*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.LẦN ĐẦU TIÊN JASON BẮT GẶP GÃ THIÊN THẦN LÀ Ở CHIẾC XE CÀ REM DẠO.
Tàu Argo II đã cập bến cùng sáu hay bảy con tàu tuần tra biển. Như mọi khi, những người thường chẳng mảy may đề ý gì đến chiếc chiến tàu cổ; nhưng chỉ để đề phòng, Jason và Nico nhảy lên một cái xuồng nhỏ từ đoàn tàu du khách để trà trộn vào đám đông khi họ lên bờ.
Từ cái nhìn đầu tiên, Split trông có vẻ khá ổn. Uốn quanh bến tàu là một lối đi bộ dài với những hàng cọ cao vút. Trong những quán cà phê ven đường, thanh thiếu niên Châu Âu tụ tập, trao đổi bằng cả tá ngôn ngữ khác nhau và tận hưởng ánh nắng chiều muộn. Không khí thơm nức mùi thịt nước và hoa mới cắm.
Xa hơn từ phía đại lộ chính, thành phố là một tậo hợp lộn xộn của những toà lâu đài Trung Cổ, mấy bức tường thành La mã, thị trấn với các toà nhà bằng đá vôi với mái ngói đỏ, và những toà cao ốc văn phòng hiện đại, tất cả cùng chen chúc bên nhau. Xa xa, vài ngọn đồi xanh xám trải dài một ngọn núi, tạo cho Jason một cảm giác lo lắng. Cậu cứ liếc chừng về phía vách núi dựng đứng đó, ngỡ là mình thoáng thấy gương mặt Gaea hiện lên đâu đó trong chiếc bóng đổ dài.
Cậu và Nico đang lang thang dọc lối đi thì Jason bắt gặp một gã đàn ông có cánh đang mua một cây cà rem từ một chiếc xe đẩy dạo. Cô bán hàng chán nản đếm tiền thối cho hắn. Và du khách cứ thản nhiên bước đi vòng quanh đôi cánh to sụ đó mà chẳng mảy may để ý gì.
Jason thúc Nico. “Em có thấy không?”
“Có.” Nico gật đầu. “Có lẽ chúng ta cũng nên đi mua kem.”
Khi họ len lỏi đi đến nơi, Jason đang lo lắng là gã có cánh này có khi lại là con trai của thần Gió Bắc Boreas. Bên cạnh cậu, tên thiên thần đang đeo một thanh kiếm mũi nhọn bằng đồng mà Boreas từng đeo, mà lần cuối cùng Jason đụng độ với hắn, ừh thì, không tốt lắm.
Nhưng gã này trông hết sức là phởn. Gã mặc chiếc áo ba lỗ đỏ, thêm một cái quần soọc Bermuda, và một đôi xăng đan huarache[1]. Đôi cánh của hắn là một tập hợp những sắc nâu đỏ, giống màu một con gà trống bantam[2], hoặc một buồi chiều hoàng hôn ảm đạm. Gã có mái tóc xoăn tít cỡ như Leo, sậm đen màu rám nắng.
“Hắn không phải là một linh hồn hồi sinh,” Nico thì thầm. “Hay một sinh vật đến từ Âm Phủ.”
“Ừh, không phải.” Jason đồng ý. “Anh nghĩ chắc họ chẳng ăn kem que bọc sô cô la đâu.”
“Vậy hắn là gì chứ?” Nico thắc mắc.
Họ đến gần hơn, cách khoảng 30 feet, và gã có cánh quay sang nhìn thẳng vào họ. Gã mỉm cười, ra hiệu qua vai bằng que kem, và cứ thế tan vào không khí.
Jason không
thấy được hắn, nhưng với kinh nghiệm điều khiển gió của mình, cậu có thể lần theo dấu vết của gã thiên thần—một cơn gió ấm màu đỏ và vàng cuộn quanh con đường, xoắn thành hình trôn ốc dọc theo lối đi bộ, thổi bay đống bưu thiếp từ vòng ngựa gỗ trang trí phía trước mấy cửa hàng bán đồ lưu niệm. Ở cuối đường dạo chơi, cơn gió hướng về một kiến trúc trông như một toà pháo đài to lớn.
