Bích Tiêu Cửu Trùng Xuân Ý Vũ

Chương 5: Tương tư chân trời, hồn tan cơn mơ cũng tạnh



Phòng đàn hát ở cung Hy Khánh rất tĩnh lặng. Ý nghĩa của “tĩnh lặng” có thể hiểu là thích hợp để ẩn cư, cũng có thể hiểu là phải chịu ghẻ lạnh. Tôi bước đến trước cầm đài, nhẹ vuốt dây tơ, âm sắc nặng nề không thanh thoát, chắc hẳn đã lâu rồi đàn không được chỉnh dây.

Cái gọi là tài mạo song toàn, xem ra chỉ là cái danh hão của những người xuất thân từ Hoàng gia mà thôi. Nguyên nhân khiến cho Thẩm Phượng Nghi có thể làm chủ tam cung lục viện vẫn chính là sức ảnh hưởng to lớn ở Đại Chu của gia đình người mà thôi.

Là phúc thì không phải họa, là họa tránh cũng không được. Tuy biết rằng Thẩm Phượng Nghi không có ý tốt, nhưng tới khi xảy ra chuyện thật, không phải tôi muốn tránh là có thể được. Nội thị đưa tôi đến đây, theo nguyên tắc, vẫn có tiểu cung nữ đem trà vào, sau đó lui ra. Sau khi cánh cửa đóng lại, tiếng khóa vang lên, cho thấy rõ tôi hiện đang bị nhốt trong căn phòng này.

Không biết gió lạnh tràn vào trước khi cửa đóng hay là làn gió luồn qua khe cửa sổ của căn phòng để đánh đàn này bỗng nhiên lạnh lẽo lạ thường. Đến khi đẩy cánh cửa sổ mở ra, tôi lại thấy bụi mẫu đơn bên dưới đang nở rộ tưng bừng đến mức khác thường.

Thuở thiếu thời say đắm với hoa cỏ, vậy mà giờ đây tôi lại thờ ơ lặng ngắm trời mây. Diêu hoàng ngụy tử[1] tươi đẹp đang đua nở, từng cánh hoa nhẹ như được cắt bằng lụa bảy màu tung bay, dường như đang cười ai đó, khi tuổi trẻ còn phong nhã, mà giờ đây lòng đã nguội lạnh giá băng.

[1]. Diêu hoàng chỉ hoa mẫu đơn có ngàn cánh màu vàng, ngụy tử chỉ hoa mẫu đơn ngàn cánh màu đỏ, ngụ ý chỉ hai loài hoa mẫu đơn danh quý ở Lạc Dương, về sau chỉ những loài hoa quý phái, sang trọng. Xuất xứ từ bài thơ Lục trúc đường độc ẩm của Âu Dương Tu đời Tống.

Thấy mấy nội thị đứng ngoài đang nhìn về phía mình đầy cảnh giác, tôi mỉm cười khổ sở. Ngay cả cuộc sống náo nhiệt của những người xung quanh cũng sắp rời bỏ tôi sao?

Tôi đứng tới tận khi hoàng hôn trăng mọc, tựa lan can ngóng trông, vậy mà vẫn không chờ được nửa bóng hồng nhạn quay về[2]. Tôi đưa tay ra ngoài cửa sổ, hái một bông mẫu đơn, khẽ ngửi. Đúng là rất thơm, nhưng hương lại ngào ngạt quá, chưa chắc có thể khiến con người ta cảm thấy thanh tao sảng khoái.

[2]. Câu này lấy ý trong bài từ Xao toái ly sầu viết theo điệu Mãn giang hồng của Tân Thích Tật. Câu cuối cùng bài từ như sau: Thùy dương chỉ ngại li nhân mục, tối khổ thị, lập tận nguyệt hoàng hôn, lan can khúc. Ý nói: thùy dương che tầm mắt, tuy không nhìn thấy người đi ở chốn chân trời, nhưng vẫn đứng tựa lan can lầu đến khi hoàng hôn trăng lên, phải chờ đợi như vậy là điều đau khổ nhất.

Cái được gọi là quốc sắc thiên hương, chẳng qua cũng chỉ được như vậy, làm sao có thể được hơn hồ sen thanh tao vào tiết trời mùa hè, làm tiêu tan nóng bức, thướt tha thanh khiết vô cùng.

Thật sự không biết được liệu tôi có còn cơ hội ngắm lại hồ sen thắm tươi, mát mẻ, lá sen xanh biếc trước cung Đức Thọ hay không? Càng chẳng thể nhìn lại cảnh lan can sơn đỏ của tòa thủy tạ, vào khi gió mát trăng trong, lá xanh sen hồng, cầm tiêu hợp tấu, nhìn thấy người đó đang rất thoải mái, dường như cả trời đất cũng vì thế mà sáng ngời, trong trẻo hơn nhiều. Bàn tay bất giác dùng lực, những cánh hoa tàn lả tả như mưa, giống như những giọt máu đào nhỏ xuống bên chân.

Trà đã nguội nhưng chẳng có ai tới rót thêm. Tôi liền bước ra gõ cửa, bên ngoài liền truyền vào tiếng hỏi han lễ phép mà lạnh lùng: “Ninh chiêu nghi có điều gì dặn dò?”

Họ thật sự giám sát tôi không khác gì một phạm nhân. Đường Thiên Tiêu bị ai hạ độc không còn quan trọng nữa, điều quan trọng là lúc này tôi đã trở thành cá nằm trên thớt, lực bất tòng tâm chờ người khác phán xử. Hít một hơi thật sâu, tôi bình tĩnh nói: “Ta khát rồi, mau đổi nước trà nóng cho ta”.

“Dạ, Ninh chiêu nghi”.

Cánh cửa phòng được mở ra, người ta mang nói tới. Nhưng đó chỉ là một bình nước trắng vừa được đun sôi, ngay đôi chút vụn trà cũng chẳng có.

“Ninh chiêu nghi, mời người tự nhiên”.

Sau khi nở nụ cười khiến người khác rùng mình, người cung nữ dâng trà liền lui ra, ánh mắt nhìn tôi giống như đang nhìn một chú cá đã mắc trong lưới. Mang bình nước tới, chẳng qua là vì thương hại cho số phận chỉ còn thoi thóp của tôi mà thôi.

Thật ra trong phòng đàn có lá trà, hơn nữa là trà thượng hạn thích hợp cho thân phận cao quý của Hoàng hậu. Tôi cúi đầu xuống nhìn thấy bình trà và chén trà ngay trên bàn. Tôi tĩnh tâm mỉm cười, chậm rãi, bình thản lấy trà, làm nóng bình trà và chén trà, rót nước sôi pha trà rồi khẽ rót.

Hương trà thơm thanh mát tỏa ra khắp nơi.

Dường như có người thiếu niên đang cười tươi tắn, dịu dàng tán thưởng: “Trà do Vũ Nhi pha càng ngày càng thơm, tiếng tiêu Vũ Nhi thổi càng ngày càng hay, còn nữa…”

Tiếng nói có lẫn đôi chút đắm say đột nhiên ngừng lại, thiếu nữ cũng bật cười hớn hở nói: “Còn có gì nữa?”

Đôi mắt trong veo như nước hồ thu liền lướt qua khuôn mặt tôi, hướng về sen hồng lá biếc dưới ánh nắng lấp lánh, nụ cười trên khóe môi bình yên dịu dàng: “Còn nữa, năm nay hoa sen nở đẹp hơn năm trước nhiều. Đúng là xuất thủy phù dung, yêu kiều duyên dáng, khiến ta động lòng”.

Thiếu nữ lại bật cười vui vẻ: “Vậy thì huynh quay về trồng một hồ sen lớn đi, mùa thu còn có thể ăn được ngó sen vừa giòn vừa ngọt nữa đấy”.

Thiếu niên khẽ cười, đôi mắt đen láy, long lanh như mặt nước hồ. “Ta định đem hoa sen về phủ họ Trang của chúng ta, thứ ta muốn chính là bông sen đẹp nhất phủ họ Ninh”.

