Tạ
Chiêu Anh bỏ chân vịt xuống, lau miệng: “Muội biết từ bao giờ?”
Tôi
cười nói: “Hoàng thượng cẩn thận như vậy, hổ phù lại là tín vật quan trọng, nếu
không phải Yến vương tự mình tới lấy, hoàng thượng sẽ giao ra hay sao?” Thật ra
ngay từ lần đầu tiên gặp hoàng hậu, tôi đã hoài nghi, nhưng không nói gì, bởi
vì còn chưa tới lúc nên nói.
Tạ
Chiêu Anh không nói gì. Tôi còn chưa quen với vẻ mặt nghiêm túc của anh ta,
giống như nhìn thấy một diễn viên hài kịch nghiêm túc đóng phim tình cảm vậy.
Thành thật mà nói, Tạ Chiêu Anh vô cùng anh tuấn, khi nghiêm túc có một loại
khí chất quân nhân trầm tĩnh. Chỉ là, tôi luôn cảm thấy khí thế này có một sự
sắc bén nào đó, chỉ cần không để ý sẽ bị đâm bị thương.
Tôi
hỏi: “Cha có biết không?”
Tạ
Chiêu Anh nói: “Cha biết, nhưng mẹ và những người khác đều không biết.”
Tôi
nói: “Không biết là tốt.” Có một số việc, biết càng ít càng tốt.
Lại
hỏi: “Muội trước đây có biết không?”
Tạ
Chiêu Anh cong khóe môi: “Muội chỉ biết ta thường leo tường vào lúc nửa đêm,
đôi khi gặp một số người lạ.”
“Vì vậy
ca giao hẹn với muội, muốn muội không nói ra ngoài.”
Tạ
Chiêu Anh gật đầu mỉm cười: “Thật thông minh.”
Tôi
ngồi xuống bên cạnh anh ta, đắn đo thật lâu, cuối cùng vẫn hỏi ra miệng: “Nhị
ca… Vậy, nhị ca thật sự của muội đâu?”
Tạ
Chiêu Anh không nhìn tôi, trên mặt bao phủ một tầng cảm xúc phức tạp, giống như
núi xa chìm trong mây mù. Chỉ là, trong ánh mắt anh ta lại viết rõ ràng một
loại đau đớn, giống như điều tôi nói khơi dậy một hồi ức đau khổ nào đó.
Tôi bứt
rứt ngồi bên cạnh anh ta, ánh nến bỗng bắn ra một bông hoa lửa nho nhỏ, tôi
nghe Tạ Chiêu Anh sâu kín kể lại.
“Ta
đứng hàng thứ sáu, phía trên có ba tỷ tỷ, năm huynh trưởng. Mẫu thân ta là thứ
muội của Tạ phu nhân (thứ muội: em gái cùng cha khác
mẹ, mẹ là thiếp), bà còn nhỏ hơn đại ca của ta vài tuổi, tính tình
hoạt bát, thông minh lanh lợi, luôn được tiên đế sủng ái. Năm ta bốn buổi, mẫu
thân khó sinh qua đời. Hai năm sau, tiên đế cũng từ thế. Đại ca thừa kế ngai
vị.” Anh ta hơi dừng lại, rồi tiếp tục nói: “Đại ca luôn có sự kiềm chế nhất
định đối với những huynh đệ khác của ta, nhưng đối với ta, đại khái vì tuổi ta
còn nhỏ, nên vô cùng thương yêu.”