“Anh cá nơi đó chính là cái cung điện.” Jason nói. “Đi thôi.”
Dù đã tồn tại hơn hai thiên niên kỷ, cung điện của Diocletian trông vẫn rất ấn tượng. Bức tường thành bên ngoài chỉ là một lớp vỏ bao bằng đá gra-nít màu hồng, với những cột đá đổ nát và khung cửa sổ hình vòng cung hướng ra bầu trời, nhưng trông nó vẫn khá nguyên vẹn, tường dài khoảng một phần tư dạm và cao bảy mươi hay tám mươi feet, khiến cho những cửa hàng hiện đại và nhà cửa lộn xộn xung quanh trông bé nhỏ và lùn tịt. Jason tưởng tượng đến dáng vẻ của cung điện khi nó vừa được xây, với quân lính Hoàng gia đi tuần dọc các thành luỹ, còn những bức tường thì chạm trổ những con đại bàng La Mã sáng loé.
Vị thiên thần gió—gọi vậy thôi chứ chả biết ông ta là gì— lướt ra lướt vào mấy bệ cửa sổ đá hồng, rồi biến mất ở phía bên kia. Jason nhìn lướt qua mặt tiền cung điện tìm kiếm một lối vào. Cái duy nhất mà cậu thấy, cách đó vài khu phố, đầy nghẹt du khách xếp hàng mua vé vào cửa. Mà cậu thì không có thời giờ cho việc đó.
“Chúng ta phải bắt hắn thôi,” Jason nói. “Đứng vững nhá.”
“Nhưng mà—“
Jason chộp lấy Nico và nhấc bổng cả hai người lên không trung.
Nico ư ứ tiếng phản đối khi họ bay vọt qua bờ tường và vào sân trong, nơi có nhiều khách du lịch hơn nữa, len lỏi khắp các ngõ ngách và chộp hình liên tục.
Có một nhóc nhỏ bấm liên tiếp hai tấm hình khi họ đáp xuống. Rồi đôi mắt nhóc đột nhiên trở nên đờ đẫn và nhóc lắc mạnh đầu như kiểu xua đi vài ảo giác hoang đường. Không có ai khác để ý đến họ nữa.
Mé trái khoảnh sân, là những mái vòm xám bạc màu gác trên hàng cột to lớn. Bên phải, là toà nhà bằng cẩm thạch trắng với những hàng cửa sổ cao vời vợi.
“Cổng trời,” Nico nói. “Đây là lối vào dinh thự riêng của Diochetian.” Sau đó cậu cau có nói với Jason. “Và làm ơn, đừng bao giờ chộp lấy em nữa. Em không thích bị đụng vào.”
Jason chợn nghe lạnh sống lưng. Cậu nghĩ mình đã hiểu được lời đe doạ đằng sau câu nói, dạng như:
trừ phi anh muốn có một thanh kiếm Stygian kề vào cổ. “Ừh, được rồi, Anh xin lỗi. Sao em biết nơi này được gọi như thế?”
Nico quan sát cửa. Cậu tập trung nhìn về những bậc thang ở góc phía xa, hướng xuống một nơi nào đó.
“Em đã đến đây rồi.” Mắt cậu trở nên đen thẫm như lưỡi kiếm của mình. “Với mẹ và Bianca. Vào một kì nghỉ cuối tuần từ Venice. Em chắc cỡ… sáu tuổi?”
“Là năm nào… thập niên ba mươi sao?
“1938 hay sao ấy.” Nico lơ đãng đáp. “Anh biết làm gì chứ? Có thấy gã có cánh đâu không?”
“Không…” Jason vẫn đang cố suy nghĩ về quá khứ của Nico.
Jason luôn cố xây dựng một mối quan hệ tốt đẹp với những chiến hữu trong nhóm. Cậu đã học được một cách khó khăn là nếu như phải giao tính mạng cho ai đó trên chiến trường, thì tốt hơn là cậu nên tìm kiếm vài điểm tương đồng giữa và tin tưởng vào đồng đội. Nhưng Nico lại rất khó tiếp cận. “Anh chỉ… anh chỉ khó mà tưởng tượng được, đến từ một thời gian khác thì kì quặc như thế nào.”
