Bóng Ma Trong Mây

Chương 117: Đỉnh Thạch Thiên P1





*Đỉnh Thạch Thiên (đỉnh Ngàn Đá) là đỉnh chính dài khoảng 50 km từ bắc xuống nam, rộng 10 km từ phía đông về phía tây của dãy núi nằm phía tây thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, cao 1.775 m so với mực nước biển.

Đội Ương ca đi phía trước, Chiêm Đài bị bỏ lại một quãng xa, tay ôm chiếc đầu thú to tướng, tay kéo hai cây gậy sắt nặng trịch theo sau.

Đầu thú lẫn gậy sắt đều rất nặng, trên trán và sống mũi cậu đã lấm tấm mồ hôi.

Phương Lam xót cậu, toan đưa tay túm lấy gậy sắt cầm, nhưng đã bị cánh tay cậu ngăn lại.

“Không sao.” Cậu thở hổn hển, dẩu môi ra hiệu về phía trước: “Chiêu trò thường dùng của mấy gánh hát để “chỉnh” người mới ấy mà.

Rõ ràng là có thể bảo vài người cùng khiêng, hoặc dứt khoát cho đồ lên xe mà đẩy, nhưng lại cứ phải để một thanh niên khỏe mạnh mang vác.

Đợi đến khi tới nơi, tôi vừa mệt vừa khát, tu ừng ực hết một bình nước to vào bụng, thì sẽ chẳng còn muốn ăn cơm nữa, vừa khéo tiết kiệm tiền cơm tối cho chị ta.

Một công ba việc.”
Cậu lắc đầu tỉnh bơ như không, rồi dịu dàng nhìn cô, khẽ nhếch miệng cười: “Đi chậm thôi, không sao đâu.”
Một giây sau, cậu liếc nhìn phía trước, thấy đã bị bỏ lại một quãng xa, bấy giờ cậu mới đanh giọng, khẽ nói: “Em sao thế? Tôi đã sắp xếp ổn thỏa cho em, để em ngủ một giấc.

Sao em lại tìm được đến đây? Lần này lại gây ra rắc rối gì cho tôi rồi?”
Cậu không nhắc đến còn đỡ, vừa nhắc đến chuyện này, Phương Lam liền bốc hỏa.

Cô hạ thấp giọng, giận dữ nói: “Tôi còn chưa tìm cậu tính sổ, cậu đã trả treo trước.

Cậu học đâu ra cái trò tà đạo bỏ thuốc mê với tôi vậy?”
Cậu cười tinh quái, tuy hai tay đều bận mang đồ, nhưng vẫn hạ thấp vai xuống, cọ vào đầu vai cô: “Ăn miếng trả miếng.

Tôi còn phải cảm ơn A Lam đã truyền cảm hứng cho tôi đấy.

Nếu không phải hồi đó em đánh thuốc mê tôi, thì lần này tôi khó có thể nghĩ ra được cách ấy.”
Phương Lam cứng họng, không nói nên lời.

Lúc cô đang định đáp trả, cậu bỗng nghiêm mặt, nhìn thẳng vào cô: “Nói đi, lần này em lại gây ra phiền phức gì cho tôi hả?”
Cô muốn cãi lại rằng cô chưa bao giờ mang đến phiền phức cho cậu, tuy nhiên, cô còn chưa nói ra khỏi miệng thì không hiểu sao đã bắt đầu cảm thấy chột dạ.

Từ Trùng Khánh đến Trường Sa, Hạ Môn, rồi lại đến Hồng Kông, lần nào mà chẳng là cô ôm tâm trạng liều chết mạo hiểm, chiến đấu ngoan cường không màng tính mạng.

Nhưng sau mấy phen thập tử nhất sinh, vẫn là cậu quật cường, một mực kéo cô lại.


Hôm nay, rõ ràng là cậu gặp chuyện nguy hiểm khó giải quyết, song cũng vẫn là cậu tìm mọi cách giữ cô trong phòng khách sạn để bảo vệ cô.

“Có gì đâu.” Giọng cô khàn khàn, không hề bận tâm đến người đàn ông của phái Đại Đồng, Trùng Dương mà mình đã mạo phạm.

Có lẽ ngay chính bản thân cô cũng không nhận thức được cái gọi là cảm giác an toàn.

