Thượng Cung Cục, hầm hầm mà chạy tới chất vấn hắn vì sao bắt mình học quy củ nữ nhân…… trên đầu Tuyên đế toát ra một tầng mồ hôi lạnh, không dám nghĩ tiếp.
Bốn vị hậu phi cũng thật có bản lĩnh, nhưng bản lĩnh quá mức, chịu khổ lại là hoàng đế hắn đây.
Bên ngoài đã gõ trống canh bốn, Tuyên đế vẫn cảm thấy mệt mỏi vô cùng, trên người nơi chốn đều nhức mỏi, hận không thể nghỉ thêm mấy ngày không vào triều. Nhưng lấy kinh nghiệm tự mình trải qua nhiều ngày nay, nếu thật sự tiếp tục nghỉ ngơi, sẽ lại biến thành nghỉ ngơi không được. Hắn quyết tâm, từ trên giường ngồi dậy, vừa chậm rãi mặc quần áo, vừa quyết định chủ ý: Cho dù có bị người biết chuyện khiến hắn mất mặt cũng đành vậy, vẫn nên hướng đại thần có kinh nghiệm hỏi thăm, dù gì bọn họ cũng không dám đem chuyện tư mật nội cung nói ra ngoài.
Hạ triều ngày hôm sau, Tuyên đế liền triệu Hà thừa tướng vào Văn Đức Điện. Lão thừa tướng không chỉ đức cao vọng trọng, ở trong triều địa vị tôn kính, càng quan trọng hơn là lão cưới Hạ quốc trưởng công chúa, cũng coi như là cô tổ phụ của Tuyên đế. Loại sự tình này liên quan đến hoàng gia tư mật, tìm thần tử tự nhiên có nhiều bất tiện, nhưng tìm trưởng bối nhà mình, hẳn là có thể có được chút chủ ý tốt đi?
Đem Hà thừa tướng triệu vào trong điện, Tuyên đế khuôn mặt âm trầm suy xét nên mở miệng như thế nào. Hà thừa tướng ngồi nửa ngày, thấy Tuyên đế sắc mặt càng nhìn càng khó xem, không khỏi âm thầm hồi tưởng, gần nhất tỉnh nào có tai hoạ hay là trong triều lại lòi ra tham quan ― dù sao bản thân lão thanh chính liêm minh, xử sự công bằng, Tuyên đế không có khả năng đối với lão có cái gì bất mãn.
Đợi cho chén trà trong tay lão Hà thừa tướng lạnh ngắt, Tuyên đế vẫn không nói ra ý tứ của mình. Hà thừa tướng rốt cuộc chờ không nổi nữa, đứng dậy chắp tay hỏi: “Thánh thượng triệu lão thần tới đến tột cùng là vì chuyện gì? Bất luận nghiêm trọng cỡ nào, cũng đừng ngại nói ra để lão thần thay thánh thượng tham tường.”
Tuyên đế bị một câu của lão làm cho bừng tỉnh, nhìn chằm chằm Hà thừa tướng nửa ngày, rốt cuộc quyết tâm khẽ cắn môi hỏi: “Lão thừa tướng không cần đa tâm, trẫm hôm nay gọi ngài tới, là muốn cùng ngài nói về gia sự. Không biết thân thể trưởng công chúa vẫn khỏe chứ, cùng thừa tướng ở chung có tốt không?”
Hà thừa tướng nghe nhưng không hiểu, lại vẫn nghiêm túc đáp: “Thân thể công chúa cực tốt, cùng lão thần tôn kính như tân, đa tạ bệ hạ quan tâm.”
Tuyên đế châm chước dùng từ, trước khen vài câu Hà thừa tướng có thuật ngự thê, sau đó thật cẩn thận mà đem câu chuyện chuyển vào vấn đề chính: “Nếu công chúa cùng thừa tướng có xung đột, thì giải quyết thế nào?”