“Ừh, anh
không tưởng được đâu.” Nico nhìn chằm chằm sàn đá. Cậu hít sâu một hơi.
“Nghe này… Em không thích nói về vấn đề này. Thực ra, em nghĩ đối với Hazel còn tệ hơn. Chị ấy có nhiều kí ức về quá khứ lúc nhỏ hơn em. Chị ấy đã trở về từ cõi chết và phải học cách thích nghi với cuộc sống hiện tại. Em… em và Bianca, chúng em chỉ bị kẹt ở Khách sạn Hoa sen. Thời gian ở đó trôi qua rất nhanh. Kì lạ ở chỗ, điều đó lại giúp cho sự chuyển tiếp dễ dàng hơn nhiều.”
“Percy đã kể anh nghe về nơi đó,” Jason nói. “Bảy mươi năm, nhưng chỉ cảm thấy như một tháng sao?”
Nico siết chặt nắm tay đến khi những ngón tay chuyển sang trắng bệch. “Ừh. Em chắc là Percy kể cho anh mọi chuyện về em rồi.”
Giọng cậu thấm đãm sự cay đắng—nhiều đến mức Jason không hiểu được. Cậu biết Nico cảm thấy Percy là người phải chịu trách nhiệm về cái chết của Bianca, nhưng lẽ ra họ đã phải dàn xếp chuyện đó êm xuôi rồi chứ, ít nhất thì Percy nói vậy mà. Piper cũng từng nói qua về tin đồn Nico thích Annabeth. Có lẽ điều đó cũng có phần trong chuyện này.
Dù vậy… Jason không hiểu được tại sao Nico lại cô lập bản thân, tại sao cậu không ở cả hai trại nhiều hơn, tại sao cậu lại thích người chết hơn người sống. Và Jason
thật sựkhông hiểu được tại sao Nico lại hứa dẫn đường cho tàu
Argo II đến Epirus nếu như cậu ghét Percy Jackson đến thế.
Ánh mắt Nico lướt qua mấy khung cửa sổ phía trên họ. “Những vong hồn La Mã ở khắp mọi nơi quanh đây… Lares. Lemures. Họ đang nhìn. Họ giận dữ.”
“Với chúng ta?” Tay Jason đặt lên kiếm.
“Với mọi thứ.” NIco chỉ về phía một ngôi nhà đá nhỏ ở phía đông cuối khoảnh sân. “Đó từng là đền thờ Jupiter. Những người đạo Thiên Chúa đã biến nó trở thành nơi rửa tội. Linh hồn La Mã không thích điều đó.”
Jason nhìn chằm chằm ô cửa tăm tối.
Cậu chưa bao giờ gặp Jupiter, nhưng cậu luôn nghĩ cha mình như một người sống—người đã yêu mẹ mình. Dĩ nhiên cậu biết cha mình bất tử, nhưng bằng cách nào đó, cậu chưa bao giờ hiểu toàn bộ ý nghĩa khái niệm đó, cho đến lúc này, khi cậu nhìn thấy ô cửa, nơi mà những con người La Mã đã đi qua, hàng nghìn năm trước, để thờ phụng cha
của cậu. Ý nghĩ đó khiến đều cậu đau như búa bổ.
“Còn bên kia…” Nico chỉ về hướng đông, ở đó có một toà nhà lục giác được bao bọc bởi những chiếc cột đứng trơ trọi. “Từng là lăng mộ của vị hoàng đế.”
“Nhưng mộ ông ấy không còn ở đây đúng không,” Jason đoán.
“Từ mấy thế kỉ trước rồi,” Nico nói. “Khi vương quốc sụp đổ, nơi đó bị biết thành nhà thờ Thiên Chúa.”
Jason nuốt nước bọt. “Vậy nếu hồn ma Diocletian còn ở đây—“
“Ông ấy sẽ chẳng vui vẻ gì đâu.”
Tiếng gió xào xạc, thổi đám lá cây và giấy gói đồ ăn dọc lối đi cổng trời. Bất chợt, Jason bắt được một hành động thoáng qua—một vệt mờ màu đỏ và vàng.