“Nguyên
phối của hoàng thượng là Lưu hoàng hậu, đối nhân xử thế hiền hòa, chỉ có điều
không có con. Mà Triệu thị lại sinh hoàng trưởng tử. Khi đó, trước mặt người
khác, Triệu thị luôn nhu thuận, thông minh, kết thân trên dưới, vị trí dần dần
lên cao. Một nhà Triệu thị bắt đầu đi lên từ khi đó. Lưu hoàng hậu bị bệnh qua
đời, Triệu thị đương nhiên ngồi lên ngôi vị hoàng hậu, hoàng trưởng tử cũng
được sắc phong thái tử. Ta và thái tử cùng tuổi, thân phận lại cao hơn hắn một
bậc, từ nhỏ đã lớn lên bên nhau. Thái tử không trầm ổn trí tuệ như hoàng
thượng, cũng không gian xảo nhạy bén như Triệu thị, là một người rất thành
thật, ôn tồn. Mùa thu Vĩnh Bình năm thứ năm, trong cuộc săn bắn ở Lâm Uyển,
thái tử không đành lòng bắn chết thỏ hoang, bị hoàng thượng trách mắng một
trận. Đối lập rõ ràng là ta vừa đặt bẫy bắt sống một con báo. Hoàng thượng khen
ngợi ta ngay trước mặt mọi người, ta nhìn thấy sắc mặt Triệu thị thay đổi nhanh
chóng.”
Tôi
nghe ra đầu mối: “Bà ta sợ ca uy hiếp đến vị trí thái tử?”
Tạ
Chiêu Anh gật đầu.
“Triệu
gia là sĩ tộc sa sút, Triệu thị trước kia chỉ là một thị thiếp, sau rồi mẫu
bằng tử quý. Triệu gia từ bình dân thăng tới mức quyền khuynh thiên hạ, càng
đạt được nhiều sẽ càng sợ mất đi. Bà ta sao có thể chấp nhận một vật cản như
ta?”
“Bà ta
muốn giết ca?”
Tạ
Chiêu Anh cười nhạt.
“Khi đó
ta còn trẻ, bà ta chỉ dự định cho ra một bài học, khiến ta thức thời hơn một
chút. Hoàng thượng rất nhanh đã phát hiện ra, chỉ là khi đó, thân thể hoàng
thượng đã không được tốt, quốc sự ngập đầu, Triệu đảng bắt đầu rục rịch, hoàng
thượng không có cách nào bảo vệ ta chu toàn. Ta phải chịu một chút khổ cực.”
Anh ta
nói qua loa. Nhưng tôi bỗng nhớ tới những vết thương trên người anh ta, không
có vết nào giống như được tạo thành từ một chút cực khổ. Đàn ông luôn coi nhẹ
những gian nan, khổ cực, bởi vì họ đã trải qua rất nhiều đau thương, mất mát.
“Ta vốn
không muốn ngồi lên ngôi vị hoàng đế kia, chỉ chờ sau khi thành niên sẽ rời
kinh tới đất phong. Nhưng tại năm ta mười bốn tuổi, sông Bích Lạc thay đổi
hướng chảy, vạn mẫu ruộng tốt bị ngập úng, hơn mười vạn bách tính không nhà để
về. Hoàng thượng có ý định để thái tử rèn luyện một chút, phái hắn đi cứu trợ
thiên tai; lại muốn ta rời khỏi sự hãm hại của Triệu thị, cũng đẩy cả ta đi.
Tới khu thiên tai, ta tra ra thân thích Triệu thị và quan viên địa phương tham
ô bạc cứu trợ thiên tai, còn dùng tư hình đánh chết người vạch trần chuyện đó
và định báo lên cấp trên. Thái tử nhu nhược, ta lại tuổi trẻ nông nổi, không
suy nghĩ thấu đáo, chỉ cho rằng đã tìm được biện pháp tốt để lật đổ Triệu thị…”
Anh ta
ngừng lại một chút rồi nói: “Khi đó ta có một nhóm người kề cận, Hàn Diên Vũ,
Úc Chính Huân, và Tạ Chiêu Anh, tất cả đều là những thanh niên hợp tính nhau
khi còn đi học ở Thái Học viện, Tạ nhị và ta là thân thiết nhất, cùng nhau đọc
sách, tập võ. Chúng ta là anh em bà con, bề ngoài lại giống nhau, khi còn bé,
ta gặp rắc rối, luôn là hắn giả thành ta đi chịu phạt.” Anh ta nói rồi cười
cười: “Chỉ có lần đó là hắn kiên quyết phản đối ta buộc tội Triệu gia. Thế
nhưng, ta chỉ cảm thấy mình đã nhịn đủ bà già họ Triệu kia rồi, đâu có nghe
nhiều lời như vậy. Cuối cùng, kết quả đúng như hắn dự đoán, Triệu gia đại thụ
rễ sâu, sao có thể dễ dàng bị lật đổ như vậy? Đại thần vốn giúp ta vạch tội
cũng chỉ muốn mượn cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình, thấy gió chuyển hướng lập
tức xoay người, vứt bỏ ta.”