Lời nói dịu dàng, chân thành, dưới những phiến lá sen tròn trịa, từng giọt nước long lanh trong suốt rơi xuống hồ, dưới lá sen xanh, từng gợn sóng nhỏ xôn xao rung động. Cùng với những gợn sóng nhẹ đó là tiếng cưới nói vui vẻ trong thủy tạ, nhẹ nhàng lướt qua những phiến lá xanh biếc và những đóa sen hồng tươi thắm.

“Sen xanh che mặt nước trong

Phù dung rạng rỡ sắc hồng đẹp tươi

Tình lang muốn hái về thôi

Cánh sen thiếp cũng bồi hồi ấp ôm”.

Hương trà thơm ngào ngạt, hơi nước tỏa khắp nơi, đôi mắt tôi bất giác ươn ướt.

Nhẹ nhàng nhoẻn miệng mỉm cười, tôi từ từ ngồi xuống, tĩnh tâm thưởng thức trà do chính tay mình pha.

Một lần, hai lần, vị đắng chát và hương thơm thanh nhã ban đầu nhạt đi, dần dần trở nên vô vị, nhạt nhẽo, khiến cho con người ta chán chường. Nước trong chén trà cũng dần nguội đi. Khi tiếng mở khóa bên ngoài vọng vào, nước trà đã lạnh đến mức thấu tận trong tim.

“Ninh chiêu nghi, Hoàng hậu nương nương triệu kiến người”.

Lúc này là một thái giám cao tuổi, giọng nói cũng chói tai hơn.

Tôi nắm chặt chén trà lạnh băng trong tay, đứng dậy cúi đầu rồi đáp một tiếng, sau đó lặng lẽ đi theo viên thái giám ra ngoài, tiến thẳng về chính điện trong cung Hy Khánh.

Thẩm Phượng Nghi đang ngồi trên bảo tọa Hoàng hậu, đôi mày cau chặt, tức giận vò nhàu chiếc khăn trong tay, khuôn mặt diễm lệ mọi khi cau có đanh cứng lại, dự báo trước phong ba bão tố sắp sửa ập đến.

“Quỳ xuống!”

Tôi đang do dự chuẩn bị hành lễ thì bỗng dưng bị người ta đạp mạnh vào sau đầu gối, đau đến nỗi tôi bật kêu một tiếng, rồi khuỵu xuống sàn lát ngọc thạch sáng chói trong điện, chẳng thể nào đứng dậy nổi nữa.

Đôi tay run nhẹ chống xuống sàn, khó khăn lắm tôi mới quay đầu lại được, nhìn rõ người đạp vào chân tôi chính là lão thái giám trước đó vừa truyền tôi tới gặp Hoàng hậu. Khuôn mặt lão đang dương dương tự đắc, không hề có chút thương cảm, lạnh lùng trợn mắt nhìn tôi, rồi nở nụ cười, đứng ra trước mặt Hoàng hậu bẩm báo.

“Khởi bẩm nương nương, Ninh chiêu nghi đã được đưa tới”.

Thái giám phục dịch lâu trong cung, tính tình thất thường, gió chiều nào xoay chiều ấy, thủ đoạn ác độc, nhẫn tâm âu cũng là lẽ thường tình. Thế nhưng dựa vào chút bản lĩnh ỷ lớn hiếp đáp nhỏ, thăm dò sắc mặt người khác đó mà dám hạ thủ với một chiêu nghi chính nhị phẩm độc ác như vậy, nếu như không phải được chủ nhân đồng tình và ủng hộ thì e là có mười lá gan chúng cũng chẳng dám làm.

“Thần thiếp chiêu nghi Ninh thị, bái kiến Hoàng hậu”.

Tôi cố nhịn nỗi đau thấu tim, cố gắng quỳ thẳng người, khấu kiến Hoàng hậu theo đúng lễ nghi trong cung. Thần tốc đưa mắt nhìn lướt qua khuôn mặt của Hoàng hậu, quả nhiên nhìn thấy vẻ mặt đắc ý chưa kịp che giấu.

Những chuyện ghen tuông, tranh giành ân sủng của các phi tần trong chốn hậu cung tôi đã nhìn thấu từ khi ở trong cung Nam Sở. Tuy quanh năm suốt tháng ở trong cung Đức Thọ, không dính dáng vào mấy chuyện thị phi đó, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi không biết được những mưu mô thủ đoạn, toan tính ẩn giấu sau nụ cười tươi tắn trên khuôn mặt những người đàn bà đó.

Đường Thiên Tiêu không hề muốn hại tôi, thậm chí quả thực rất sủng ái tôi. Cho dù là trước mặt mọi người hay khi tiếp xúc riêng, ngài luôn vô cùng tôn trọng tôi, vì thế, cũng khiến cho những phi tần khác trong cung có lý do để ghen ghét tôi, muốn đạp tôi xuống dưới gót giày.

Thế nhưng, nói cho cùng tôi vẫn cứ là một chiêu nghi đứng đầu chín tần, cho dù họ rắp tâm đổ tội hạ độc thích sát Đường Thiên Tiêu lên đầu tôi, thì trước khi chưa có đủ chứng cớ đã đối xử với tôi như vậy thật sự hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của tôi.

Lần này, Thẩm Phượng Nghi không hề cho tôi bình thân.

Cách trang điểm ăn mặc của người khá tinh tế, có điều thân hình hơi đẫy đà, trên trán hơi lấm tấm mồ hôi có lẽ do bước đi khá vội vã trên đường về cung, nên thần sắc của người trông âm trầm hơn mọi khi.

Một lúc sau, người mới hỏi: “Ninh chiêu nghi, Hoàng thượng vô cùng yêu chiều, sủng ái ngươi, đã mấy lần phá lệ sắc phong, ban thưởng, rốt cuộc ngươi còn có gì bất mãn, không ngờ còn dám hạ độc vào trong rượu để mưu hại ngài?”

Hoàn toàn nằm trong dự liệu.

Người thậm chí còn chẳng buồn thẩm vấn, trực tiếp định luôn tội danh cho tôi.

Khóe miệng nhẹ nhếch lên, tôi khẽ xoa chiếc đầu gối vẫn nhói đau không dứt, mơ màng hỏi: “Hoàng hậu nương nương nói gì cơ ạ? Thần thiếp mưu hại Hoàng thượng sao? Thế nhưng hôm sau khi di giá về điện Càn Nguyên, Hoàng thượng chưa hề ghé qua cung Di Thanh, chuyện này nên bắt đầu nói từ lúc nào đây?”

“Bắt đầu nói từ lúc nào hả, đúng là chưa thấy quan tài chưa đổ lệ! Lẽ nào bản cung còn vu oan hãm hại ngươi hay sao?” Thẩm Phượng Nghi khẽ cười, giơ tay lên, những ngón tay đeo đầy trang sức huơ trong không trung.

Một cung nữ bé nhỏ gầy yếu được đưa tới, sắc mặt non nớt, đoán chắc tuổi còn nhỏ, ánh mắt nhìn tôi vô cùng hoang mang, hãi hùng.

“Người có biết cung nữ này không?” Thẩm Phượng Nghi chỉ ngón tay với móng tay dài về phía người cung nữ kia.

Tôi quay sang nhìn một hồi rồi đáp: “Nhìn trông quen quen, có lẽ là người của cung Di Thanh”.

Thẩm Phượng Nghi mỉm cười nói: “Ngươi có thể nói nó không phải là người của cung Di Thanh sao? Có rất nhiều người chứng kiến, ngay cả văn thư cũng có bằng chứng để điều tra, người muốn chối tội không phải chuyện dễ dàng đâu”.

Tôi cúi đầu đáp lại: “Khởi bẩm Hoàng hậu, thần thiếp dọn đến cung Di Thanh ở mới được vài ngày, từ trước đến nay không người thân thích, ngay cả hai cung nữ thân cận bên cạnh cũng do Hoàng thượng đích thân ban thưởng cho. Thần thiếp ngu muội, với những cung nữ làm việc nặng nhọc, nếu bình thường ít gặp mà không nhận ra thì cũng là chuyện bình thường thôi. Có điều người cung nữ này quả thực thần thiếp đã nhìn thấy ở trong cung Di Thanh, không biết Hoàng hậu truyền tới là vì điều gì?”