Chẳng biết bắt đầu từ khi nào, trong mắt cô, Chiêm Đài đã không còn là cậu công tử bột 19 tuổi nữa.

Cậu đã trở thành một chàng trai có thể làm được tất cả những điều có thể lẫn không thể vì cô, là người đàn ông đầu đội trời chân đạp đất, dù núi Thái Sơn có sụp đổ thì mặt vẫn không biến sắc, là người đàn ông dám nghĩ dám nói, dám làm, vừa sáng suốt vừa trải đời, lại quyết đoán.

Dường như cho dù trời có sập xuống, vẫn có cậu thay cô chống đỡ.

Phương Lam nhỏ nhẹ hỏi cậu: “Tôi không sao, còn cậu đã bố trí xong cả chưa?”
Chiêm Đài chẳng ừ hử gì.

Ông Lâm đã lên kế hoạch và giăng lưới suốt mấy tháng, mọi thứ đã sẵn sàng, chỉ chờ một đòn cuối cùng này, nên đương nhiên là đã chuẩn bị hết sức đầy đủ.

Sau khi cô hôn mê ở đền Tấn Từ, cậu đưa cô về khách sạn, thu xếp đâu ra đấy, rồi tức tốc chạy đến cửa hàng rượu và giấm ở Phủ Ninh Hóa.

Ông Lâm mặc một chiếc áo dài màu xanh lam, chắp tay sau lưng đứng ở sân sau, thản nhiên nhìn cá hồi mắt đỏ đang bơi tung tăng trong vò rượu.

Nghe thấy tiếng động phía sau, ông thậm chí chẳng buồn quay đầu lại đã hỏi luôn: “Xong chưa?”
Chiêm Đài nhỏ giọng đáp: “Rồi ạ.”
Ánh mắt ông chợt tối đi, ông khẽ thở dài và xoay người lại nhìn cậu từ trên xuống dưới một lượt, còn hừ một tiếng: “Cho dù Âm Sơn Thập Phương có bao nhiêu bảo vật truyền đời đi chăng nữa cũng chẳng đủ cho thứ tai họa nhà cháu.

Hương Ô Kim có lẽ là vật mà sư tổ của cháu yêu quý nhất, cất giữ đã nhiều năm.

Đến tận lúc chết, ông ấy vẫn còn muốn mang theo vào quan tài, vậy mà lại bị cháu châm như châm điếu thuốc thế kia.

Đúng là phí quả trời.”
Giọng điệu của ông rất gay gắt, khuôn mặt nghiêm nghị, ánh mắt dò xét: “Ông đã tặng vòng Càn Khôn cho con bé, đủ để bảo vệ con bé bình an vô sự.

Cháu hà tất phải vẽ vời thêm thêm việc, còn dùng cả hương Ô Kim cho nó nữa?”
Chiêm Đài bướng bỉnh ngẩng đầu lên, sắc mặt sầm sì như bầu trời sắp nổi cơn dông: “Tiền tài là vật ngoài thân.

Từ trước đến nay, Chiêm Đài cháu không quan tâm đến những thứ đó.

Huống hồ, hầu hết pháp khí sư phụ cháu để lại toàn thứ có lai lịch không rõ ràng.

Cháu một thân một mình, vô tình trở thành thần giữ của của phái Âm Sơn Thập Phương, cháu cũng chỉ mong cuộc sống của người cháu yêu được suôn sẻ mà thôi.”
“Bọ ngựa bắt ve, chim sẻ rình sau, chuyến này rất khó khăn và nguy hiểm.

Nếu ngộ nhỡ…” Cậu hít một hơi thật sâu: “Nếu ngộ nhỡ không may, sau này cháu không thể bầu bạn bên cô ấy, mong rằng hương Ô Kim có thể bảo vệ cô ấy phần nào.”
Ông Lâm phá lên cười, nhưng ánh mắt cực kỳ nghiêm nghị, hai hàng lông mày dần dần cau lại vì tức giận: “Sao? Nếu thật sự có điều sơ sẩy, ông đã ở đây, sao có thể để cháu gặp chuyện được chứ? Cháu coi thường ông quá đấy.”
Mặt Chiêm Đài vẫn không đổi sắc, thái độ vẫn cứng rắn như đá tảng: “Ông là ông, cháu là cháu.