“Đó là
lần thất bại thảm hại đầu tiên trong cuộc đời ta, lần đầu tiên ý thức được sự
ngây thơ, nông cạn của mình, cũng là lần đầu tiên hiểu rõ uy lực của con dao
quyền lợi hai lưỡi này. Hoàng thượng nóng ruột, bệnh cũ tái phát, vội vàng ban
một chiếu thư phong ta là Yến vương, phái ta tới thành Tây Dao trời cao đất xa,
muốn ta hoàn toàn rời xa quyền lợi. Thế nhưng, hoàng thượng đã đánh giá thấp cự
nham hiểm, độc ác của Triệu thị, người cho rằng chỉ cần đưa ta đi, Triệu thị sẽ
dừng tay, ta sẽ an toàn…”
Ánh nến
khẽ lay động, tôi bỗng cảm thấy hơi lạnh, khép chặt áo choàng. Tạ Chiêu Anh –
Tiêu Huyên, sườn mặt kiên nghị của anh ta phủ một tầng ánh sáng vàng óng, dường
như tôi có thể nhìn thấy trong ánh mắt sâu lắng, trong vắt của anh ta ánh đao,
vệt máu.
“Hộ
tống ta tới đất phong, tổng cộng có một trăm linh bảy người, đều là những cao
thủ đại nội mà hoàng thượng tự mình chọn lựa. Ngoài ra còn có Úc Chính Huân và
Tạ Chiêu Anh chủ động kiên quyết tiễn ta xuất quan. Chúng ta một đường hướng về
phương Bắc, khi tới Định Sơn quan, chỉ còn lại mười bảy người. Chính Huân bị
trọng thương, bị ép ở lại quan nội chữa trị. Nguy hiểm thật sự còn ở quan
ngoại, đội quân tuyệt sát của Triệu thị còn nằm mai phục ngoài biên quan, chờ
thời điểm đưa ta vào chỗ chết. Nếu ta chết ở quan nội, bọn chúng sẽ không thoát
được liên quan, nếu ta chết ở quan ngoại, bọn chúng có thể đổ tội lên đầu nước
Liêu, không có liên quan tới bọn chúng.”
(Đất
phong giống một khu tự trị, được phân chia cho anh em của hoàng đế và một số
chư hầu. Trong chế độ phong kiến, khi hoàng tử trưởng thành sẽ được phong vương
và đất phong để tránh tranh chấp ngôi vị. Tuy nhiên, hàng năm đất phong vẫn
phải đưa cống phẩm vào cung. Quan ngoại và quan nội giống như trong nước và
ngoài nước ấy.)
