Hội Camel họp khẩn ở nhà Stone tại khu nghĩa trang sáng hôm sau buổi viếng thăm nhà DeHaven. Stone giải thích cặn kẽ với Milton và Caleb chuyện xảy ra tối hôm trước.
“Có lẽ chúng đang theo dõi bọn mình”, Caleb lo sợ liếc mắt ra cửa sổ.
“Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu chúng không theo dõi bọn mình đấy”, Stone bình tĩnh trả lời.
Ngôi nhà nhỏ trang trí sơ sài với cái giường cũ, bàn làm việc lớn xiêu vẹo chất đầy báo chí, những kệ chất đầy sách đủ thứ tiếng - tất cả các thứ tiếng mà Stone biết nói, căn bếp nhỏ với cái bàn ăn liêu xiêu, phòng tắm nhỏ xíu và cuối cùng là mấy cái ghế chẳng ra bộ nào đặt quanh lò sưởi - nguồn nhiệt chính trong nhà.
“Chuyện này không làm anh lo lắng sao?”, Milton hỏi.
“Tôi sẽ lo lắng nhiều hơn nếu chúng cố tình giết tôi, việc chúng có thể làm dễ dàng - nhưng chúng dường như không muốn giết tôi - mặc cho Reuben có hành động dũng cảm như thế nào”.
“Rồi sao?”, Reuben hỏi. Ông đang ngồi trước lò sưởi, cố xua đi cái lạnh. Ông nhìn đồng hồ, “Đến giờ tôi phải đi làm rồi”.
Caleb đồng tình, “Tôi cũng phải đi”.
Stone nói, “Caleb, tôi có vào phòng đọc Sách Quý Hiếm của thư viện được không?”
Caleb có vẻ không chắc chắn, “À, tình hình bình thường thì có thể. Ý tôi là tôi có quyền dẫn người vào phòng đọc, nhưng tôi sẽ bị xét hỏi tại sao dẫn những người đó vào. Họ thật sự không thích nhân viên đem người thân bạn bè vào nếu không thông báo trước. Và kể từ cái chết của Jonathan, họ siết chặt hơn nữa quy định này”.
“Nếu người khách đến thăm thư viện là một học giả nước ngoài thì sao?”, Stone hỏi.
“À, tất nhiên là khác rồi. Anh biết học giả nước ngoài nào?”
Reuben chen vào, “Tôi nghĩ anh ta đang nói về mình đó, Caleb”.
Caleb nhìn Stone sững sờ. “Oliver! Tôi không thể nào tiếp tay đưa một người giả mạo vào Thư viện Quốc hội, Chúa ơi!”
“Vô vọng, Chúa không giải quyết vấn đề này đâu. Tôi cho rằng chúng ta đang ở trong tình trạng nguy hiểm vì chúng ta có liên quan đến Jonathan DeHaven. Vì thế ta cần phải biết là ông ta tự nhiên lăn ra chết hay là bị sát hại. Việc xem xét nơi ông ta chết có thể giúp tôi phần nào xác định được nguyên nhân cái chết”.
“Tôi biết nguyên nhân cái chết rồi”, Caleb thông báo. Mọi người đều ngạc nhiên. “Tôi vừa mới biết sáng nay”, ông nhanh nhẹn nói. “Một người bạn trong thư viện gọi cho tôi, Jonathan chết vì lên cơn đau tim đột ngột theo kết quả giám định pháp y”.
Milton nói, “Mọi ngườichết vì bệnh ấy đấy. Đơn giản là chết vì tim ngừng đập”.
Stone có vẻ trầm ngâm, “Milton nói đúng. Điều đó có nghĩa là nhân viên giám định pháp y cũng không biết Dehaven thật sự chết vì nguyên nhân gì”. Ông đứng dậy và nhìn xuống Caleb, “Tôi muốn vào thư viện ngay sáng hôm nay”.