Nếu xảy ra chuyện, chưa biết ai sẽ bảo vệ ai đâu, ông cần gì phải tự tin thế?”
Những lời nói của cậu không chỉ ngông cuồng mà còn rất bất kính, khác hẳn với sự khéo léo, lễ phép và hiểu chuyện thường ngày của cậu.

Có vẻ như cậu đang cố gắng tạo ra hình tượng bản thân đã trưởng thành, hoàn toàn có thể một mình đảm đương mọi việc.

Nhưng cậu lại gồng quá sức, lúc này hăng quá hóa dở, cho nên lại chẳng khác gì một đứa trẻ đang cáu kỉnh.

Ông Lâm nhìn thấu Chiêm Đài, nghe giọng điệu khiêu khích của cậu, ông chẳng những không tức giận mà còn gật đầu ra chiều khen ngợi.

“Cháu nói đúng, là ông suy nghĩ nông cạn, không nên khinh thanh niên nghèo.” Ông cười tủm tỉm và vỗ vai cậu.

Trong vò rượu, con cá hồi mắt đỏ vốn đang bất động dưới làn nước, lập tức run lẩy bẩy khi Chiêm Đài đến gần miệng vò.

Cảnh tượng cậu nổi điên, cầm huyên Bạch Cốt nện lão lần trước như vẫn sờ sờ trước mắt.

Cậu khẽ cười một tiếng, nhếch miệng giễu cợt: “Ra đi, lần này còn phải nhờ vào lão đấy.”
Cá hồi mắt đỏ bị mất miếng vảy lớn, vẫn mang dáng vẻ yếu ớt, được ông Lâm vớt ra, bỏ vào trong túi Càn Khôn màu đen.

“Sau khi nhìn thấy xác sáp bọc da người hồi rằm tháng Bảy, ông bắt đầu dò tìm hang ổ của chúng, cũng không khó để tìm được những xác sáp trong hình dạng con người của nhóm múa gậy sắt.

Người quản lý phố Trường Phong mang họ Thẩm, thích nhất là nhận nuôi những bé gái bị bỏ rơi.

Các bé gái được cô ta nhận nuôi đều rất nhanh nhẹn, giỏi mấy trò tạp kỹ, múa gậy, là khách quý thường xuyên được mời tham gia các trò chơi dân gian địa phương.”
“Cô ta nhận nuôi cả những đứa trẻ ốm đau quặt quẹo mà người khác chẳng buồn nhận nuôi.

Ông thử đi dò la thì biết cái gọi là tài nghệ dùng thuốc chữa bệnh cao siêu của cô ta, chẳng qua là biến những đứa bé ốm đau bệnh tật đó thành xác sáp bọc da người, thành cái xác không hồn.”
“Nhưng cô ta cắm chốt ở Long Thành đã nhiều năm, đất có thổ công, sông có hà bá.


Sau khi biết được nơi ở của người đàn bà họ Thẩm kia, ông không dám manh động.

Ông sợ không biết rõ thực hư về người phụ nữ này, rồi sẽ rơi vào bẫy của cô ta.”
“Cũng may mà người Myanmar rất thận trọng, bọn họ vẫn đang trong quá trình thu thập hồn chết đuối khắp nơi, chưa luyện được thành lưới hồn.

Ông chỉ cần sắp đặt trước khi bọn họ giăng bẫy là có thể tóm gọn một mẻ.”
“Đệ nhất kiệt tác của Long Thành là tháp đôi Văn Tuyên*, sừng sững như hai cột trụ song song chống trời, do sư tổ Diệu Phong tu sửa vào cuối thời nhà Minh, bên trong có cất giấu xá lị.” Ông Lâm nói: “Long mạch bắt nguồn từ đây, trấn giữ sông Phần và hai ngọn núi đông, tây, tạo thành thế đối lập với núi Kế Châu, núi Thiên Trung*, cũng là một nơi hoàn hảo để hội tụ âm khí.”
*Tháp đôi Văn Tuyên là biểu tượng của thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.

*Núi Kế Châu nằm ở phía đông bắc thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.

*Núi Thiên Trung hay còn gọi là núi Thiên Đài, vốn là một ngọn đồi diện tích khoảng 540m2, cao 13,6m, nằm cách huyện Nhữ Nam 2 km về phía bắc và là ngọn núi thấp nhất ở Hà Nam, Trung Quốc.