Hà thừa tướng nhắc tới việc này, bỗng nhiên vẻ mặt tang thương, thổn thức đáp: “Thuở thiếu niên mỗi khi xung đột, gia phụ gia mẫu đều sẽ hung hăng phạt ta một trận, bức ta xin lỗi công chúa. Lúc ấy lão thần thường nghĩ, tương lai có một ngày không còn người quản thúc ta, ta nhất định phải vùng dậy, trọng chấn phu cương. Mấy mươi năm sau, gia phụ gia mẫu quả thật đều không còn nữa, nhưng khi đó ta cùng công chúa đã không còn thường xuyên cãi nhau…… Tuổi lớn, cũng không còn bồng bột, cảm tình cũng so với trước đây càng sâu đậm……”
Lão nâng tay áo lau lau khóe mắt, hướng Tuyên đế thỉnh tội: “Thỉnh bệ hạ thứ cho thần thất lễ, người già rồi, ngược lại càng dễ dàng rơi lệ.”
Tuyên đế từ trong lời của lão thừa tướng nghe ra được một kinh nghiệm hữu dụng, hiện tại ban thưởng còn không kịp, sao lại trách tội thất lễ của lão? Không những khuyên lão không cần quá mức cẩn thận gò bó, còn theo lão cảm khái một hồi: “Trời cao vong tình, tình không chỗ trú ngụ, nên cuối cùng đều rơi xuống đầu chúng ta.”
Hai người thổn thức tuy không giống nhau, nhưng trình độ sợ vợ như sợ hổ cũng thật không phân cao thấp. Hà thừa tướng vừa rời đi xong, Tuyên đế liền gấp đến không chờ nổi mà tự tay viết xuống thánh chỉ, tuyên triệu cha mẹ bốn người kia vào cung.
Tuyên đế cẩn thận lựa chọn từ ngữ, viết rằng: vì cung quy ngăn cách, nên cốt nhục phân ly, quả thật có chút trái với luân thường, hắn tự nghĩ hoàng hậu cùng các vị ái phi đều là nam tử, lại là trọng thần triều đình, không thể cùng nữ tử quơ đũa cả nắm, nên muốn triệu cha mẹ bốn người vào cung thăm hỏi nhi tử.
Tuyên đế thậm chí không dám đem ý chỉ này đưa đến Trung Thư tỉnh, mà trực tiếp triệu nội thị tiến vào, ban cho lệnh bài, để bọn họ phi ngựa ra cung truyền tin. Giữa bốn vị hậu phi, cha mẹ Chu Huyên và Thuần Vu Gia đều ở kinh thành, sau khi tiếp chỉ liền lập tức thay đổi lễ phục vào cung, còn người nhà Phượng Huyền và Tạ Nhân thì vẫn chưa vào kinh, nhóm nội thị liền chuẩn bị hành trang lên đường, ra kinh đến cố hương của bọn họ tìm người.
Chu lão tướng quân giáo huấn nhi tử giáo huấn đến thuận tay, vừa vào cung liền bất chấp tất cả mà bắt đầu la mắng, mẫu thân Chu Huyên đem y che chở ở phía sau, sau đó vận khí đan điền, bắt đầu mắng ngược trở lại phụ thân y vô dụng, để nhi tử vào cung làm hoàng hậu. Một nhà ba người này chính là đánh mắng đến náo nhiệt, Tuyên đế cho nữ quan qua đó, làm trò mà tự giới thiệu trước mặt cha mẹ Chu Huyên: “Nô tì là nữ quan Thượng Cung Cục, hoàng hậu sau khi vào cung vẫn chưa từng chính thức học qua cung quy lễ pháp, bệ hạ phái nô tì tới làm giáo dẫn. Truyền khẩu dụ của bệ hạ, vì đề phòng hoàng hậu không quen, quốc trượng cùng phu nhân hãy tạm thời lưu lại Khôn Ninh Cung một thời gian, đợi hoàng hậu quen thuộc cung quy rồi hẳn trở về.”