“Oliver ơi, anh không thể nào đột nhiên xuất hiện và tự nhận rằng mình là một học giả nào đó”.
“Tại sao?”
“Không thể được. Phải trải qua rất nhiều nghi thức và thủ tục phải tuân thủ”.
“Tôi sẽ nói tôi đang du lịch ở thành phố này với gia đình và rất ao ước được nhìn thấy bộ sưu tập sách vĩ đại nhất thế giới, một quyết định bất ngờ vậy thôi”.
“Có thể”, Caleb miễn cưỡng chấp nhận. “Nhưng lỡ họ hỏi anh câu hỏi gì đó mà anh không biết trả lời thì sao?”
“Chẳng có vai nào dễ diễn xuất hơn vai học giả đâu, Caleb”, Stone trấn an. Caleb cảm thấy mình bị xúc phạm vì lời nhận định này, nhưng Stone phớt lờ sự khó chịu của bạn mình và nói thêm, “Tôi sẽ có mặt ở thư viện lúc 11 giờ”. Ông viết gì đó vào miếng giấy nhỏ và đưa cho Caleb, “Thông tin về vai diễn của tôi đây”.
Caleb đưa mắt đọc rồi nhìn lên một cách ngạc nhiên.
Sự việc này kết thúc buổi họp của Hội Camel mặc dù Sotne kéo Milton ra một chỗ và âm thầm nói chuyện với Milton.
Vài giờ sau tại thư viện Caleb đang trao sách cho Norman Janklow, một ông lão thường đến phòng đọc sách.
“Sách đây, ông Norman”, anh đưa ông cuốnGiã từ vũ khícủa Ernest Hemingway. Janklow là một độc giả cuồng nhiệt của Hemingway. Cuốn tiểu thuyết ông cầm trên tay là ấn bản đầu tiên, phía trong có lời đề tặng của Hemingway.
“Tôi biết chứ ông Norman, tôi cũng vậy”. Ấn bản đầu tiên được Hemingway ký tặng rao bán với giá ba mươi lăm nghìn đôla, Caleb biết số tiền này vượt quá khả năng tài chính của mình và có lẽ của ông Janklow nữa. “Nhưng ít nhất ông vẫn có thể cầm nó trên tay”.
“Tôi đang chuẩn bị viết tiểu sử của Hemingway đấy”.
“Tuyệt quá”. Sự thật là ông Janklowđang chuẩn bịviết tiểu sử Hemingway gần được hai năm rồi. Tuy nhiên ý nghĩ này làm ông hạnh phúc, và Caleb thì sẵn lòng phụ họa với ông ấy.
Ông Janklow cẩn thận chạm vào tập sách. “Họ sửa lại bìa rồi”, ông cáu kỉnh.
“Đúng vậy. Nhiều tuyệt tác của văn học Mỹ ấn bản đầu tiên được lưu trữ trong những điều kiện không tốt trước khi phòng Sách Quý ra đời. Chúng tôi đã giải quyết hàng chồng sách ùn đống nhiều năm liền. Quyển sách ông đang cầm đã quá hạn lưu trữ rất lâu rồi, có thể do lỗi hành chính. Chuyện này xảy ra khi ông có gần cả nghìn cuốn sách dưới một mái nhà”.
“Tôi ước gì họ giữ sách quý nguyên vẹn như hình hài chúng ngày xưa”.
“Mục đích chính của chúng tôi là bảo quản sách. Thế nên ông mới có cuốn sách này để thưởng thức, bởi vì nó đã được chúng tôi bảo quản nhiều năm”.
“Đã có lần tôi gặp Hemingway”.
“Tôi nhớ ông có nói với tôi rồi”.Hơn một trăm lần rồi.
“Ông ta thật vĩ đại. Chúng tôi đã uống rượu cùng với nhau trong một quán cà phê ở Cuba”.
“Được rồi, tôi nhớ rất kỹ câu chuyện này. Tôi xin phép để ông bắt đầu nghiên cứu”.