Thẩm Phượng Nghi than dài, ánh mắt lộ rõ nét thương hại chân thành: “Nói thật lòng, bản cung cũng chẳng muốn tin là trong số tỷ muội hầu hạ Hoàng thượng, lại có người to gan lớn mặt làm nên chuyện tày đình như vậy. Thế nhưng nếu như đã là chuyện do cung nữ trong cung Di Thanh khai ra, thì Ninh chiêu nghi không thể không cho ta một lời giải thích rõ ràng”.

Tôi liền khấu đầu đáp lại: “Xin Hoàng hậu giáo huấn, nếu như thần thiếp có điều gì chưa phải, nhất định sẽ về cung quay mặt vào tường sám hối”.

“Quay mặt vào tường sám hối?” Thẩm Phượng Nghi đạp bàn đứng dậy, nhìn tôi quát lớn: “Ngươi cố tình hạ độc, hành thích Hoàng thượng, tội đáng xử tử lăng trì, chu di cửu tộc, lại còn dám giả ngây giả ngô trước mặt bản cung hay sao?”

“Hả, Hoàng thượng… Hoàng thượng bị sao cơ ạ?” Tôi cố tình tỏ ra hoang mang vặn hỏi lại, bất an thấp thỏm nhìn về phía cung Càn Nguyên.

Lão thái giám giọng như vịt cái đứng sau Hoàng hậu liền đưa ngón tay điệu đà chỉ về phía tôi nói: “Ninh chiêu nghi, người đừng có giả vờ ngu ngơ nữa. Thái y nói rồi, theo như bệnh tình của Hoàng thượng có lẽ đã bị người ta hạ độc vào buổi trưa hôm qua. Còn vào buổi trưa hôm qua… ngài lại dùng bữa ở chỗ chiêu nghi nương nương. Huống hồ chính cung nữ trong cung Di Thanh này đã chứng thực rằng, sau khi Hoàng thượng di giá rời cung Di Thanh, chiêu nghi nương nương đã cho người dọn dẹp bát đũa, chén thìa mà Hoàng thượng dùng ra hết, sau đó lấy đi một trong hai chiếc chén ngọc”.

Thẩm Phượng Nghi lắc đầu nói: “Ta đã nói rồi, Ninh chiêu nghi, chiếc chén ngọc này e rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tìm thấy được nữa đúng không? Vật dụng gây tội ác, ai lại dám để lại hiện trường chứ?

Thứ độc trong chén rượu chỉ cần điều tra là ra ngay, tôi đã vứt nó xuống khe suối từ lâu rồi. Thế nhưng không bị người ta nắm được điểm yếu gì thì bản thân lại chính là nhược điểm lớn nhất. Hơn thế nữa, tội trạng lớn nhất của tôi không phải là hạ độc hay không, mà chính là đã chiếm hết mọi yêu thương sủng ái của Hoàng thượng với các cung tần mỹ nữ, phi tử trong cung.

Tôi cúi đầu, cung kính đáp lại: “Kính mong Hoàng hậu nương nương minh xét, thần thiếp xuất thân thấp hèn, có thể nhận được sự ân sủng của Hoàng thượng đó là nhờ tích phúc từ mấy kiếp trước, thần thiếp cảm tạ còn chưa kịp, đâu dám đem lòng mưu hại hành thích ngài được?”

“Xuất thân thấp hèn?” Đôi môi đỏ thắm của Thẩm Phượng Nghi khẽ nhếch lên, mỉm cười đầy mỉa mai. “Ninh chiêu nghi, phụ thân của ngươi Ninh Bỉnh Du từng là Binh bộ Thượng thư dưới triều Nam Sở, đại quan nhất phẩm, danh tiếng lẫy lừng, tề danh cùng với Chấn Nam đại tướng quân Trang Dao, ngay đến bản cung thân ở phương Bắc, suốt ngày ở trong khuê phòng cũng từng nghe đến tên tuổi. Huống hồ chi, mẫu thân ngươi lại là muội muội ruột của Đỗ thái hậu Nam Sở năm xưa. Đỗ gia đời đời thư hương, danh giá, là một trong những danh gia vọng tộc nổi tiếng nhất chốn Giang Nam này. Văn danh nổi tiếng phương Nam, võ danh oai chấn khắp bốn phương trời, lại thêm vào thân phận hoàng thân quốc thích cao quý, gia đình ngươi đã chiếm hết còn gì. Một thiên kim tiểu thư của gia đình như vậy lẽ nào còn xuất thân thấp hèn sao?”

Lòng bàn tay tôi toát mồ hồi lạnh giá, hoàn toàn phải thay đổi cách nhìn về Thẩm Hoàng hậu, người bị Đường Thiên Tiêu gọi là “gà trống cỡ đại” ở sau lưng.

Sau khi Nam Sở bị diệt vong, tôi cố ý giấu nhẹm thân thế của mình, thậm chí ngay bản thân cũng cảm thấy mình chẳng qua chỉ là một người phụ nữ tầm thường không chút tài sắc mà thôi, chẳng khác mấy so với những cung nữ khác trong thời buổi hỗn loạn hiện nay. Và tất cả đều đã bị đạp đổ, phá vỡ từ khi Đường Thiên Trọng xuất hiện, ngay đến một mong ước giản dị muốn làm kẻ dưới thấp hèn không tranh giành với đời tôi cũng chẳng có được.

Đường Thiên Tiêu cảm thấy nghi ngờ, cho người đi điều tra thân thế của tôi, việc này không hề kỳ quái. Còn ngay sau khi Hoàng thượng xảy ra chuyện, Thẩm Phượng Nghi ngay lập tức có thể nói ra thân thế gia tộc cha mẹ tôi, rõ ràng là đã cho người điều tra lai lịch của tôi từ trước đó.

Người không hề quan tâm một cung nữ có xuất thân thế nào, thế nhưng với phi tần mà Hoàng thượng hết lòng yêu thích, nhất định sẽ phải tốn nhiều công sức hơn. Với địa vị vốn có, cộng thêm sự ủng hộ từ bên họ ngoại, người hoàn toàn có đủ khả năng để biết được quá khứ, thân thế của bất cứ người nào trong cung. Hoặc giả chỉ vì lòng ghen tị, đố kị của người phụ nữ, thế nhưng nếu kết hợp tất cả vào thì tội khi quân thích sát của tôi có đầy đủ chứng cớ và động cơ ra tay.

Mím chặt môi, tôi miễn cưỡng đưa ra lời giải thích: “Bẩm Hoàng hậu, bại thế không phú quý, vong quốc chẳng còn sang. Quốc chủ của Nam Sở năm đó giờ đây chỉ là một trong những thần tử của Đại Chu, cái gọi là hoàng thân quốc thích giờ cũng chỉ giống như con dân Nam Sở khi xưa, giờ đây trở thành bách tính bình thường của Đại Chu. Thần thiếp tuy rằng ngu muội, nhưng cũng biết thuận theo ý trời lòng dân, hết lòng hết dạ hầu hạ Hoàng thượng, tuyệt đối không có lòng dạ khác”.

“Bộp” một tiếng, Thẩm Phượng Nghi đập mạnh tay lên bàn tức giận quát: “Đúng là một con đàn bà điêu ngoa, gian xảo lại giả khờ ngốc nghếch. Hàng ngày thấy ngươi ngờ nghệch, nửa ngày chẳng nói được một câu hoàn chỉnh, vậy mà bây giờ thì thao thao bất tuyệt, lý lẽ vang trời. Nếu như bây giờ bản cung truy hỏi người về đồng đảng chắc cũng chối sạch phải không?”

Nỗi đau thấu tim từ đầu gối truyền lên khiến cho thân người tôi run run, vầng trán cũng lấm tấm đầy mồ hôi, run rẩy nói: “Kính mong Hoàng hậu minh xét, thần thiếp tuyệt đối không dám câu kết với người ngoài làm nên những chuyện đại nghịch bất đạo như thế. Long thể Hoàng thượng vẫn luôn khỏe mạnh, cho dù bị kẻ xấu hạ độc mưu hại thì cũng có ngự y diệu thủ hồi xuân, cứu chữa qua khỏi ngay thôi. Rốt cuộc Hoàng thượng đã trúng độc ở đâu, thần thiếp cho rằng lòng ngài rõ nhất, đến lúc Hoàng hậu hỏi ngài là sẽ biết ngay thôi”.

