- Từ khi đến sa mạc này, ta vừa chờ con quay lại vừa canh chừng sự sống đang run rẩy trong ta. Giờ đây đã gặp lại con rồi, ta có thể đi đến một giấc ngủ khác… Còn con?
Cánh tay trái của Iokhanân thõng xuống bất động và những vết sẹo sâu rạch khắp phần thân trên để trần của anh. Anh lo lắng nhìn ông già, gương mặt ông hõm sâu vì bệnh tật. Anh không trả lời mà ngồi xuống bên cạnh ông một cách khó khăn.
- Sau khi kết liễu Adôn, bọn lính bắt được con ở ốc đảo Ein Feshka và bỏ mặc con ở đó cho chết. Những người Esseni chạy thoát được vụ tàn sát và vòng vây ở Qumran sau đó đã vác con lên vai: con bị bất tỉnh nhưng vẫn còn sống. Suốt nhiều tháng trời, họ chăm sóc con trong cộng đồng của họ ở sa mạc Judee nơi họ ẩn nấp. Ngay khi có thể đi lại được, con đã xin họ đi cùng con đến đây để tìm cha: cha không thể tưởng tượng được quãng đường mà con đã trải qua trên sa mạc này đâu.
Tông đồ thứ mười ba nằm dài trên một manh chiếu đơn sơ, trước cửa một cái hang. Ông đưa mắt nhìn hẻm vực sâu mở ra phía trước họ, do nước xói vào vách đá màu đỏ và đất son tạo thành. Rất xa, thấp thoáng dãy núi chạy dài đến tận Hobreb, nơi trước đây Chúa trao Luật của mình cho Moise.
Những người Esseni…Không có họ, hẳn là Jesus đã không sống được bốn mươi ngày cô độc trong sa mạc, những ngày đã biến đổi Người. Không có họ, hẳn là cha đã không gặp Người cùng Jean – Baptiste, và Người hẳn đã không quen biết Nicodème, Lazare, các bạn bè của ta ở Jerusalem. Con đã để lá thư của chúng ta ở ngay trong một cái vại ở hang của họ, tại Qumran…chúng ta chịu ơn họ nhiều biết bao!
Còn hơn là cha nghĩ. Trong sa mạc Judee, họ tiếp tục chép lại các bản thảo khác nhau. Trước khi chia tay, họ đã trao lại cho con cái này – anh đặt xuống mép chiếu một xấp giấy da. Đây là kinh Phúc âm của cha, cha ạ, theo đúng bản hiện lưu truyền khắp Đế chế La Mã. Và con mang về để cha đọc.
Ông già đưa một bàn tay lên: dường như ông đang kiệm đến từng động tác.
- Bây giờ đọc cũng khiến ta mệt. Con hãy đọc cho ta nghe!
- Văn tự của họ dài hơn nhiều so với bản viết của cha. Họ không chỉnh sửa nữa mà sáng tác thêm. Theo như cha đã kể với con, Jesus nói bằng tiếng Do Thái, cho người Do Thái nghe…
Má tông đồ thứ mười ba ửng lên chút sắc màu. Ông nhắm mắt như đang sống lại những cảnh tượng đã khắc sâu trong tâm trí.
- Nghe Jesus nói, chính là nghe tiếng gió thổi trên các ngọn đồi ở Galilee, là nhìn thấy những bông lúa trĩu hạt trước mùa gặt, những đám mây bay qua bầu trời phía trên Israel của chúng ta… Khi Jesus nói, Iokhanân ạ, đó chính là người thổi sáo trong phiên chợ, người tá điền thuê mướn nhân công, những khách mời bước vào tiệc cưới, cô dâu trang điểm để đón chú rể…Cả đất nước Israel ở trong da thịt Người, là niềm vui và nỗi đau của Người, màu vàng êm dịu của các buổi chiều tối bên bờ hồ. Đó là bản nhạc cất lên từ đất đai quê hương chúng ta, nâng chúng ta lên với Chúa của Người và Chúa của chúng ta. Nghe Jesus nói là tiếp nhận tình cảm trìu mến của các nhà tiên tri được bao bọc trong giai điệu thần kỳ của những bài Thánh vịnh, giống như một làn nước tinh khiết. Ồ đúng! Đúng là một người Do Thái nói với những người Do Thái!