Khi cậu xoay người lại, một chiếc lông vũ màu nâu đỏ nằm ngay ngắn trên bậc thang dẫn xuống bên dưới.
“Hướng này.” Jason chỉ. “Tên có cánh ấy. Em nghĩ nơi này dẫn đi đâu?”
Nico tuốt kiếm. Nụ cười của cậu trông còn bối rối hơn lúc cậu cau mày. “Âm phủ,” cậu nói. “Nơi em ưa thích.”
Âm phủ không phải là nơi ưa thích của Jason.
Kể từ sau hành trình bên dưới Rome với Piper và Percy, cùng cuộc chiến đấu với anh em sinh đôi người khổng lồ ở mật đạo bên dưới Đấu trường La Mã, hầu như mọi cơn ác mộng của cậu đều liên quan đến hầm, không thì cũng bẫy sập, và những vòng bánh xe chạy to lớn.
Ở bên cạnh Nico cũng không khiến cậu an tâm hơn. Thanh kiếm sắt sông Styx của cậu dường như khiến cho bóng tối dường như âm u hơn, như thể thứ kim loại địa ngục ấy có thể hút hết ánh sáng và nhiệt độ từ không khí xung quanh vậy.
Họ đi qua một căn hầm rộng lớn đầy các cột trụ cỡ đại, phía bên trên là mái vòm làm bằng đá. Những khối đá vôi già cỗi, bị hơi nước làm dính chặt lấy nhau sau hơn hàng thế kỷ, khiến nơi này trông giống hệt như là một hang động tự nhiên.
Không có bóng dáng của bất kì một du khách nào ở dưới này. Nhiêu đó thôi cũng thấy họ thông minh hơn á thần nhiều.
Jason rút kiếm. Họ bước xuống lối đi ẩm thấp, tiếng bước chân vang vọng khắp nền đá. Một dãy song cửa sắp thành hàng trên đầu một bờ tường, xoay mặt ra đường, nhưng điều đó chỉ khiến căn hầm thêm ngột ngạt. Tia sáng mắt trời trông như song sắt trong tù, hoà quyện với thứ bụi bặm hàng nghìn năm trước.
Jason đi qua thanh xà ngang, nhìn sang bên trái cậu, và xém tí nữa là lên cơn đau tim. Nhìn trừng trừng vào cậu là bức tượng bán thân bằng cẩm thạch của Diocletian, gương mặt thạch cao quắc mắt đầy khó chịu.
Jason cố điều hoà hơi thở. Nơi này có vẻ là vị trí hợp lí để lưu lại bức thư cậu viết cho Reyna, cho cô biết con đường dẫn đén Epirus. Nơi này không dễ tìm gì, nhưng cậu tin Reyna có thể. Cô có bản năng thợ săn. Cậu liền nhét bức thư vào khe giữa tượng đồng với bệ đỡ, sau đó lùi lại.
Đôi mắt cẩm thạch của Diocletian khiến cậu bồn chồn. Jason không cưỡng được liên tưởng đến Terminus, tượng thần biết nói ở New Rome. Cậu hi vọng Diocletian không đột nhiên bật dậy sủa inh ỏi hay nổi hứng ca hát.
“Chào!”
Trước khi Jason kịp nhận ra giọng nói đó đến từ một nơi nào khác, cậu đã vung kiếm và chém đứt đầu bức tượng vị hoàng đế. Bức tượng liển đổ xuống và vỡ tan tành trên sàn.
“Này, sao xấu tính vậy chứ?.”
Jason xoay lại. Gã có cánh từ quầy bán kem đang tựa người lên cây cột gần đó, thản nhiên tung hứng một chiếc nhẫn đồng lên không trung. Nằm cạnh chân hắn, một giỏ đầy trái cây thịnh soạn tươi roi rói.
“Ý ta là,” gã nói, “Diocletian đã bao giờ làm gì không phải với ngươi đâu?”
Không khi cuộn qua chân Jason. Mấy mảnh đá vỡ tự hợp thành một cơn lốc nho nhỏ, xoáy cuộn trở về bệ thờ, và tái tạo bức tượng y như mới, với bức thư vẫn nằm ngay bên dưới.