Thẩm Phượng Nghi lạnh nhạt mỉm cười nói: “Hoàng thượng tuổi còn trẻ, lại bị dáng vẻ kiều diễm của con hồ li tinh như ngươi mê hoặc, đến lúc đó nghe ngươi khua môi múa mép vài câu, chắc chắn sẽ mềm lòng mà tin lời ngươi nói, sau này không hiểu còn bị ngươi ám toán bao nhiêu lần nữa đây. Bản cung niệm tình ngươi đã hầu hạ Hoàng thượng một thời gian, mới chịu ngồi đây nghe ngươi nói bậy nói bạ lâu thế này. Bây giờ bản cung cũng nói thẳng cho người biết, mau chóng khai ra đồng đảng, nếu như còn chấp mê bất ngộ, thì chỉ khiến cho bản thân chịu thêm nhiều đau đớn, khổ sở trước khi chết mà thôi”.

Trước khi chết bắt tôi phải chịu thêm nhiều đau đớn, khổ sở?!

Ý ẩn trong câu này nghĩa là, Hoàng hậu không hề có ý tha cho tôi một con đường sống, còn tôi sẽ không còn cơ hội để tiếp tục đợi chờ con người mãi mãi không bao giờ quay trở lại ấy nữa.

Nắm chặt hai bàn tay, tôi mím chặt môi, đứng thẳng lên.

Mặt sàn được lát bằng đá màu đen đã phủ một lớp hơi nước nhỏ do hơi nóng từ lòng bàn tay truyền ra, vết nước đó nhanh chóng khô đi, biến mất không dấu vết trước làn gió nhẹ.

Bình thản mỉm cười, tôi khẽ khàng cất tiếng: “Hoàng hậu nương nương nếu như đã muốn giáng tội xuống, thần thiếp đâu thể chối được? Nếu như Ninh Thanh Vũ mắc tội do được ân sủng quá độ thì một tấm khăn trắng là quá đủ. Toàn bộ gia tộc họ Ninh đã không còn ai, đất nước Nam Sở cũng đã diệt vong, nếu như thần thiếp chịu liên lụy vì thân thích với hoàng tộc Nam Sở thì âu cũng là số trời đã định, chẳng dám oán hận, trách móc ai nữa”.

Trước mặt toàn bộ cung nữ, thái giám trong chính điện, sắc mặt Thẩm Phượng Nghi trắng nhợt: “Ngươi dám chỉ trích bản cung hẹp hòi, không đủ bao dung với các phi tần, mỹ nữ trong hậu cung này sao? Mau tát vào miệng nó cho ta! Bản cung một lòng một dạ lo nghĩ cho Hoàng thượng, cho nên mới quyết tâm tra xét, diệt trừ gian tế trong cung là ngươi. Nghĩ xem, bây giờ ngươi chẳng qua chỉ là một phi tần nhỏ bé trong cung, nếu như không nội ứng ngoại hợp, lấy đâu ra thuốc độc để mưu hại Hoàng thượng chứ?”

Mấy người cung nữ tiến lại phía trước, giữ chặt hai cánh tay của tôi, tát mạnh lên mặt tôi không hề thương tiếc. Sau mấy tiếng tát mặt rõ ràng, tai tôi mơ màng u ù, tóc tai lòa xòa buông xuống hai vai, và cả trước khuôn mặt, còn hai bên má đều nóng ran, sưng tấy lên, không hề sợ hãi nhìn về phía Hoàng hậu nói: “Đúng thế, thần thiếp chẳng qua chỉ là một phi tần thân phận thấp hèn, không hề có nội ứng ngoại hợp, lấy đâu ra thuốc độc để mưu hại Hoàng thượng? Nếu như Hoàng hậu không truy hỏi cho bằng được cái tên nào đó, tùy tiện ban cái chết cho thần thiếp, sau này khi Hoàng thượng hay Thái hậu hỏi đến, e rằng người cũng khó trả lời! Thế nhưng dù cho có bị Hoàng hậu đánh chết, thần thiếp cũng chẳng cách nào khai ra một đồng đảng nội ứng ngoại hợp vốn chẳng hề tồn tại cho người được đâu”.

“Có đánh chết ngươi cũng không chịu khai sao? Có đánh chết ngươi cũng không chịu khai ra đồng đảng mà Nam Sở các ngươi tiềm phục trong Hoàng cung Đại Chu chúng ta hay sao? Được thôi, bản cung cũng muốn thử xem là da thịt người cứng hay là gậy gỗ của cung Hy Khánh cứng đây?”

Thẩm Phượng Nghi bước đến trước mặt tôi, không hề khách khí trợn mắt lườm tôi.

Ngoại trừ đôi môi quá dày ra, tôi đặc biệt chú ý đến ánh mắt của Hoàng hậu, trong đó là những tia máu đỏ cộm lên vì đố kị chưa kịp che giấu, hoàn toàn tổn hại đến dung mạo cũng khá diễm lệ của người từ trước đến nay. Mái tóc được vấn theo kiểu sang trọng, trên người khoác lên không biết bao nhiêu nhung lụa tuyệt hảo, ngọc ngà châu báu thượng hạng, vô cùng cao sang, có điều lại thiếu đi nét nhân từ, độ lượng.

Mẫu nghi thiên hạ ư? Lòng dạ hẹp hòi thế này, dù cho có đôi chút mưu kế như thế này, xưa nay tôi cũng chưa từng coi vào đâu.

Tôi bình thản mỉm cười, cố gắng hết sức vươn thẳng người, nhìn thẳng vào ánh mắt của Thẩm Phượng Nghi, chẳng buồn che giấu sự coi thường và bất cần của mình dành cho Hoàng hậu nữa.

Hoàng hậu thì đã sao chứ, cũng giống như những lời Hoàng hậu vừa nói, tôi cũng là người có xuất thân cao quý, hậu nhân của danh gia vọng tộc ở Nam Sở. Còn Thẩm Phượng Nghi chẳng qua chỉ là hậu nhân của một võ tướng lỗ mãng, có thể ngồi lên được bảo tọa Hoàng hậu, chẳng qua là do duyên phận. Sự ôn nhu, dịu dàng, đằm thắm thướt tha của những thiên kim tiểu thư xuất thân từ danh gia vọng tộc, không phải cứ chồng chất châu báu, lụa là lên người là có thể tạo ra được. Cho nên, Đường Thiên Tiêu chỉ coi khí thế cao ngạo của Hoàng hậu như một con “gà trống cỡ đại” đang tung cánh vẫy vùng, chứ không phải là kim phụng tao nhã cao quý.

Sau khi nhận thấy sự bất cần và coi thường của tôi, ánh mắt của Hoàng hậu hiện rõ ngọn lửa căm tức, nhanh chóng quay về chiếc ghế phụng của mình, đập mạnh lên mặt bàn rồi ra lệnh: “Người đâu, mau lôi con tiện nhân này xuống, cởi bỏ áo ngoài, dùng trượng dài đánh, đánh cho tới khi nó chịu khai ra ai kẻ đứng sau vụ mưu hại Hoàng thượng này mới thôi!”

Cởi bỏ áo ngoài, dùng trượng dài đánh!

Trong luật lệ của triều Nam Sở trước kia, hình phạt này chỉ dành cho những người phụ nữ phạm tội thông gian, một là để trừng trị tội ác, hai là để nhục mạ, làm gương cho những người khác.

Tuy rằng, Đại Chu là triều đình phương Bắc nhưng cũng vô cùng coi trọng trinh tiết của người phụ nữ, thà rằng ban cho chết ngay chứ không bao giờ để cho người phụ nữ đã từng được Hoàng thượng ân sủng phải chịu loại hình phạt này. Con người vốn luôn tự cao tự đại cho mình là tôn quý nhất, một khi đã tự ti thì quả nhiên là đáng sợ, đáng ghét hơn người thường nhiều lần. Thế nhưng tôi cũng chẳng còn để tâm đến chuyện này nữa, chỉ lạnh lùng liếc nhìn Hoàng hậu, hiên ngang nhìn về phía người phụ nữ ngông cuồng tự đại kia.