Chu Hoài lập tức thay đổi sắc mặt, nắm quải trượng mà rượt theo đánh Chu Huyên, sau đó bị phu nhân đoạt lấy quải trượng mà đánh một trận. Lão tướng quân tuy rằng không dám đánh trả, nhưng vẫn dám giáo huấn nhi tử, vừa trốn quải trượng đập xuống của phu nhân vừa mắng: “Đồ bất hiếu! Vào cung còn dám gây rắc rối! Khẳng định là ngươi không hiểu chuyện, thánh thượng mới cho người tới giáo huấn ngươi……”
Nữ quan trốn ở trong góc nhỏ giọng khuyên nhủ: “Phu nhân, quốc trượng, hoàng… hoàng hậu……”
So với Chu gia võ công gia truyền, Thuần Vu lão gia cùng phu nhân lại bình thản hiểu biết lễ nghi hơn nhiều. Gia tộc Thuần Vu bất quá chỉ là một gia tộc mới nổi, hai vợ chồng già đều không quen với cung điện xa hoa, động tác thập phần câu nệ, càng không dám làm trò đánh nhi tử trước mặt nữ quan, chỉ dùng lời nói thấm thía mà khuyên nhủ: “Ngươi làm đại quan, vi phụ cũng quản không được ngươi, chỉ có một điều cần phải dặn dò ngươi ― tài phú một nhà chúng ta đều là do thánh thượng ban tặng, ngươi phải biết tri ân báo đáp, không thể có tâm tư khinh thường.”
Thuần Vu Gia không thẹn với lương tâm, lập tức đáp: “Ta tất nhiên là hết lòng hết sức, chỉ sợ hầu hạ không chu toàn.” Còn về chuyện chu toàn ra làm sao, vậy thì phải tùy theo cách nghĩ của mỗi người. Thuần Vu Gia tìm hiểu thì biết được bên phía Chu Huyên, Phượng Huyền cùng Tạ Nhân cũng phái tới người giáo dẫn, liền an tâm đưa cha mẹ vào thiên điện nghỉ ngơi, chính mình thì hướng nữ quan kia lãnh giáo thuật mị quân lưu truyền trong cung.
Mẫu thân Tạ Nhân tới cũng không chậm, Tạ Nhân vào cung xong liền cho người quay về Hội Kê rước nàng vào kinh, chỉ là đường xá xa xôi, lúc Tuyện đế sai nội thị đi tìm người thì còn chưa kịp đến kinh thành. Mấy ngày sau khi nàng vào kinh, liền được Tuyên đế phái người mang vào trong cung đoàn tụ cùng nhi tử. Tạ phu nhân vừa thấy nhi tử liền giáo huấn: “Chuyện vào cung là chính ngươi cầu xin, về sau có ủy khuất cũng phải tự mình nuốt xuống, không được hướng ta oán giận!”
Tạ gia lấy quân quy trị gia, Tạ Nhân ở trước mặt mẫu thân thập phần thành thật, nghiêm chỉnh chắp tay trước ngực, nghiêm chỉnh ngồi, nghiêm chỉnh tuân thủ lễ nghi. Lại thêm Tạ Nhân giỏi nghe giỏi nhớ, lời nói của nữ quan kia vào tai liền không quên, mới dạy có nửa ngày, nữ quan đã không còn gì để dạy, trở về hướng Tuyên đế phục mệnh. Tuyên đế bị đè nén đến thở dài một tiếng, cúi đầu suy nghĩ một trận, liền phân phó: “Ngươi trở về, thỉnh Tạ phu nhân ở lại trong cung một thời gian, lấy cớ an ủi A Nhân.”
Vào cung cuối cùng lại là người nhà Phượng Huyền. Phụ thân Phượng Huyền vì việc nhi tử vào cung mà lấy làm hổ thẹn, mẫu thân tuy rằng thương yêu nhi tử, nhưng lại không lay chuyển được trượng phu. Ngay cả nội thị do Tuyên đế phái tới cũng không khuyên giải được lão nhân bướng bỉnh này, đành phải đi gặp quan phủ địa phương mượn người, nửa mời nửa áp giải mà đem cha mẹ Phượng Huyền lôi vào kinh.