“Địa điểm hội tụ âm khí là nơi thích hợp nhất để luyện lưới hồn.

Khi mới đến Long Thành, ông đi thăm dò xung quanh tháp đôi Văn Tuyên đầu tiên, nhưng tháp đôi nằm cách con sông Phần một đoạn, nếu chọn nơi này làm cơ sở để luyện lưới hồn thì phải đi đi lại lại, cũng không thuận tiện.”
“Ông mai phục bên cạnh tháp đôi mấy ngày mà không thấy có gì bất thường, càng chẳng thấy kẻ nào khả nghi đến đây tạo xác sáp bọc da người vào nửa đêm.”
“Trên đường Trường Phong có một quán trà, là nơi các đạo hữu khắp chốn tụ tập nghe ngóng tin tức.

Ông giả vờ là khách qua đường, vào quán uống trà và hỏi thăm, thì nghe nói có một tòa nhà bỏ hoang đã nhiều năm ở phố Vương Thôn Nam, quận Tiểu Điếm, là địa điểm ma ám nổi tiếng.

Ban ngày ban mặt cũng có tiếng sói tru quỷ khóc, vô cùng đáng sợ, ngày thường không có ai dám bén mảng tới gần.”
“Một tòa nhà năm tầng bị bỏ hoang giữa phố xá sầm uất chính là một nơi lí tưởng để giết người và giấu xác, nghe có vẻ rất đáng ngờ.” Ông Lâm mỉm cười: “Vì vậy, địa điểm thăm dò thứ hai của ông chính là tòa nhà ma ám trong lời đồn.”
Đêm đến, ông khoác lên mình chiếc áo đạo sĩ màu xanh để đi thám hiểm tòa nhà ma ám trên phố Vương Thôn Nam.

Ông cất những lá bùa vàng trong ngực áo, cầm chùy Kim Cương, canh chừng bên ngoài tòa nhà đã ngả màu vàng đất.

Tòa nhà nằm ở ngã tư, chính là nơi âm khí hội tụ.

Tuy xung quanh có nhiều cửa hàng, nhưng các cửa hàng này chỉ có quy mô nhỏ và mặt tiền rất xập xệ.

Ngay sát tòa nhà là một khách sạn thuộc chuỗi khách sạn Bảy Ngày* mới mở không lâu.”
*Tên chuỗi khách sạn bình dân của Trung Quốc, thuộc tập đoàn 7 Days.

“Đã là khách sạn bình dân, ít nhiều sẽ có những thứ dơ bẩn.” Ông Lâm hừ nhạt: “Ông gấp lá bùa thành hạc giấy, vẩy nước bạch quả lên, chỉ trong một đêm mà tóm được kha khá nhện mặt quỷ, song lại không thấy bóng dáng một xác sáp bọc da người nào cả.”
Thấy có gì đó không ổn, ông Lâm nhíu máy, vén tay áo lên, rồi lẻn vào tòa nhà bị ma ám theo lối cửa chống cháy của khách sạn.

Tòa nhà này được xây dựng từ những thập niên 80, đến nay đã bị bỏ hoang được 20 năm, nền xi măng đã nứt toác, gạch đá lổn nhổn, rơi vãi tứ tung.

Tuy nhiên, điều bất ngờ là dây leo bò trên tường lại xanh um, phủ kín cả tòa nhà, thậm chí các cửa sổ cũng được bao phủ bởi đám dây leo.

Lòng bàn tay nóng lên, ông nắm chặt chùy Kim Cương, tay kia lấy ra một vốc đỗ xanh, ném thẳng vào cơn gió lạnh đang thốc tới.

Những hạt đỗ rơi lách tách trên bậc xi măng đã cũ nát không thể tả.

Một nơi không có bóng ma, càng không có tiếng người.

Ông đi dọc theo hàng lang tối om om dường như dài vô tận.

Tòa nhà này là kiểu nhà ống, những cánh cửa quen thuộc đều mở toang, để lộ kiến trúc kỳ lạ bên trong.

Mắt ông nhìn thẳng, miệng thầm đếm số cửa.

Khi đếm đến cánh cửa số 12, ông đột ngột quay đầu lại, vung mạnh chùy kim cương về phía sau, vẽ nên một luồng ánh sáng vàng óng trong bóng tối.