Nếu như không thể nào tiếp tục cuộc sống thấp hèn, tĩnh lặng được nữa, tôi cũng chẳng còn muốn kìm nén tính cách vốn có của bản thân, chẳng cần phải tỏ ra nhỏ bé, hèn kém trước mặt con người đã đạp tôi xuống tận cùng thế giới.

Thẩm Phượng Nghi từ từ nheo đôi mắt phượng, mỉm cười nói: “Ninh chiêu nghi, ngươi có biết thế nào là hình phạt cởi bỏ áo ngoài, dùng trượng dài đánh không? Ngươi không sợ hay sao?”

Cánh cửa đại điện đang mở rộng, ánh mặt trời chiếu vào, những hạt bụi nhỏ bé đang bay nhảy trong không khí, rung rinh theo nhịp điệu giống như ai đó đang nhảy múa hát ca vậy.

Tôi ngẩng đầu lên nhìn những hạt bụi như đang nhảy múa kia rồi mỉm cười nói: “Hoàng hậu vẫn còn nhớ thần thiếp là một chiêu nghi sao? Lẽ nào Hoàng hậu không sợ hãi sao?”

Sắc mặt Thẩm Phượng Nghi nhanh chóng tái nhợt, phẫn nộ hét lớn: “Có sợ hay không thì ngươi sẽ nhanh chóng biết được thôi. Người đâu, mau lôi nó ra ngoài!”

Tôi vẫn thản nhiên như không có chuyện gì, mỉm cười để mặc cho bọn họ lôi kéo, xô đẩy, nhanh nhanh chóng chóng lôi tôi ra khỏi chính điện thông qua cửa bên.

Lúc đi qua hành lang trong cung, vô số khóm mẫu đơn bên cạnh vẫn khoe sắc, tươi tắn trong ánh nắng. Sắc trời xanh biếc sáng trong, đặc biệt là ở hướng Đông Nam của bầu trời, trong trẻo đến mức giống như đôi mắt dịu dàng của ai đó. Bên ngoài bức tường kia chắc chắn có rất nhiều cây dây leo. Những đóa hoa bé nhỏ, trắng dịu leo lên bức tường cao đó, rồi rơi rụng đầy trên mặt đất. Dù ồn ào hay yên lặng, tất cả đều đã qua rồi! Những ngày tháng đạm bạc như trước, cũng đến lúc phải trôi đi thôi. Cố thoi thóp hơi thở tàn, đến mức ngay cả dung mạo, tính cách thật sự của bản thân cũng không dám để lộ ra, vậy thì có sống đến khi tóc bạc da mồi, liệu có thể giữ lại bao nhiêu hoài niệm? Xuân qua hoa rụng tả tơi về với bụi, về với đất, vẫn còn tốt hơn là bị người ta giẫm đạp dưới bùn nhơ.

Mấy cung nữ thân người thô kệch cao lớn tiến lên phía trước, tóm lấy tôi, cởi bỏ hết y phục bên ngoài, chỉ còn lại lớp áo trong mỏng manh, trói người thật chặt vào một chiếc ghế dài, sau đó… trượng dài mạnh mẽ giáng xuống, đập lên thân người tôi, nặng nề đau đớn, một trượng, lại một trượng, lại thêm một trượng…

Với “tay nghề” đặc biệt lâu năm của mấy cung nữ này, mỗi một trượng đều khiến tôi đau đớn thấu tim.

Mím chặt đôi môi, tôi không hề xin tha, không hề khóc lóc, thậm chí cũng chẳng thèm kêu thét, chỉ để mặc cho người ta đập lên thân thể mình hết lần này đến lần khác.

Biết bao năm nay, tôi chẳng học được thêm thứ gì ngoài khả năng chịu đau.

Nhẫn nhịn nỗi nhớ, nỗi cô độc, nhẫn nhịn một mình khóc thầm giữa đêm khuya, nhẫn nhịn trái tim đau đớn ứa máu, vậy mà ngoài mặt vẫn mỉm cười như vô sự…

Xương cốt của tôi dường như bị người ta đập nát từng cái, từng cái một, phần da thịt sưng phồng lên lại tiếp tục bị trượng dài giáng xuống mãnh liệt. Thậm chí tôi còn cảm nhận được chiếc trượng dài lúc này đang ướt đẫm máu tươi, bị gió thổi khô rồi lại dính vào lớp máu nóng ấm, ướt đẫm mới, sau đó lại bị làn gió đầu hè khẽ thổi khô đi.

Một lúc lâu sau, người cung nữ già có lẽ nhớ ra lời dặn dò của Hoàng hậu phải tra khảo ra đồng đảng, hoặc giả đang tò mò trước sự im lặng của tôi, liền bước lại gần nâng cằm tôi lên, cau chặt đôi mày truy hỏi: “Nói mau, ai là đồng đảng của ngươi? Ai đã xui khiến cho ngươi mưu hại Hoàng thượng?”

Thân thể bị trói chặt trên chiếc ghế, tôi mở miệng định nói không ngờ nôn ra một ngụm máu. Mùi mặn tanh của máu dường như truyền ra từ trong tạng phủ chứ không chỉ từ vết thương bị đánh ở miệng.

Tôi hổn hển thở, ho vài tiếng, cuối cùng cũng yếu ớt mỉm cười nói: “Nếu bà vẫn còn một chút lòng nhân từ thì hãy cho ta được chết một cách nhanh chóng, ở nơi cửu tuyền, Ninh Thanh Vũ này vẫn cảm kích vô cùng, còn về thị phi trắng đen trong việc này, đâu còn quan trọng gì nữa”.

Người cung nữ già nheo tịt mắt lại, khóe mắt khẽ giật vài lần. Bà cúi người xuống, mỉm cười khiến cho khuôn mặt già nua càng thêm nhăn nhúm, gần như thì thầm bên tai tôi: “Người… quyết tâm tìm đến cái chết sao? Là muốn bảo vệ kẻ chủ mưu đứng sau lưng mình? Vì người khác mà bị đánh đập cho tới chết, ngươi không cảm thấy uất ức sao?”

“Uất ức?” Tôi cười khẩy. “Thời đại nào trong Hoàng cung chẳng có những oan hồn lòng đầy uất ức? Ta không phải người đầu tiên cũng chẳng phải kẻ sau cùng, hà tất phải cảm thấy uất ức chứ?”

“Ha ha, chiêu nghi tuổi vẫn còn trẻ mà đã nhìn thấu hồng trần vậy rồi”.

Ba năm sống trong thâm cung, tôi vẫn luôn luôn lạnh lùng đứng một bên xem nhân tình thế sự diễn ra nơi Hoàng cung trọng địa này. Đằng sau những nét huy hoàng, sang trọng kia, ẩn giấu những âm mưu và quyền thế, rốt cuộc có biết bao máu và nước mắt, đã chẳng còn ai có thể nói rõ được nữa.

Cho dù là Hoàng cung Nam Sở hay Đại Chu, dưới trời đất này, tất cả đều lạnh lẽo, chẳng thể nào chờ đợi được những ngày xuân ấm áp hoa nở thật sự nữa rồi.

Tôi khép bờ mi xuống, thì thầm nói: “Ta cầu xin đấy, cô cô”.

Người cung nữ già nhìn tôi đầy nghi hoặc, im lặng khoảng nửa tuần hương mới khẽ than dài một tiếng: “Ninh chiêu nghi, nếu như có cảm thấy uất ức, sau khi chết cũng đừng tìm đến những nô tài hèn mọn này, muốn trách thì phải trách bẩm sinh dung mạo quá xuất chúng, diễm lệ. Những người có tài sắc vẹn toàn khó tránh khỏi khổ nạn, đắng cay. Chiêu nghi là người thông minh, tự nhiên trong lòng đã hiểu rõ”.

Chẳng qua người cung nữ già muốn nói với tôi rằng, người muốn đẩy tôi vào chỗ chết không phải là cung nữ hèn mọn như mình mà thôi.

Mỉm cười bình thản, tôi khẽ thì thầm: “Cảm tạ”

Bà ta quay người lui xuống, vẫy tay ra hiệu cho người thái giám hành hình, rồi quay lại nhìn tôi sau đó nhanh bước đi mất.