Anh ta
hít sâu một hơi, buồn bã nói: “Ngày ấy mới là cuối thu, nhưng quan ngoại đã là
mùa đông. Tuyết rơi rất dày, trời đen kịt, buốt giá, kẻ địch tới dồn dập, giết
không xuể, mà những người bên cạnh cứ từng người từng người ngã xuống. Kiếm của
ta nhuộm đầy máu, bị gió lạnh thổi qua rất nhanh đã đóng thành băng, rồi lại
tan vỡ thành từng mảnh khi binh khí chạm vào nhau. Ta không phải người dễ dàng
nhận thua, nhưng cũng không nhịn được mà nghĩ đến cái chết. Cuối cùng, bên cạnh
ta chỉ còn lại một mình Tạ Chiêu Anh. A, lão nhị, sư phụ bất công, truyền thụ
cho hắn một bộ kiếm pháp mà không truyền cho ta, hắn liền mượn cớ đó muốn ta đi
trước. Ta sao có thể chịu để lại huynh đệ chết vì ta? Nhưng cố tình như vậy,
ngay thời khắc mấu chốt, kiếm trong tay ta bị chặt gãy, lão nhị phi thân tới đỡ
cho ta một đao.”
Hô hấp
của tôi ngừng lại trong thoáng chốc.
Tiêu
Huyên nở một nụ cười thê lương với tôi: “Thanh long đại đao, chém sắt như chém
bùn, Tạ lão nhị cho dù kiếm pháp tinh thông, nhưng dáng người còn vị thành
niên, sao có thể chịu được vết thương như vậy? Từ vai trái tới ngực, da tróc
thịt tan, máu chảy như suối. Hắn vẫn dùng khẩu hình để nói với ta: đi. Đến chết
cũng chưa nhắm mắt.”
Tôi
không khống chế được mà bắt đầu run rẩy, trong lòng nghẹn lại, hít thở không
thông: “Vết thương của ca… Vết thương phía sau lưng…”
Tiêu
Huyên cười, đặt tay lên vai: “Không sai, đây chính là vết thương lần đó. Đại
đao xuyên qua thân thể hắn, đâm vào lưng ta. Trên người ta đầy máu của hắn,
trên lưng ta có tính mạng của hắn, dùng một chút sức lực cuối cùng cố gắng chạy
thoát. Ta nghĩ, cho dù chỉ có một mình ta chạy thoát cũng sẽ không làm những
người đã liều mình bảo vệ ta thất vọng. Đời này, ta sẽ luôn ghi nhớ, ta đã giẫm
lên lớp tuyết đọng cao đến mắt cá chân, lảo đảo bước từng bước về phía trước
như thế nào. Sau đó, cho dù có té ngã, ta cũng phải dùng cả tay cả chân bò về
phía trước. Người phía sau chậm rãi giơ đại đao lên, đang định hạ xuống thì một
mũi tên bắn thẳng vào tim hắn…”
“Là
ai?” Giọng nói của tôi chói tai đến mức ngay cả chính tôi cũng không nhận ra:
“Là ai cứu ca?”
Tiêu
Huyên cúi đầu: “Là Lý Văn Trung, Lý tướng quân. Trước khi ta đến, hắn phụng
mệnh đóng quân tại thành Tây Dao. Hắn đến đón ta, vừa khéo vì lo lắng thời tiết
thay đổi nên tới sớm một ngày, mới gặp một màn tàn sát như vậy. Một cung một
tên, cứu được ta.”
Tôi
chậm rãi đứng lên, cảm thấy đầu choáng mắt hoa, đêm khuya thanh vắng, tôi lại
nghe được tiếng giết chóc không ngừng vang lên bên tai. Nụ cười của Tạ Chiêu Anh,
không, nụ cười của Tiêu Huyên, ngập đầy đau xót, tràn ra, chảy vào trong tim
tôi. Đôi mắt tôi cay xè.
Anh ta
nói: “Năm ấy ta mười bốn tuổi, chưa kịp làm lễ trưởng thành đã chết một lần.
Sau khi tỉnh lại, hoàn toàn trở thành Yến vương, lục hoàng tử ngây thơ, lỗ mãng
trong thâm cung đã vĩnh viễn mai táng cùng Tạ Chiêu Anh trong cánh đồng tuyết.