Ông Janklow đeo kính vào, lôi ra mấy tờ giấy, viết chì và đắm chìm vào thế giới phiêu lưu lạ kỳ mà Ernest Hemingway tưởng tượng ra và viết thành những áng văn xuôi.
Đúng 11 giờ, Oliver Stone hiện diện ở phòng đọc Sách Quý Hiếm trong bộ vét ba mảnh, tay cầm ba-toong. Mái tóc bạc trắng chải gọn gàng, bộ râu cũng được tỉa tót gọn ghẽ cùng với cặp kính đen làm cho mắt của ông trông cứ như mắt con bọ. Vẻ ngoài cùng với dáng đi khom khom làm ông già đi hai mươi tuổi so với tuổi thật của mình. Caleb bước ra khỏi bàn làm việc ở cuối phòng, gần như không nhận ra người bạn của mình.
Khi người phục vụ thư viện bước đến bên Stone, Caleb vội vã nói, “Tôi sẽ tiếp đón ông ấy, Dorothy à... Tôi có quen biết quý ông này”.
Stone trau chuốt cho vai diễn của mình bằng cách chìa ra một tấm danh thiếp màu trắng, “Tôi đến để tham quan thư viện như đã hứa, thưa ông Shaw”. Ông nói tiếng Anh đặc sệt giọng Đức.
Thấy Dorothy, người tiếp tân, nhìn ông tò mò, Caleb nói, “Đây là Giáo sư Aust. Chúng tôi quen nhau một năm trước tại hội thảo sách ở… Frankfurt, phải vậy không thưa ông?”
“Không, ở Mainz”, Stone chỉnh lại. “Tôi nhớ rất rõ, bởi vì đó là mùa măng tây trắng Spargel. Và tôi luôn đến hội thảo ở Mainz để thưởng thức loại măng tây trắng đấy”. Ông nở nụ cười toe toét với Dorothy, cô ta mỉm cười rồi quay trở lại làm việc.
Một người đàn ông khác bước vào phòng đọc và ngừng lại, “Caleb, tôi muốn nói chuyện với anh một chút”.
Caleb hơi tái mặt, “Ô, chào Kevin. Kevin đây là, ơ…, Giáo sư Aust đến từ Đức. Ông Aust, đây là Kevin Philips, quyền giám đốc Bộ phận Sách Quý. Sau khi Jonathan…”.
“À, vâng, cái chết bất ngờ của ông DeHaven”, Stone xem ngang. “Rất đáng tiếc. Rất đáng tiếc”.
“Ông cũng biết Jonathan à?”, Kevin hỏi.
“Chỉ nghe danh tiếng của ông ấy thôi. Tôi nghĩ rõ ràng là bài phân tích về James Logan với bản dịch tác phẩmNhững vần thơ luân lýcủa nhà thơ Cato là những dòng văn cuối cùng của ông ta”.
Philips có vẻ hơi hổ thẹn, “Tôi phải thừa nhận rằng mình chưa đọc bài viết ấy”.
“Bài phân tích về bản dịch đầu tiên của Logan được viết từ Bắc Mỹ, rất đáng nghiên cứu, thưa ông”, Stone chân thành khuyên.
Philips nói, “Chắc chắn tôi sẽ đọc bài viết này. Thật trớ trêu là thỉnh thoảng các thủ thư cũng có nhiều thời gian để đọc sách”.
“Vậy tôi sẽ không dám phiền ông đọc thêm mấy cuốn sách của tôi nữa”, Stone mỉm cười. “Dù sao chúng cũng được viết bằng tiếng Đức”, ông cười tủm tỉm.
“Tôi đã mời Giáo sư Aust đến tham quan thư viện trong khoảng thời gian ông thăm thú ở đây”, Caleb giải thích. “Một ý định bất chợt thôi”.
“Tất nhiên chúng tôi rất lấy làm vinh dự được đón tiếp ông”, Philips nói, sau đó hạ thấp giọng: “Caleb, anh có nghe báo cáo về cái chết của Jonathan chưa?”