Ánh mắt nhìn tôi sau cùng ấy không biết là chán nản hay là thương xót, nhưng tôi dám tin chắc rằng từ nay về sau, tôi sẽ không bao giờ còn phải trằn trọc mất ngủ, cố gắng gạt bỏ hết mọi ác mộng và niềm vui, mở to mắt đợi chờ trời sáng nữa.

Khi chiếc trượng dài kia giáng xuống lần nữa, đã không còn đập vào chỗ mà nó đáng đặt nữa. Eo, lưng thậm chí của lục phủ ngũ tạng đều như bị đập nát, không phải là nỗi đau đớn xé da xé thịt nhưng lại có thể khiến tất cả hơi thở đều dồn vào trong bụng, thậm chí còn vượt quá sức chịu đựng của tôi. Cuối cùng tôi chẳng còn bất cứ sức lực nào để phát ra tiếng động khi trượng kia tiếp tục giáng xuống.

Đau khổ, đây có lẽ là nỗi đau khổ cuối cùng trong cuộc đời tôi rồi chăng?

Tình cảm thắm thiết, lưu luyến không quên, sau cùng vẫn cứ là một cánh nhạn cô đơn vỗ cánh bay về cuối chân trời, kiếp lục bình trôi dạt theo làn nước mà thôi.

Trang Bích Lam, đây là vận mệnh của muội hay sao? Đây là số phận của cuộc tình thanh mai trúc mã của hai chúng ta chăng?

Muội đã tốn công vô ích chờ đợi huynh ba năm? Tốn công vô ích chịu đựng nỗi đau nhung nhớ suốt ba năm, cuối cùng đã có thể kết thúc rồi.

Chỉ hận là, ngay trước lúc chết lại còn làm liên lụy Nam Nhã Ý, bị gả cho loài lang sói độc ác, không biết số phận mai này sẽ ra sao.

Hình như chịu thêm vài trượng, tôi đã hoàn toàn mất hết cảm giác, cả trí não đều phủ một màu đen u ám, tối mịt, dường như quay trở về giấc mộng ngọt ngào, thanh bình vào thời thơ ấu.

Giấc mộng rất ấm áp, cảm giác như chỉ còn một bước nữa thôi là tôi có thể đi tới không gian mà mình hằng mong ước.

Giữa trời hè nằng gắt, hai bé trai, bé gái tầm tám, chín tuổi đang nằm nghỉ bên gốc cây liễu cạnh hồ sen. Đứa bé gái ánh mắt trong trẻo, giống như thủy tinh đen có thể nhìn thấu đáy, nét đẹp thanh tao, nụ cười ngây thơ, vô tư. Cô bé nằm nũng nịu bên cạnh bé trai, thì thầm bên tai: “Bích Lam ca ca, muội muốn ăn ngó sen. Muội muốn ăn ngó sen mềm mềm, giòn giòn”.

“Ngó sen à…” Bé trai tỏ ra ngần ngại, tựa lưng vào thân liễu lớn thẳng, nhìn ra hồ đầy lá biếc sen hồng than dài một tiếng: “Bây giờ vẫn chưa có ngó sen đâu. Hay thế này, ta sẽ lấy hạt sen cho muội ăn có được không?”

“Ưm, như vậy sẽ đắng lắm…”

“Hạt sen đắng là bởi vì tâm sen đắng. Bỏ hết tâm sen, nấu một bát chè với đường, làm sao mà đắng được chứ?”

“Có thật không?”

“Vũ Nhi có tin ca ca không?”

“Tin…”

Tin, tôi hoàn toàn tin Trang Bích Lam.

Kể từ khi chàng đem bát chè sen nấu đường cho tôi, tôi liền tin theo chàng.

Hạt sen bỏ tâm đi quả nhiên không còn đắng, thanh nhã ngọt ngào, cũng giống như khoảng thời gian tươi đẹp của chúng tôi từ khi còn thơ ấu cho tới thời trưởng thành, ngay cả đôi chút vị đắng nhẹ lướt qua rồi cũng mất ngay. Tuy rằng sau đó mẫu thân lâm bệnh qua đời, phụ thân hy sinh vì đất nước, tôi vẫn tin tưởng vào tương lai tràn đầy hạnh phúc của hai chúng tôi.

Môn đăng hộ đối, hữu hảo bao năm, tướng mạo cân xứng, thanh mai trúc mã, tình đầu ý hợp…

Hơn nữa khi chúng tôi còn nhỏ, trưởng bối hai bên gia đình đã định hôn ước.

Tuy nhiên do cha mẹ đều đã qua đời, tôi được dì, cũng là Đỗ thái hậu Nam Sở bấy giờ đón vào cung chăm sóc, tôi chưa bao giờ nghi ngờ về tương lai hạnh phúc hoàn mỹ giữa chúng tôi và cả cuộc sống nương tựa lẫn nhau đến hết cuộc đời này.

Thế nhưng tôi thật sự không ngờ được rằng bốn chữ “hồng nhan họa thủy[3]” lại theo sát với cuộc đời mình như vậy.

[3]. Sắc đẹp là mầm mống của tai họa.

Hôn ước do hai bên cha mẹ định ra từ nhỏ trong mắt của hôn quân vô đạo Nam Sở Lý Minh Xương chẳng khác nào một tờ giấy lộn. Khi hắn nhận ra người em họ như tôi có thể làm lu mờ hết các mỹ nhân trong tam cung lục viện của mình, cũng là lúc kiếp nạn của hai gia đình ập đến.

Tình yêu thương và bao bọc của Đỗ thái hậu không thể ngăn chặn nổi dã tâm ác độc của con trai mình… Nếu như hắn có thể đặt dã tâm đó vào việc chính sự thì Nam Sở cũng chẳng đi đến bước đường diệt vong như hiện nay.

Khi tôi trốn tiệt trong cung Đức Thọ không rời nửa bước, tên hôn quân này liền đem theo nỗi dục vọng đã bị quyền thế đẩy lên đỉnh cao nhất, đi tới tẩm cung của mẫu hậu mình.

Vào buổi chiều mùa hè năm đó, nếu như không phải Trang Bích Lam quá đỗi nhớ nhung, cải trang thành một tiểu thái giám lặng lẽ vào thăm thì kết cục sau này liệu có khác đi chăng?

Tuy rằng hạnh phúc cả đời tôi bị hủy hoại, nhưng toàn thể gia đình Trang Bích Lam vẫn là quan lại trọng thần của Nam Sở. Nói cho cùng, phụ thân của chàng Trang Dao cũng là một đại tướng kỳ tài nổi danh bốn biển, vô cùng hiếm có. Có lẽ thời gian lâu rồi, Trang Bích Lam cũng sẽ quên đi đã từng có một vị hôn thê từ thuở thanh mai trúc mã, dần dần mở rộng tấm lòng, tiếp nhận một người phụ nữ hiền lương thục đức khác, bình yên vô sự sống nốt quãng đời còn lại.

Thế nhưng vào lúc Trang Bích Lam vì vị hôn thê của mình mà đánh ngất đế vương một nước, thì uy danh vang dội của nhà họ Trang đã biến thành mối họa còn đáng lo ngại hơn cả kẻ thù ngoài biên giới phía Nam.

Đỗ thái hậu bao bọc cho tôi, nhưng lại không chịu bảo vệ Trang Bích Lam đã dám đánh ngất hoàng nhi của bà, đồng thời nhiều lần khẳng định bản thân đã nhìn nhầm người: “Đứa trẻ nhà họ Trang này, nhìn bề ngoài nho nhã, lễ độ, tại sao lại có thể làm ra những chuyện đại nghịch bất đạo thế này?”

Trang Bích Lam bị bắt ngay tại chỗ rồi đem nhốt vào thiên lao, toàn bộ người nhà họ Trang đều bị bắt giữ, chờ xét xử sau. Cùng lúc đó, Lý Minh Xương cũng triệu hồi Trang Dao về Kinh thành gấp, rồi bày ra cạm bẫy, sau cùng bắt luôn cả phụ thân chàng.