Trên lưng ta là một trăm linh tám mạng người, đó mới chỉ là bắt đầu. Mười năm
qua, bao nhiêu lần ám sát, bao nhiêu người lại hy sinh? Ta vốn không phải kẻ lạnh
lùng khát máu, ta cũng không muốn làm kẻ lạnh lẽo, bạc tình. Ta giẫm lên hài
cốt của người khác để tiếp tục sống, ta phải sống thật tốt, tuyệt đối không thể
phụ tấm lòng của bọn họ. Ta nhớ kỹ từng người trong bọn họ, thề một ngày nào đó
phải đòi lại từng món nợ.”
“Còn Tạ
Chiêu Anh.” Giọng nói của anh ta mềm lại: “Khi hắn tiễn ta xuất quan chỉ nói
với mọi người là đi du học. Hắn không trở về, Tạ thái phó trong một đêm già đi
mười tuổi, còn phải dạy con trai cho lão yêu bà kia. Hàng năm ta quay về kinh,
dùng tên của Tạ Chiêu Anh. Có Hàn tiểu vương gia hỗ trợ che giấu, Tạ nhị công
tử trêu hoa ghẹo nguyệt, hành tung bất định, mãi rồi cũng không còn ai nghi ngờ
nữa. Chỉ là, đôi lúc ta nghĩ, nếu hắn trên trời có linh, thấy mấy người chúng
ta phá hỏng thanh danh vốn đã không được tốt của hắn, không biết sẽ tức giận
thế nào…”
Giọng
nói của anh ta có chút thay đổi, anh ta lập tức dừng lại, quay đầu đi. Bờ vai
anh ta thật to lớn, giống như phi chống đỡ một sức nặng vô hình.
Tôi
không nhịn được mà đi tới, vươn tay, từ phía sau nhẹ nhàng ôm lấy anh ta, tựa
đầu lên vai anh ta.
Anh ta
khẽ run rẩy một cái.
Tôi
nói: “Nhị ca, kẻ sĩ chết vì tri kỷ, cả hai người đều hiểu.”
Đêm đó
chúng tôi không ngủ.
Tôi
ngồi bên Tiêu Huyên, nghe anh ta kể một ít chuyện cũ. Tiêu Huyên không phải
người dài dòng, tất cả những chuyện anh ấy nói đều đi thẳng vào một số điều
trong cuộc sống quân ngũ, thuận tiện khoe khoang mình đã khổ luyện thế nào,
chiếm được sự tín nhiệm và kính yêu của quân sĩ ra sao, vân vân. Sau đó, cũng
nói rất nhiều chuyện về Tạ Chiêu Anh. Tạ Chiêu Anh phóng khoáng, ngang ngạnh,
không thích học hành sách vở, chỉ thích đao kiếm. Tạ thái phó coi thường kẻ vũ
phu, Tạ Chiêu Anh đành vụng trộm học nghệ. Năm đó, bốn người bọn họ, Tiêu
Huyên, Tạ Chiêu Anh, Úc Chính Huân và Hàn Diên Vũ, đều là bạn học, phong lưu
bừa bãi, gây ra không ít chuyện thị phi, ầm ĩ cả trong cung và trường học. Sau
này, Tạ Chiêu Anh qua đời, hàng năm Tiêu Huyên đều mạo hiểm từ thành Tây Dao về
đây để thăm người nhà họ Tạ, thay Tạ Chiêu Anh thể hiện tấm lòng hiếu thuận.
“Tạ phu
nhân không hề nhận ra?”
“Tạ phu
nhân chỉ nghĩ lão nhị đi du học không về. Hắn là con thứ, không cần gánh vác
đại nghiệp của gia tộc, yêu cầu không cao.”
Tôi
bỗng nhiên nghĩ đến một chuyện: “Nhị ca có nhắc tới muội không?”
Tiêu
Huyên liếc mắt nhìn tôi: “Khi đó muội mới mấy tuổi, còn là một nha đầu ngốc,
nhắc tới muội làm gì?”