“Vâng, tôi có nghe”.
“Vậy có nghĩa là ông ta bị đau tim đúng không?”
Caleb nhìn Stone, người đang nằm ngoài tầm nhìn của Kevin và gật đầu.
“Vâng, tôi nghĩ chính xác là thế “.
Phillips lắc đầu, “Chúa ơi, ông ta trẻ hơn tôi. Tim ngừng đập, đúng không?”. Ông quyền giám đốc nhìn về phía Stone, “Giáo sư Aust, ông có muốn tôi dẫn ông tham quan không?”
Stone cười, chống người nặng nề lên cây ba-toong của mình, “Không, thưa ông Philips, tôi lại muốn ông dành thời gian đó để đọc bài biết về Những vần thơ luân lý của bạn ông”.
Philips cười, “Thật thú vị khi thấy những học giả lỗi lạc vẫn còn giữ được khiếu hài hước như thế”.
“Tôi sẽ cố gắng, thưa ông”, Stone cúi thấp người để chào.
Sau khi Philips bước ra, Caleb và Stone đi vào kho sách.
“Sao anh biết Jonathan có một bài nghiên cứu đó?”, Caleb hỏi khi chỉ còn hai người với nhau.
“Tôi bảo Milton tìm trên mạng. Anh ta kiếm được trên internet và gửi cho tôi một bản sách. Tôi đọc qua bài viết đó phòng trường hợp có ai đó như Philips xuất hiện, để chứng tỏ mình là học giả thật ấy mà”. Thấy Caleb có vẻ hơi khó chịu, Stone hỏi, “Sao thế?”
“À, chỉ là cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương đôi chút khi thấy sao mà đóng vai một học giả lại dễ dàng đến thế”.
“Tôi chắc chắn sự xác nhận của anh về học vị của tôi khiến cho sếp của anh nghĩ tôi đúng là một giáo sư”.
Caleb tươi tỉnh lên, “Tôi chắc là mình đã góp phần vào thành công này”. Ông nói nhún nhường.
“Được rồi, diễn lại chính xác những gì anh thấy vào ngày hôm đó đi”.
Caleb thuật lại khi ông lên tầng cao nhất. Ông chỉ vào một vị trí, “Xác ông ta ở đó”. Caleb rùng mình, “Chúa ơi, rất khủng khiếp anh ạ”.
Stone quan sát xung quanh cẩn thận và chỉ vào thứ gì đó trên tường.
“Cái gì vậy?”
Caleb nhìn lên, “Ồ, vòi phun dập lửa đấy”.
“Các anh sử dụng nước để dập lửa trong kho sách à?”
“Không, đó là hệ thống khí Halon 1301”.
“Halon 1301 ư?”, Stone hỏi.
“Là một loại khí gas, dù thật ra nó là chất lỏng. Nhưng khi chất lỏng này bắn ra khỏi vòi, nó biến thành khí gas để dập lửa mà không tổn hại đến sách”.
Stone phấn chấn hẳn lên, “Dập lửa bằng khí gas! Lạy Chúa! Caleb ơi, anh không thấy gì sao?”
Điều Stone đang đề cập đến bỗng nhiên rõ ràng hơn với Caleb, “Ý anh là Jonathan bị ngạt khí gas ư? Không thể nào, Oliver à. Đó không thể là nguyên nhân cái chết của Jonathan được”.
“Tại sao lại không thể?”
“Bởi vì một người có vài phút chạy ra khỏi phòng trước khi bắt đầu cảm nhận được khí gas phun ra. Đó là lý do tại sao người ta sử dụng Halon ở những nơi có nhiều người lui tới. Trước khi khí gas phun ra, còi báo động sẽ vang lên inh ỏi. Thật ra chúng tôi đang thay hệ thống nhưng chẳng phải vì nó gây nguy hiểm”.