Phượng lão tiên sinh tuy đã vào cung, nhưng khí tiết lại không thiếu, ngay cả mặt nhi tử cũng không chịu nhìn. Phượng phu nhân ở một bên ôm nhi tử khóc lóc một hồi, liền khuyên Phượng Huyền đi cầu xin phụ thân y tha thứ. Phượng Huyền tính tình cũng ngay thẳng cứng đầu, không rên một tiếng mà quỳ gối ngoài thiên điện, khiến nữ quan và đám cung nhân hoảng sợ đến độ chết khiếp, mặc cho ai cũng không đỡ được y đứng dậy.
Việc này sau khi được báo lên, Tuyên đế rốt cuộc ngồi không nổi nữa. Hắn trước đây đối với gia tộc Phượng thị đã không có ấn tượng tốt, chỉ là sau khi Phượng Cảnh bị đày rời khỏi kinh, Phượng gia cũng không còn dám nháo động chuyện Phượng Huyền nữa, sau đó hắn vội vã chinh phạt nước láng giềng, nhất thời quên giáo huấn người Phượng gia. Hiện tại nghe thấy Phượng Huyền chịu ủy khuất lớn như thế, Tuyên đế liền bất chấp tất cả, vội vàng di giá đến Tuyên Hoà Điện.
Thời điểm Tuyên đế đến nơi, Phượng Huyền chính là đang quỳ trên nền đá xanh, sắc mặt ngưng trọng, thân mình thẳng tắp, hai đầu gối đặt trên mặt đá, Tuyên đế vừa nhìn liền cảm giác đầu gối phát đau, lập tức tiến tới đem người đỡ dậy. Phượng Huyền mặt đầy thần sắc kinh hỉ, nhưng kinh hỉ xong lại ảm đạm nói: “Bệ hạ lấy nhân hiếu trị thiên hạ, ta lại không thể khiến phụ thân vừa lòng, còn để cho bệ hạ vì ta lo lắng……”
Mẫu thân Phượng Huyền ở bên cạnh kiến giá, Tuyên đế khoan dung mà khuyên nàng đứng dậy, lại khen nàng vì quốc gia giáo dưỡng ra một vị hiền tài lương đống. Phượng lão tiên sinh trong điện nghe thấy Tuyên đế tới, tuy rằng trong lòng bất mãn hắn đem nhi tử nhà mình vào cung làm nam phi, nhưng lại không thể thất lễ trước thiên tử, vội vàng ra cửa nghênh đón.
Tuyên đế miễn lễ cho lão, trên mặt mang theo vài phần ý cười uy nghiêm, đạm nhiên hỏi: “Phượng công đọc qua đủ loại thi thư, trẫm có một chuyện muốn hỏi ngươi. Không biết quân cùng phụ bên nào thân hơn, trung cùng hiếu bên nào nặng hơn?”
Phụ thân Phượng Huyền hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn lập tức đáp: “Quân thần phụ tử, tất nhiên là quân đứng trước phụ, trung nặng hơn hiếu.”
Tuyên đế liền cười nói: “Phượng khanh tận trung với quân, luôn hoàn thành tốt trọng trách được giao, không phải chính là tuân theo lời dạy dỗ của lão tiên sinh hay sao? Có con như thế, lão tiên sinh còn gì bất mãn, vì sao ngược lại không chịu gặp y?”
Phượng phụ liền muốn quỳ xuống, Tuyên đế vội bảo Phượng Huyền ngăn lại. Lão tiên sinh không thể quỳ, liền cúi đầu đáp: “Gia tộc Phượng thị truyền đời đến nay đã hơn trăm năm, chưa bao giờ làm ra chuyện lấy sắc thị quân……”
Tuyên đế trách mắng: “Phượng công ăn nói cẩn thận! Người trong cung của trẫm, đều là lấy đức thị quân, không có ai lấy sắc thị quân cả!”