“Cũng
đúng.” Tôi cười: “Chỉ là, nghĩ đến chuyện ca ấy là ca ca của muội, nhưng muội
chỉ có thể nghe kể về chuyện của ca ấy. Nhị ca giống như một nhân vật trong
truyện vậy.”
Tiêu
Huyên nói: “Cuộc đời lão nhị tuy ngắn ngủi, nhưng thật sự là một câu chuyện cảm
động.”
Tôi
hỏi: “Ca ấy được an táng ở đâu?”
“Tại
thành Tây Dao. Ta lập từ đường cho hắn, nhưng không thể đề tên hắn, đành phải
mượn danh chiến sĩ chết trận biên cương. Ta từng thề, một ngày trong tương lai,
ta quang minh chính đại trở về, nhất định phải hậu táng cho hắn.”
Tiêu
Huyên thở dài một tiếng: “Thật nhanh, vậy mà đã mười năm rồi.”
Mười
năm trời. Một thiếu niên lỗ mãng năm đó đã trưởng thành thành một người đàn ông
thâm trầm, cơ trí, biết bao ân ân oán oán trong đó còn chưa chấm dứt.
Tôi
thay đổi chủ đề: “Ca đã thành thân?”
Tiêu
Huyên cười cười: “Di Tâm? Nàng là con gái của Trịnh quận thủ Thai châu (Châu:
đơn vị hành chính thời xưa, một khu tự trị). Hoàng thượng chỉ hôn
cho ta, nhìn trúng Thai châu ở phía nam thành Tây Dao. Nếu tương lai… triều
đình có động tĩnh gì thì có thể nhờ vào Thai châu để hòa hoãn một chút.”
Tôi
hiếu kỳ: “Nàng thế nào?”
Ánh mắt
Tiêu Huyên buồn bã, nói: “Nàng đã qua đời gần ba năm rồi.”
Sao?
Cũng đã chết?
“Thân
thể nàng không được tốt. Đại phu khuyên nàng không nên có con, nàng không nghe.
Khi mang thai được năm tháng, nàng sinh non. Ta mời rất nhiều đại phu nhưng
người nào cũng bó tay, cuối cùng không cứu được nàng… Nàng là một nữ nhân tốt.”
Tôi
nghĩ, năm tháng, vậy đứa trẻ chắc chắn cũng không còn. Mất vợ mất con, những
người bên cạnh Yến vương điện hạ dường như đều không sống lâu, nếu xem mệnh cho
anh ta, có lẽ chính là Thiên Sát Cô Tinh (mệnh khắc
những người khác, suốt đời cô độc).
Tôi
muốn an ủi vài câu, nhưng vốn từ cằn cỗi, kinh nghiệm nông cạn, lại ma xui quỷ
khiến thế nào mà nói: “Vậy Phỉ Hoa tỷ thì sao?”
Tiêu
Huyên quay đầu lại, nhìn tôi cười. Tôi đỏ mặt, khẽ cúi đầu. Tiêu Huyên thở dài,
lắc đầu, tôi cho rằng anh ta lại định dạy dỗ tôi, thế nhưng anh ta nói: “Ta và
Phỉ Hoa là thanh mai trúc mã, cũng đã từng muốn lấy nàng.”
Anh ta
chỉ nói qua loa nhưng tôi lại nghe được một sự bất đắc dĩ nồng đậm.
“Hiện
giờ không muốn nữa sao?”
“Hiện
giờ ta hoàn toàn không nghĩ tới việc này. Hiện giờ, nữ nhân nào theo ta đều
phải chịu khổ chịu tội, nếu ta thất bại cũng sẽ liên lụy đến nàng, hà tất phải
như vậy? Ta và Tần đại nhân ắt phải đứng hai bên bờ chiến tuyến, nàng đứng ở
giữa cũng khó xử. Ta biết nàng sống tốt là được.”