Họ bị định tội mưu phản, xử chém toàn gia, chu di cửu tộc.

Điều may mắn duy nhất là vào đêm trước khi hành hình, một vài tướng lĩnh trung thành với nhà họ Trang đã âm thầm tương trợ, sau cùng giải cứu được hai cha con họ Trang ra ngoài. Cũng vào đêm hôm đó, đại lao Bộ hình máu chảy thành sông, càng chứng thực tội danh mưu phản của Trang gia. Ngày tiếp theo, cả nhà từ già đến trẻ, không phân biệt nam, nữ, tất cả đều bị chém đều thị chúng.

Sau khi hai lực lượng trung thành trong hàng võ tướng của Nam Sở là Ninh gia và Trang gia bị hủy hoại, sức phòng ngự quân sự của Nam Sở rớt xuống ngàn trượng, vì vậy mới tạo ra cơ hội cho Đại Chu từ phương Bắc thừa cơ tiến xuống, chỉ trong thời gian ngắn ngủi ba năm đã phải chịu họa diệt vong.

Sau khi Trang Bích Lam bị bắt, Đỗ thái hậu thấy tôi cầu xin khổ sở nên cho phép đến thăm chàng một lần.

Bị giam cầm trong thiên lao bẩn thỉu, thân mang gông cùm, thân hình chàng vẫn hiện lên nét anh tuấn, rắn rỏi như thường.

Cách nhau song sắt nhà lao, quay lưng lại phía tôi, chàng khẽ cất tiếng: “Nếu như không thể cứu vãn được nữa, muội cũng không cần phải khổ sở vì ta. Nếu như… có cơ hội gặp được người tốt khác thì cứ vui vẻ mà sống tiếp”.

Tôi đột nhiên nhớ đến đôi nam nữ đã nhảy sông tự vẫn vì bị gia đình ngăn cấm, sụt sùi, kìm nén nước mặt, nhìn chàng mỉm cười nói: “Nếu như ông trời không cho, thì còn có một hồ sen tịnh đế thanh tao, thơm ngát. Bích Lam, hai ta… sẽ không bao giờ phải cô độc thế này nữa”.

Thế nhưng chúng tôi còn đáng thương đáng tiếc hơn đôi nam nữ kia. Hai người ôm nhau nhảy hồ tự vẫn, hồn phách thân thể đến khi chết vẫn không rời được nhau, tuy sinh ra khác chốn nhưng sau cùng khi chết đi vẫn được chôn chung một mộ. Họ vẫn được ông trời thương xót, dùng hoa sen tịnh đế để bày tỏ sự luyến tiếc, xót xa. Còn hai chúng tôi đã yêu thương nhau biết bao năm nay, sống chẳng được bên nhau, chết cũng không được hợp táng, sau này cũng chẳng có bất cứ văn nhân thi sĩ nào tán thưởng thương xót. Thậm chí nhà họ Trang còn phải gánh trên mình tội danh đại nghịch bất đạo, tiếng xấu ngàn đời.

Chỉ không biết, sau khi con người ta chết đi, linh hồn có còn tồn tại nữa không, để cho hai chúng tôi có thể tìm thấy nhau, yêu thương, nương tựa vào nhau ở một thế giới khác?

Trang Bích Lam không hề trả lời câu hỏi của tôi, thậm chí chẳng buồn quay người lại, chỉ cúi thấp đầu xuống, để một vài lọn tóc tơi tả bên vai, che đi một bên khuôn mặt vốn dĩ đã rất khó nhìn thấy, khiến tôi chẳng thể thấy được nét vui buồn trên khuôn mặt chàng nữa.

Tôi cảm thấy hơi thất vọng, lấy từ trong người ra một chiếc lược tùy thân bằng gỗ, thì thầm gọi chàng: “Bích Lam, huynh có thể tiến lại gần đây được không? Muội muốn chải lại đầu cho huynh”.

Chàng từ từ quay đầu sang rồi lại nhanh chóng quay về, sau đó than thở: “Vũ Nhi, muội mau đi đi, nơi này bẩn thỉu, không phải là chỗ mà muội nên lui tới”.

Không phải là chỗ mà tôi nên tới lẽ nào là chỗ mà chàng nên ở hay sao?

Cổ họng nghẹn tắc khiến cho trái tim cũng đau đớn theo. Tôi ngồi xổm xuống, đặt chiếc lược gỗ lên mặt đất, trong lòng vô cùng buồn bã, thì thầm nói: “Muội đi đây. Huynh hãy nhớ kỹ… nhất định phải quay lại tìm muội. Muội rất sợ phải một mình… đơn côi lạnh lẽo”.

Sống cũng được mà chết cũng xong, đều phải nhớ là quay về tìm gặp muội.

Huynh tất nhiên hiểu rõ ràng, từ nhỏ đến lớn cho dù là buồn vui sướng khổ, muội vẫn luôn hy vọng có thể tựa vào huynh. Nếu như ở một thế giới khác, muội nhất thời không tìm thấy huynh, với tài trí tuyệt đỉnh của mình, huynh đương nhiên sẽ biết phải làm thế nào để tìm được muội.

Còn chưa nói hết lời, lệ đã nhòe mi, tôi vội vã quay người bước ra bên ngoài nhà lao.

“Vũ Nhi”.

Lúc này chàng đột nhiên quay người lại, thì thầm gọi tên tôi.

Tôi dừng bước lại, không dám nhìn chàng, chỉ sợ chàng sẽ nhìn thấy khuôn mặt tôi đã ướt đẫm lệ nhòa.

Thời gian lúc này bỗng ngưng đọng lại, chỉ nghe thấy chàng khẽ cất tiếng: “Vũ Nhi, ta không cho phép muội có ý coi nhẹ mạng sống. Ta không hề bỏ cuộc, đã có sự sắp xếp đâu vào đấy rồi. Muội… hãy chờ ta”.

Tôi vẫn chẳng thể nào làm rõ được, câu nói “đã có sự sắp xếp đâu vào đấy” của chàng là sợ tôi tìm đến cái chết mà cố ý nói ra để an ủi hay thật sự là đã có cứu binh tương trợ. Thế nhưng ít nhất tôi có thể đoán được, nếu như đây là cuộc mưu phản thật sự, thì phụ thân của chàng – Trang Dao đại tướng quân tuyệt đối không bao giờ quay về Thụy Đô đâm đầu vào chỗ chết.

Mãi cho tới khi chàng rời khỏi kinh đô, cho tới khi gia đình chàng bị chém đầu thị chúng, cho tới khi hai cha con chàng chiếm cứ được vùng Tây Nam Giao Châu một mình gây dựng cơ đồ, tôi cũng chưa từng gặp lại chàng một lần, thậm chí không thể nhận được chút tin tức nào cả.

Hậu cung sâu thẳm, giang sơn nặng gánh cũng chẳng thể nào ngăn được nỗi nhớ nhung đau đớn.

Hạt sen bỏ tâm đi không còn đắng, con người nếu bỏ đi trái tim có lẽ cũng chẳng còn đớn đau.

Đợi chờ mòn mỏi, tôi cũng trở thành một người không trái tim, quên đi cái gọi là tương tư, cái gọi là tình yêu.

Trước kia, đó là một giấc mộng trong trẻo,tuyệt đẹp tựa như hoa lê.

Xuân đã tận, hoa đã tàn, rụng rơi đầy mặt đất, đã sớm biến thành bụi trần, dù cho có than khóc thế nào cũng chẳng thể đổi lại một lần hoa lê tựa tuyết, sắc xuân ngập tràn.

Cây tương tư, tháng năm trôi, hoa sen vô cớ bị gió thu thổi tàn[4].

[4]. Câu này dịch nghĩa từ câu “Tương tư thụ, lưu niên độ, vô đoan hựu bị tây phong ngộ” trong bài từ Mô ngư nhi – vấn liên căn hữu ti đa thiểu của Nguyên Hiếu Vấn.

Nói cho cùng, tôi vẫn chẳng thể nào chấp nhận được một tình yêu duy nhất trọn đời trọn kiếp chỉ có một lần lại có thể kết thúc âm thầm, lặng lẽ như vậy. Vào thời khắc sắp sửa giã từ nhân thế, tôi vẫn không dừng được mà hồi tưởng về chàng.