“Thế tại sao phải thay?”
“Halon ảnh hưởng đáng kể đến tầng ô-zôn. Thật sự mà nói, trong khi Halon vẫn được sử dụng và tái chế, nước Mỹ đã cấm sản xuất Halon 1302 kể từ giữa thập niên 90 rồi - mặc dù chính quyền liên bang vẫn còn sử dụng chất này nhiều nhất trên thế giới”.
“Anh biết rõ về Halon nhỉ?”
“Ấy, tất cả nhân viên đều được huấn luyện kỹ càng về hệ thống này ngay sau khi nó được lắp đặt. Và tôi tự tìm hiểm thêm về đề tài này thôi”.
“Tại sao?”
Ông thốt ra, “Bởi vì tôi vào kho sách này thường xuyên, và tôi chẳng muốn chết thê thảm. Anh biết là tôi nhát như cáy mà”.
Stone xem xét cái vòi phun, “Khí gas được trữ ở đâu?”
“Đâu đó dưới tầng hầm của tòa nhà, rồi gas sẽ được bơm lên đây”.
“Anh nói nó được trữ dưới dạng lỏng rồi hóa thành khí ga sau khi phun ra ngoài?”
“Đúng vậy. Nhờ tốc độ mà chất lỏng được đẩy ra khỏi vòi biến thành gas”.
“Chắc khí ga phải lạnh lắm nhỉ?”
“Nếu anh đứng trước vòi phun, anh sẽ chết cóng”.
“Còn gì nữa không?”
“Nếu anh ở trong phòng quá lâu, anh sẽ bị ngạt thở. Nguyên tắc sống còn là: Nếu không có đủ ôxy để ngọn lửa tiếp tục cháy thì cũng không có đủ ôxy để thở”.
“Khí gas này có thể gây đau tim không?”
“Tôi không biết, nhưng đâu có quan trọng. Hệ thống này chưa bao giờ bất thình lình kích hoạt. Cả tòa nhà có thể nghe thấy tiếng còi báo động. Jonathan chỉ không nghe được nó khi ông ta đã chết rồi”.
“Nếu còi báo động bị cắt thì sao?”
“Ai làm điều đó nhỉ?”, Caleb hoài nghi.
“Tôi không biết”.
Vừa nói, Stone vừa nhìn công-tơ lớn gắn vào trụ đỡ kệ sách, “Có phải là ống thông hơi của hệ thống HVAC* không?”. Caleb gật đầu, “Cái gì đó rớt lên công-tơ đó”, Stone nói, chỉ vào hai cái vỉ ống thông hơi bị bẻ cong. [* HVAC: hệ thống đốt nóng, tản nhiệt, và điều hòa nhiệt độ.]
“Chuyện này xảy ra khi người ta đem xe sách vào ra ấy mà”.
Stone nói, “Tôi sẽ nói Milton nghiên cứu về hệ thống Halon để xem còn gì nữa không. Reuben cũng có vài người bạn ở Phòng Điều tra D.C. và FBI từ thời còn làm tình báo quân sự. Tôi đã nhờ Reuben gọi cho họ để hỏi thăm về vụ điều tra”.
“Chúng ta có cuộc hẹn với ông Vincent Pearl chiều nay ở nhà Jonathan mà. Vì những tình tiết mới này, anh nghĩ chúng ta có nên hoãn lại cuộc họp không?”
Stone lắc đầu, “Không, mấy tên theo dõi chúng ta có thể tìm chúng ta bất cứ nơi đâu, Caleb à? Nếu ta gặp nguy hiểm, tôi thà cố gắng tự mình tìm ra sự thật còn hơn ngồi chờ nguy hiểm rớt xuống đầu”.
Lúc họ rời khỏi kho sách, Caleb lẩm bẩm, “Sao hồi đó tôi không tham gia một câu lạc bộ sách nào đó tuy nhàm chán mà nhẹ nhàng nhỉ?”