- Jesus mà cha đã biết giờ đây đang bị họ gán cho những bài diễn văn dài dòng theo kiểu của các nhà triết học theo thuyết ngộ đạo. Và họ biến Người thành Đạo, thành Đức chúa con vĩnh hằng. Họ nói rằng “tất cả mọi thứ là do Người, và không có Người là không có gì.”
- Đừng nói nữa!
Từ đôi mắt nhắm nghiền của ông lăn ra hai giọt nước mắt, chầm chậm bò dọc đôi má hõm sâu lởm chởm râu.
- Đạo! Vị thánh vô danh của các nhà triết học chợ búa, những kẻ khoe khoang là đã đọc Platon và diễn thuyết hô hào trước đám đông nhàn rỗi để khiến họ rơi vào túi mình cùng với vài đồng bạc! Người Hy Lạp đã từng biến người thợ rèn Vulcain thành thần, biến kỹ nữ Venus thành nữ thần, cũng biến cả một người chồng ghen tuông và một người lái thuyền thành thần. Ồ, điều đó mới dễ dàng làm sao, một vị thần có khuôn mặt của một con người, và điều đó mới khiến dân chúng vui thích làm sao! Khi thánh hóa Jesus, chúng vứt chúng ta vào trong bóng tối của tà giáo, nơi Moise đã từng đưa chúng ta thoát ra.
Bây giờ thì ông khóc, rất lặng lẽ. Sau một lát im lặng, Iokhanân nói:
- Một vài môn đồ của cha đã tham gia Giáo hội mới, nhưng những người khác vẫn trung thành với Jesus xứ Nazareth. Người ta xua đuổi họ ra khỏi các cộng đồng người Cơ Đốc, hành hạ họ, thậm chí một số người còn bị giết.
- Jesus đã báo trước cho chúng ta: Người ta sẽ xua đuổi các người ra khỏi cộng đồng, người ta sẽ tra tấn các người và người ta sẽ giết các người…Con có tin tức gì về những người Nazareth mà ta đã phải bỏ lại để ẩn náu ở đây không?
- Con có thông tin do những người đi theo đoàn ngựa thồ cung cấp. Sau khi rời Pella cùng cha, họ tiếp tục di cư đến tận một ốc đảo thuộc bán đảo Ả Rập, có tên là Bakka, hình như thế, đó là một chặng trên tuyến đường thông thương của Yémen. Những người Ả Rập du cư sống ở đó rất tôn thờ những viên đá thiêng, nhưng họ cũng tự coi mình là con trai của Abraham như chúng ta. Vậy là bây giờ một hạt mầm của người Nazareth đã được gieo trên đất Ả Rập!
- Tốt rồi, họ sẽ được an toàn ở đó. Thế còn Jerusalem?
- Đang bị Titus, con trai của hoàng đế Vespasien bao vây. Thành phố vẫn chống cự, nhưng trong thời gian bao lâu thì…
- Chỗ của con là ở đó, con trai ạ: con đường của ta chấm dứt ở đây. Hãy quay về Jerusalem, bảo vệ căn nhà của chúng ta trong khu phía Tây. Con có một bản sao lá thư của ta, hãy truyền bá nó. Biết đâu họ lại nghe con? Dù thế nào, họ cũng không thể biến đổi nó như đã từng làm với kinh Phúc âm của ta được.
Hai ngày sau ông già chết. Lần cuối cùng, ông chờ đợi bình minh. Khi được những ánh mặt trời bao bọc, ông gọi tên Jesus rồi ngừng thở.
Tận sâu trong một thung lũng ở sa mạc Idumea, một cái quách xếp bằng đá đặt sơ sài trên cát từ nay trở đi là nấm mồ của người từng tự xưng là môn đồ cưng của Jesus xứ Nazareth, tông đồ thứ mười ba thân thiết và cũng là nhân chứng tốt nhất của Người. Cùng với ông, vĩnh viễn biến mất ký ức về một nấm mộ tương tự, đặt đâu đó trong sa mạc này. Nấm mộ cho đến ngày nay vẫn còn chứa đựng di hài của một Người chân chính nhưng đã bị đóng đinh câu rút một cách vô căn cứ bởi bởi tham vọng của con người.
Iokhanân ngồi cả đêm ở lối vào thung lũng. Khi trên nền trời trong mờ chỉ còn ngôi sao gác đêm tỏa sáng, anh đứng dậy và đi về phía bắc cùng với hai người Esseni.