Đôi mắt đó, ánh mắt đó, nụ cười dịu dàng ấm áp đầy tình ý đó…

Tôi đưa tay ra, nắm được bàn tay chàng như mong ước, rất ấm áp, gân cốt rõ ràng, hơi thô ráp, không còn được mịn màng, đẹp đẽ như đôi bàn tay chỉ luôn gảy đàn trước kia.

“Bích Lam…” Tôi thì thầm gọi tên chàng, dường như cất thành tiếng mà dường như đọng lại nơi cổ họng.

Ngón tay lạnh giá khẽ rung động, dường như đã nhìn thấy được người thiếu niên anh tuấn, dịu dàng đứng bên hồ sen sanh biếc, thoang thoảng hương thơm.

Phía sau lưng được người ta thận trọng đỡ lấy, có người dùng giọng nói dịu dàng, ấm áp thì thầm bên tai tôi: “Nàng nói cái gì? Nàng muốn thứ gì? Ta nghe không rõ…”

Giọng nói rất quen tai, nhưng không phải là giọng của Trang Bích Lam. Giọng nói ấm áp, dịu dàng đó, đừng nói là cách biệt ba năm, cho dù là ba mươi năm sau, tôi cũng sẽ không thể nào quên được.

Thế nhưng tôi cũng chẳng thể nào nhớ ra đây là giọng nói của ai.

Tôi cố gắng mở mắt để nhìn rõ xem đó là ai, thế nhưng mí mắt trĩu nặng, khó khăn lắm mới mở ra đôi chút, nhưng chỉ nhìn thấy một khoảng trắng mơ hồ, giống như màn sương mờ mịt, u tối. Ánh sáng khẽ xuyên qua mí mắt khiến cho tôi cảm thấy chói lóa, không nhìn rõ được cảnh tượng trước mắt.

“Ai, là ai…?”

Tôi lại thì thầm cất lời hỏi, giọng nói yếu ớt đến mức bản thân tôi cũng không nghe rõ.

Lẽ nào tôi vẫn còn chưa chết? Tôi cảm nhận được thân thể nặng nề đau đớn của mình, tuy rằng đã mềm nhũn đến mức không thể cử động, nhưng từng cơn đau thấu tim vẫn liên hồi nhói lên. Ngay cả những cử động khẽ khàng như nhấc tay lên cũng khiến tôi mồ hôi đầy trán.

Giọng nói mơ hồ, không rõ như vậy, không ngờ người kia lại nghe thấy, thì thầm trả lời bên tai tôi: “Đường Thiên Trọng. Ta là Đường Thiên Trọng. Ninh Thanh Vũ, nàng có nghe thấy rõ không? Nàng có nghe thấy ta đang nói chuyện với nàng không?”

Đường Thiên Trọng, Đường Thiên Trọng…

Không có bằng cớ gì, tôi chẳng thể nào hét lớn cho người ta biết rằng kẻ hạ độc Đường Thiên Tiêu thật ra chính là hắn. Nhưng bản thân tôi cũng biết rõ, bản thân hắn cũng biết rõ, chuyện của Đường Thiên Tiêu, hắn đã làm liên lụy đến tôi.

Tôi nỗ lực muốn nhấc người dậy, nói chuyện cùng với hắn, nhưng sau cùng vẫn tốn công vô ích, ngược lại càng khiến cho vết thương ở bụng bị tác động mạnh, một dòng máu tanh xộc lên, tôi nôn ra máu.

“Ninh Thanh Vũ”.

Lần này giọng nói của Đường Thiên Trọng gấp gáp mà cao vút, kèm trong đó là nỗi kinh hoàng, hoảng loạn. Điều này khiến cho tôi không thể nào hiểu nổi người đàn ông lạnh lùng, đáng sợ chẳng khác nào bảo kiếm sắc nhọn, vào thời khắc này sao có thể lại bị kích động và lo lắng đến vậy.

Còn đôi vai tôi dường như được người ta ôm chặt hơn trước, hơi ấm lạ lẫm lặng lẽ truyền sang cơ thể tôi.

Có lẽ, hắn thật sự đã yêu tôi?

Có rất nhiều người đàn ông sẽ nhớ mãi không quên người phụ nữ mình tình cờ gặp gỡ. Sau lần gặp gỡ vội vã ấy, thông qua việc lý tưởng hóa, mỹ lệ hóa hình ảnh đó trong lòng, người phụ nữ đó đã biến thành một chiếc bóng diệu kỳ, đẹp đến mức khó diễn tả bằng lời, thành mộng tưởng tuyệt mỹ trong lòng người đàn ông đó.

Mỹ nhân tựa hoa cách tầng mây[5], chỉ vì mình và mỹ nhân bị ngăn cách tầng mây, xa cách nhau, điều duy nhất có thể nhìn thấy chỉ là thân hình yểu điệu, khí chất xuất trần, vì thế mới khiến người đó thương nhớ vạn phần.

[5]. Mỹ nhân tựa hoa cách tầng mây là dịch nghĩa từ câu thơ “Mỹ nhân như hoa cách vân đoan” trong bài Trường tương tư của Lý Bạch.

Lớp sương mù mịt trước mắt đã dần dần biến thành màu đỏ sau khi tôi nôn ra máu, màu sắc càng ngày càng đậm hơn, sắp sửa đọng thành một màu đen u ám.

Đôi mắt mơ màng cố sức mở ra nhưng càng ngày càng chẳng thấy tiêu điểm, tôi đưa tay lên, nắm được vạt áo của ai đó.

“Đường… Đường Thiên Trọng, ta đã từng cứu ngài, vào… hai năm trước…” Tôi cố gắng nói ra từng từ, nỗ lực đã người đó có thể nghe rõ được lời nói của mình.

“Ừ, ta biết điều đó. Ngay… vào buổi tối hôm gặp lại, ta đã nhận ra nàng. Chỉ hận…”

Hắn không hề nói ra mình hận cái gì, chỉ nghe thấy tiếng nghiến răng ken két truyền tới tai.

Tôi khẽ mỉm cười, hổn hển hít thở, chẳng bận tâm đưa bàn tay đang ướt đầy máu nắm vào vạt áo của hắn rồi thì thầm nói: “Nếu như… ngài còn niệm tình ta đã từng cứu mạng, xin hãy… đem ta ra khỏi cung, chôn ở… mộ phần nhà họ Ninh”.

“Ninh Thanh Vũ”. Hắn thét lên thất thanh, giọng nói giống như thể vừa gánh chịu mất mát gì to lớn lắm vậy.

Sau khi thổ lộ tâm sự, mong muốn lâu nay, tôi khẽ thở phào nhẹ nhõm, khẽ động con ngươi, cố gắng nhìn về nơi có ánh sáng, dường như đang thấy được bầu trời xanh biếc mênh mông, bát ngát, trong trẻo giống như đôi mắt của Trang Bích Lam vậy.

“Hoàng cung này đã giam cầm ta ba năm rồi… ta không muốn, không muốn…”

Từ lâu tôi đã không muốn ở lại, đã muốn rời khỏi nơi này rồi.

Thế nhưng tôi bắt đầu bị người ta giám sát, chẳng thể đi đâu được, sau khi Hoàng cung bị công phá, tuy rằng có cơ hội rời khỏi Hoàng thành, nhưng lại chẳng biết nên đi về đâu.

Binh đao loạn lạc, tôi làm sao có thể đi đến tận cùng trời cuối đất tìm kiếm bóng hình của chàng được chứ? Sau khi nhà tan người mất, chàng còn có thể chấp nhận được một thanh mai trúc mã trước kia, nay đã biến thành hồng nhan họa thủy làm hại cả đời mình?

Tất cả những lời nói này sau cùng đều bị tắc nghẽn nơi cổ họng, không thốt ra được nửa câu.

Khi đôi mắt bất lực đóng lại, giọt lệ ấm nóng từ từ chảy xuống gò má.

Bích Lam, muội không chờ được nữa rồi.

Xin hãy để muội lặng lẽ, mãi mãi chờ đợi huynh ở một nơi huynh có thể tìm thấy muội một cách dễ dàng!

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.