Những đường vân lộn xộn xuất hiện, giống như một tấm kính trong suốt vô hình đang vỡ vụn trước mặt ông.

Ông cười khẩy, lại lấy lá bùa đã được gấp thành hạc giấy ra, đốm lửa trên đuôi hạc giấy hệt những con đom đóm lập lòe.

Từng con hạc giấy lần lượt đập vào tấm kính đã bị vỡ, hành lang trống trải như có tiếng kêu rên vang vọng, và thoang thoảng mùi lá khô bị cháy.

Ông Lâm khịt mũi, trong lòng đã chắc đến 90%.

Sau đó, ông áp hai lòng bàn tay vào nhau và miết một cái, ngọn lửa màu đỏ rực bùng lên trên chiếc chùy Kim Cương, như thể ngọn đuốc cháy phừng phừng trước gió.

Ông chỉ vào tấm kính đã vỡ vụn trước mặt, lạnh lùng đếm: “Một, hai …”
Còn chưa đếm đến ba, ông đã lập tức vung chùy lên.

Có điều, chiếc chùy không nhằm về phía tấm kính bị vỡ mà là quặt một góc chín mươi độ, nện thẳng vào một cánh cửa mở toang đen sì sì.

Ngọn lửa chiếu sáng bên trong cánh cửa, những dây leo xanh tốt rậm rạp bao phủ khắp căn phòng lập tức rụt lại như phải bỏng, cành lá đập vào vách tường và cửa sổ như đang kêu rên.

“Tiểu yêu dây nho trinh nữ.” Ông Lâm thở dài: “Tòa nhà năm tầng bị ma ám chẳng qua là do ba con tiểu yêu dây nho trinh nữ đã trưởng thành, độc chiếm nơi đầy âm khí này để chuyên tâm tu luyện.

Dần dà theo thời gian, đã tạo thành một số tin đồn ma quỷ, làm ảnh hưởng đến việc phá dỡ tòa nhà.”
“To gan gớm.” Ông Lâm cảm khái: “Có điều, nếu yêu tinh nho trinh nữ đã chiếm cứ nơi đó, thì xác sáp bọc da người sẽ không đến đây nữa.”

Ông đã thu phục được đám tiểu yêu, song vẫn không có manh mối gì về cứ điểm luyện hồn chết đuối.

Long Thành rộng gần 10.000km2 với chi chít những ngõ hẻm, rốt cuộc một nơi vừa gần nước, vừa có thể tích âm khí, và thuận tiện cho việc luyện xác sáp da người sẽ nằm ở đâu?
“Mãi sau này, khi biết tin sẽ có màn trình diễn lễ hội ánh sáng vào đêm Trung thu, ông mới lại có manh mối.” Ông Lâm nói: “Luyện hồn xác chết thành lưới hồn để ám vào ông, nếu chỉ dựa vào người bị tế sống thì e rằng không đủ.

Ngày rằm tháng Bảy, đám cô hồn dã quỷ đồng loạt ra khỏi ổ, xác sáp bọc da người đứng trên cây gậy sắt đã thu hút đám ma đói ma khát bu lại ngay trước con mắt của đám đông.

Xem ra, bọn họ đã hết sức nôn nóng, không từ thủ đoạn.

Một tháng nữa là đến rằm Trung thu, liệu bọn họ có nhân lễ hội biểu diễn ánh sáng vào đêm rằm để thực hiện những hành động khác không? Ông lại tiếp tục điều tra, và phát hiện một điều hết sức trùng hợp.”
“Trung thu năm nay là ngày 24 tháng 9 dương lịch.

Mà, Trung thu hai mươi tư năm trước, cũng rơi vào ngày 24 tháng 9.

Vào đêm Trung thu hai mươi tư năm trước, Long Thành của thành phố Thái Nguyên đã tổ chức lễ hội ánh sáng “Đêm biển than đá” tại công viên Nghênh Trạch gây chấn động cả Bắc Kinh.”
Chiêm Đài nhíu mày, khẽ hỏi: “Cô hồn dã quỷ được tự do đi lại vào đêm rằm tháng Bảy là thuận theo tiết khí, vậy buổi trình diễn ánh sáng đêm Trung thu thì có gì đặc biệt?”
Ông Lâm đứng dậy, trên khuôn mặt đen sạm hằn những nếp nhăn hiện lên nỗi xót thương cho muôn dân.