“Ưh—“ Jason hạ kiếm xuống. “Đó chỉ là tai nạn. Ông làm tôi giật mình mà.”
Gã có cánh bật cười. “Jason Grace, Gió Tây ta đã được miêu tả dưới rất nhiều dạng… ấm áo, dịu dàng, đầy sức sống, và vô cùng đẹp trai. Nhưng ta chưa bao giờ bị gọi là hay doạ người khác. Ta nhường cái hành động thô bỉ đó cho tên đồng đạo nóng tính Phương Bắc vậy.”
Nico lùi ra sau. “Gió Tây? Ngài chính là—“
“Favonius,” Jason nhận ra. “Thần Gió Tây.”
Favonius[3] mỉm cười và cúi chào, dễ dàng nhận thấy ông ấy vui vì cậu có thể nhận ra. “Hai người có thể gọi tên La Mã của ta, hoặc Zephyros[3], nếu là người Hy Lạp. Ta không quan tâm lắm đâu.”
Nico thì lại rất quan tâm. “Tại sao ông lại không bị chi phối bởi mâu thuẫn giữa hai phía La Mã và Hy Lạp, như các vị thần khác?”
“Ồh, lâu lâu ta cũng gặp vài vấn đề.” Favonius nhún vai. “Có vài buổi sáng ta thức dậy mặc
chiton Hy Lạp trong khi đêm trước ta chắc là mình đi ngủ trong bộ Pajama SPQR. Nhưng phần nhiều là bởi ta không quan tâm đến trận chiến. Ta chỉ là một vị thần nhỏ bé, hai người biết đấy—chưa bao giờ thật sự xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu. Mấy trận đánh qua lại giữa á thần các người không ảnh hưởng mấy đến ta.”
“Vậy…” Jason không chắc mình có nên tra kiếm lại vào bao không nữa. “Ngài làm gì ở đây?”
“Nhiều việc lắm àh!” Favonius nói. “Chơi bời với giỏ trái cây của ta. Ta luôn mang theo một giỏ trái cây. Ngươi thích ăn lê không?”
“Tôi không đói. Cảm ơn.”
“Để xem nào… mới nãy ta đang ăn kem. Giờ thì ta đang tung cái nhẫn quiot này” Favonius xoay cái nhẫn đồng bằng ngón trỏ.
Jason chẳng biết quiot nghĩa là gì, nhưng cậu cố không nghĩ đến nó. “Ý tôi là tại sao lại hiện hình trước chúng tôi? Tại sao lại dẫn chúng tôi đến đây?”
“Àh!” Favonius gật đầu. “Quan tài đá của Diocletian. Đúng rồi. Đây là nơi ở cuối cùng của nó. Những con chiên Thiên Chúa đã di dời nó ra khỏi lăng mộ. Rồi vài kẻ mọi rợ nào đó phá hỏng cái quan tài. Ta chỉ muốn cho các ngươi thấy”—hắn giơ tay buồn bã—“là thứ các ngươi muốn không có đây. Chủ nhân của ta lấy nó rồi.”
“Chủ nhân của ngài?” Đầu Jason chợt nhớ lại hình ảnh toà cung điện trôi lơ lửng phía trên ngọn núi Pikes Peak ở Colorado, nơi cậu đã ghé qua (và mém bỏ mạng lại đó) xưởng làm việc của gã khí tượng học điên khùng kẻ luôn tự nhận mình là thần của mọi loại gió.
“Gã hâm dở
đó hảh? Favonius kêu lên. “Không, dĩ nhiên là không phải.”
“Ý ngài ấy là Eros đó.” Giọng Nico trở nên sắc bén. “Tiếng Latin là Cupid.”
Favonius cười. “Giỏi lắm, Nico di Angelo. Ta rất vui được gặp lại ngươi. Cũng lâu lắm rồi nhỉ.”
Nico nhíu mày. “Tôi chưa bao giờ gặp ngài.”