Tôi
muốn nói, anh đang sợ người bên cạnh anh phải chết. Nhưng lời này không được
hay ho lắm, vì vậy tôi không nói ra miệng.
Một lần
nữa nhắc tới đề tài cũ: “Chừng nào anh về thành Tây Dao?”
Tiêu
Huyên nói: “Hừng đông.”
“Cái
gì?” Tôi giật mình: “Gấp thế sao?”
“Ta đã
ở lại kinh thành đủ lâu rồi.”
“Nhưng
một đống hỗn loạn thế này phải làm sao bây giờ?”
Tiêu
Huyên cười giảo hoạt: “Muội nghĩ vì sao ta phải chạy trốn?”
Tôi
hiểu ra: “Vô sỉ!”
Anh ta
đáp lễ: “Vô lại.”
Tôi tức
giận: “Muội vô lại chỗ nào?”
“Muội
trong sáng ngời ngời? Vậy ở lại làm nhị hoàng phi đi. Giá của Tiêu Lịch trên
thị trường cũng tốt lắm, muội rất nhanh sẽ được làm thái tử phi, sau đó có thể
làm mẫu nghi thiên hạ rồi.”
Tôi
nghe ra đầu mối: “Sao? Sao? Ca sẽ dẫn muội đi à?”
Tiêu
Huyên nhẹ giọng mắng: “Ngốc như heo.” Ngữ khí lại thật mềm.
Cuối
cùng anh ta cũng bắt đầu mắng chửi người, chứng tỏ thần kinh vững chắc của anh
ta đã trở lại, Yến vương đầy tự trách, u ám, xúc động kia lại tạm thời ẩn giấu
bên trong.
Tôi thở
phào nhẹ nhõm, vẻ mặt vô sỉ nịnh nọt bám lên người anh ta: “Nhị ca nghĩa khí
đầy mình, đương nhiên sẽ không bỏ muội ở lại một mình rồi.”
Tiêu
Huyên cười hỏi: “Muội gọi ta là gì?”
Tôi
ngọt ngào nói: “Nhị ca.”
Tiêu
Huyên vươn tay lại đây, tôi cho rằng anh ta muốn vuốt ve gương mặt tôi, ai ngờ
anh ta lại nhẹ nhàng ôm lấy tôi. Tôi nghe được tiếng tim đập trầm ổn có lực của
anh ta, cảm giác ấm áp trong lồng ngực truyền sang tôi.
Anh ta
nói: “Ta vốn sống thay lão nhị, đương nhiên cũng sẽ thay hắn chăm sóc muội.”
Trong
lòng tôi cảm thấy thật ấm áp, vòng tay ôm lấy thắt lưng anh ta.
Tiêu
Huyên rời đi. Anh ta nói với tôi: “Ta có việc, Tử Kính sẽ đưa muội đi. Bọn muội
sẽ đi thẳng về hướng Bắc, qua sông Xuyên chính là Hồ châu. Chúng ta sẽ gặp nhau
ở huyện Nhân Thiện.” Nói xong, lại ra vẻ ông cụ non dặn dò tôi: “Muội phải
ngoan, trên đường phải nghe lời Tử Kính, đừng gây chuyện, ăn ít đồ vặt thôi.”
Tôi
trợn mắt: “Muội sẽ ngoan ngoãn, nghe lời.”
Tiêu
Huyên cười xấu xa: “Ca ca sẽ tìm nhà chồng tốt cho muội.”
Tôi đá
anh ta ra khỏi cửa.
Tiêu
Huyên đi rồi, trời đã sáng, tôi không ngồi yên được nữa, mang theo vành mắt như
bị đấm đi tìm Tống Tử Kính.
Hiện
giờ mới là lúc gà gáy, Tạ phủ rất im ắng, tôi rón rén bước vào thư viện như kẻ
trộm. Kết quả vừa nhìn lại đã thấy cửa phòng đang mở, mà đứng kia, chẳng phải
chính là Tống Tử Kính, Tống tiên sinh đấy sao?”