“Những ngày lễ tết là dịp để các gia đình sum họp, nô nức rủ nhau đi ngắm cảnh đẹp, tận hưởng giây phút hạnh phúc bên người nhà.

Nhưng ai có thể ngờ được dưới cảnh tượng trăm hoa khoe sắc, tràn ngập tiếng nói cười lại cất giấu ý định giết người?”
“Bất luận là cảnh đếm ngược đông vui của đêm giao thừa, hay “đêm biển than đá” rực rỡ, dòng người đông nghìn nghịt như thể sóng biển ngày nổi bão, dần dần mất kiểm soát, trọng lượng của máu thịt vượt xa khối lượng của những giọt nước.

Chỉ cần một người vấp ngã thì cả núi người phía sau sẽ ầm ầm ngã xuống theo, giống như quân cờ domino bị sụp đổ vậy.”
“Đêm Trung thu năm đó, hơn một trăm người đã chết ở phía đông cầu Thất Khổng, trong công viên Nghênh Trạch.

Đêm Trung thu hai mươi tư năm sau chính là năm nay, lại có màn trình diễn ánh sáng, thảm kịch hơn một trăm người vô tội bị chết sẽ tái hiện.

Cháu bảo công viên Nghênh Trạch có phải là một nơi hoàn hảo để gom âm khí không?”
Chiêm Đài nhướng mày, nhẹ giọng nói: “Bọn họ dụ ông đến đây, nhưng ông chần chừ chưa ra tay.

Bọn họ vội vã thu thập hồn chết đuối, thậm chí không tiếc tế sống những bé gái vô tội, có lẽ là để đợi đến đêm Trung thu lần này.

Hơn một trăm mạng người chết dưới cầu Thất Khổng trong công viên Nghênh Trạch năm ấy, sẽ nhân lúc nửa đêm âm khí mạnh đến độ oán khí ngút trời, kết hồn chết đuối đã luyện được thành lưới hồn.

Dùng sự tàn độc, nặng âm khí của lưới hồn để đối đầu với chùy Kim Cương thuần khí dương trong tay ông, bọn họ sẽ nắm được phần thắng.”
Bàn tay cậu chậm rãi nắm thành quả đấm: “Thay vì ngồi chờ chết, chi bằng chủ động xuất kích.

Chẳng trách ông lại chọn ra tay vào đêm Trung thu…”
Bởi vì nếu tiếp tục kéo dài thì sẽ muộn mất.

Chiêm Đài không nói ra câu này, chỉ lặng lẽ nhìn vào mắt ông Lâm.

“Đêm nay, ông và cá hồi mắt đỏ sẽ phục sẵn dưới cầu Thất Khổng, bày trận Bát Quái Thập Tuyệt bằng ống mực.” Ông vỗ nhẹ vào cái túi sau lưng, bên trong túi đựng một chiếc hộp nhỏ hình vuông, chắc hẳn là ống mực và chu sa mà ông đã chuẩn bị trước.

“Cháu mang theo mặt nạ đầu thú mà ông vẽ, đi đến quán trà trên đường Trường Phong tìm việc làm, cứ nói là đến xin tham gia vào nhóm biểu diễn trò chơi dân gian của chị Thẩm để kiếm thêm thu nhập.

Ông đã bố trí ổn thỏa, đến lúc đó, cháu trà trộn vào đội ngũ biểu diễn trò chơi dân gian của cô ta.

Sau bữa tối, cô ta sẽ sai cháu mang đạo cụ về nhà trước.”
“Cháu cứ im hơi lặng tiếng bám theo bọn họ, để đảm bảo rằng mục đích cuối cùng của bọn họ là công viên Nghênh Trạch.

Nếu tình hình có thay đổi, cháu tuyệt đối nhớ kỹ phải thông báo kịp thời.” Ông cẩn thận dặn dò cậu.

Chiêm Đài gật mạnh đầu: “Cháu biết rồi ạ.

Đến lúc đó, hai ông cháu ta trong ngoài phối hợp, bắt hết đám yêu ma này tại công viên Nghênh Trạch.

Sau đấy, chỉ cần lưới hồn vào nước là có thể gọi La Sát Mặt Ngựa tới.

Khi đó, tất cả đều xong xuôi, cũng tiêu diệt tận gốc hậu hoạn.”.



Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.