Phượng Huyền cũng nói theo: “Bệ hạ là thánh minh thiên tử, há chứa chấp loại người lấy sắc mời sủng? Thần tử thị quân vốn như vợ hầu chồng, thần dân thiên hạ có ai không yêu vua, ta có thể vào cung hầu bệ hạ là may mắn mà trời cao ban cho, phụ thân lúc này nên lấy ta làm vinh, cớ sao lại coi đây là nhục?”
Tuyên đế nghe được thập phần vừa lòng, tầng băng sương trên mặt cũng theo gió bay đi, mỉm cười nói với Phượng Huyền: “Phượng khanh có tấm lòng trung nghĩa, trẫm vẫn luôn minh bạch, khúc mắc giữa ngươi và cha mẹ trẫm cũng ngóng trông có thể sớm ngày cởi bỏ. Đợi việc này hóa giải xong, khanh liền không cần phân tâm với gia sự, chuyên tâm vì trẫm dạy dỗ hoàng thái tôn.”
Hai người càng nói càng đứng đắn, phụ thân Phượng Huyền nghe vào đều cảm thấy chính mình oan uổng nhi tử. Tuyên đế đi rồi, cung nhân lại nhào tới khuyên giải, đem công tích Phượng Huyền lập được khen rồi lại khen, trong lòng Phượng công âm thầm vì nhi tử mà kiêu ngạo, thái độ chậm rãi mềm xuống.
Tuyên đế nghe nội thị báo cáo việc này, trong lòng cực kì đắc ý, âm thầm đem Hà thừa tướng khen rồi lại khen, thuận tay liền ban mấy xấp vải thượng đẳng cùng trăm lượng hoàng kim xuống. Hậu cung có vài vị nhạc phụ nhạc mẫu tọa trấn, Tuyên đế rốt cuộc có thể nghỉ ngơi mấy ngày, không cần lo lắng có người xông vào tẩm cung của hắn hay Văn Đức Điện cùng Ngự Hoa Viên gì đó, giữa ban ngày ban mặt mà a dua mời sủng.
Tuyên đế chuyên tâm phê duyệt tấu chương, trong điện bỗng nhiên vang lên tiếng bước chân nhè nhẹ, trên ngự án liền xuất hiện một chén canh. Tuyên đế cũng không ngẩng đầu, chỉ nói: “Đi xuống đi, lát nữa trẫm ăn sau.”
Cái muỗng trong chén bỗng nhiên dán tới giữa môi Tuyên đế, nước canh ngọt ngào liền theo kẽ răng chảy vào trong miệng hắn. Tuyên đế ngẩng đầu đang muốn mắng tên nội thị không hiểu chuyện kia, thế nhưng lúc vừa nhìn thấy mặt người nọ, lập tức sửng sốt ― kẻ đút canh cho hắn lại là Thuần Vu Gia!
Trong lúc hắn ngây người, muỗng canh đã được đưa vào trong miệng hắn. Tuyên đế nuốt nước canh, kinh ngạc hỏi: “Ngươi không phải đang học quy củ……”
Thuần Vu Gia cười đến thập phần ôn nhu, hai mắt cong cong, ánh mắt lại gắt gao dính chặt vào đôi môi ướt át của Tuyên đế: “Bệ hạ nói đúng, ta chính là đang theo nữ quan học tập đạo thị quân. Nàng dạy ta phải thời thời khắc khắc quan tâm thân thể bệ hạ, vậy nên ta liền kêu phòng bếp nấu canh bổ dưỡng, đưa đến cho bệ hạ.”
Y dán sát người tới, miệng ngậm một muỗng canh đút vào trong miệng Tuyên đế, ngẩng đầu dụ hoặc mà nói: “Ta đã học được rất nhiều biện pháp thị quân. Đã nhiều ngày nay bệ hạ chưa từng nghỉ ngơi tại hậu cung, đối với thân thể cực kỳ bất lợi, ta lại không thể làm ngơ bỏ mặc long thể vì cấm dục mà chịu thương tổn, nên đành phải mặt dày không biết xấu hổ tự mình hiến dâng.”