Anh ta
mặc một bộ trang phục đơn giản, nhanh nhẹn. Không có bộ trường bào, tay áo rộng
như mọi ngày, lúc này tôi mới thấy mặc dù dáng người anh ta gầy nhưng không
yếu, thon dài cân xứng, vai rộng eo thon, vô cùng khoan khoái. Nếu anh ta thật
sự là một hiệp sĩ, cũng tuyệt đối là một đại hiệp trong số phần tử trí thức
cao. Người ta nói bầu không khí đặc biệt của Đông Tề sinh ra nho tướng, tôi
thấy còn sinh ra nho hiệp nữa.
Anh ta
hỏi tôi: “Khi nào đi?”
Lời này
nên là tôi hỏi anh ta mới đúng.
Tôi
hỏi: “Anh thu thập xong cả rồi à?”
Tống Tử
Kính sang sảng cười: “Có gì mà thu thập?”
Bội
phục! Tất cả chỉ là vật ngoài thân.
Tôi xoa
tay: “Được, được! Chờ tôi gọi Vân Hương là lập tức lên đường!”
“Hiện
giờ? Trời còn chưa sáng?”
Tôi
cười khoe hàm răng trắng, mắt lóe sáng: “Bỏ trốn đương nhiên phải thực hiện
trong cảnh tối lửa tắt đèn rồi.”
“Bỏ
trốn?” Tống Tử Kính sửng sốt.
Tôi
cười to: “Bỏ trốn! Bỏ trốn! Tứ cô nương nhà họ Tạ xuân tâm nhộn nhạo, cùng
tình lang bỏ trốn đến biên cương. Còn chuyện gì hợp lý hơn chuyện này nữa?”
Tống Tử
Kính hiểu ra, cười lớn: “Vẫn là cô thông minh.”
Tôi
cười vô cùng sung sướng: “Tiên sinh, sau này tôi phải gọi tiên sinh một tiếng
ca ca”
Tống Tử
Kính cúi đầu cười: “Ca ca của cô cũng thật nhiều.”
Gương
mặt tôi có chút ửng hồng: “Càng nhiều càng tốt chứ sao.”
Tống Tử
Kính dở khóc dở cười. Anh ta nhẹ giọng nói: “Chúng ta đi thôi.”
Anh ta
cầm lấy tay tôi, kéo tôi lại, vòng tay qua người tôi. Tôi giật mình, còn chưa
kịp phản ứng lại anh ta đã buông ra. Tôi phát hiện trên thắt lưng có thêm một
thứ đồ trang sức kết bằng những hạt châu bình thường.
“Đây là
cái gì?”
“Trên
hạt châu có hương thơm, người thường không ngửi thấy được, chỉ có chim nhận ra,
đến lúc đó sẽ hỗ trợ đưa tin tức.”
Tôi
khen ngợi: “Thật thông minh.”
Tống Tử
Kính mang theo tôi và Vân Hương rời khỏi Tạ phủ. Khi đó đã có thể nhìn thấy
những dải ánh sáng màu bạc phía chân trời, trên cây, chim chóc bắt đầu hát bài
hát chào buổi sáng, chó nhà Vương tri phủ ở cách vách cũng đã thức dậy, đang
ngửa cổ hợp ca. Tôi hít một hơi không khí mát lạnh, quay đầu nhìn một lần cuối
cùng ngôi nhà tôi đã ở nửa năm.
Nơi này
không trói buộc được tôi, vì vậy, tôi cũng không vui sướng như chim sổ lồng,
chỉ có một loại cảm giác lữ hành mới mẻ.
Tôi
nhìn bầu trời phương Bắc, nhìn màu xanh lam mông lung như nước kia, trong lòng
vẽ ra khung cảnh thảo nguyên mênh mông không có điểm dừng.