“Ngươi chưa bao giờ
thấy ta,” vị thần chỉnh lại. “Nhưng ta luôn dõi theo ngươi. Từ lúc ngươi đến đây khi còn là một cậu bé, và vài lần khác sau đó nữa. Ta biết người sẽ trở lại để gặp mặt chủ nhân ta.”
Mặt Nico tái hơi bao giờ hết. Ánh mắt cậu lia khắp cả căn phòng như thể cậu đột nhiên cảm thấy bị rơi vào bẫy vậy.
“Nico?” Jason nói. “Ngài ấy nói cái gì vậy?”
“Em không biết. Chẳng có gì đâu.”
“Không có gì?” Favonius rên lên. “Người cậu quân tâm nhất… liều mạng đâm đầu vào Tartarus, mà cậu vẫn không chấp nhận sự thật ư?”
Jason tự nhiên cảm thấy mình đang nghe điều không nên nghe tí nào.
Người cậu quan tâm nhất.Cậu nhớ lại điều mà Piper đã nói về tình cảm của Nico dành cho Annabeth. Hiển nhiên là giờ thì tình cảm của cậu sâu đậm hơn chữ
thích rất nhiều.
“Chúng tôi chỉ đến vì vương trượng của Diocletian thôi,” Nico nói, rõ ràng là rất mong muốn chuyển đề tài. “Nó ở đâu?”
“Ah…” Favonius gật đầu buồn bã. “Ngươi nghĩ là đối mặt với hồn ma của Diocletian sẽ dễ dàng vậy sao? Không đâu Nico àh. Thử thách dành cho người sẽ khó hơn rất nhiều. Ngươi có biết, rất lâu trước khi nơi này trở thành cung điện của Diocletian, nó chính là lối vào cung điện của chủ nhân ta. Ta đã trụ lại đây hàng thiên niên kỷ, mang những kẻ kiếm tìm tình yêu đến cho sự chứng kiến của Cupid.”
Jason không thích khi nhắc đến thử thách khó khăn tí nào. Cậu không tin tưởng gã thần kì cục với cái vòng đồng, đôi cánh còn mang theo giỏ trái cây này. Nhưng cậu đôt nhiên nhớ đến một câu chuyện cổ—một điều cậu đã nghe được ở trại Jupiter. “Giống như Psyche đúng không, vợ của Cupis. Ngài đã mang bà đến cung điện của thần.”
Mắt Favonius chợt lấp lánh. “Giỏi lắm, Jason Grace. Cũng chính từ vị trí này, ta dùng gió mang nàng ấy đến phòng ngủ của chủ nhân. Mà thực ra, đó chính là lí do Diocletian cho xây dựng cung điện của hắn ở đây. Nơi này được Gió Tây dịu hiền bảo hộ mà.” Hắn dang hai tay. “Chỉ có nơi đây mới có sự yên bình và tình yêu trong cái thế giới hỗn loạn này. Vậy nên khi cung điện của Diocletian bị chiếm đoạt—“
“Ngài đã giấu đi vương trượng,” Jason đoán.
“Để giữ an toàn cho nó thôi,” Favonius thừa nhận. “Nó là một trong những bảo bối của Cupid, một sự gọi nhớ về thời đại tốt đẹp. Nếu các ngươi muốn có nó…” Favonius nhìn sang Nico. “Ngươi phải đối mặt với vị thần tình yêu.”
NIco nhìn chăm chú những tia nắng xuyên qua khung cửa, như thể ước ao mình có thể trốn đi qua mấy cái khe bé xíu đó.
Jason không rõ Favonius muốn gì lắm, nhưng nếu
đối mặt với thần tình yêu có nghĩa là ép buộc Nico phải thổ lộ tình cảm với người con gái cậu thích, thì nghe đâu có tệ lắm đâu.
“Nico, em làm được mài.” Jason nói. “Có thể sẽ hơi ngượng, hãy làm vì quyền trượng đi.”
Nico trông không được thuyết phục lắm. Trên thực tế, cậu trông như sắp bệnh đến nơi. Nhưng cậu quyết định và gật đầu. “Anh nói đúng. E—em không sợ thần tình yêu.”
Favonius cười tươi rói. “Xuất sắc! Hai người có muốn ăn gì trước khi đi không?” Hắn lôi một trái tao xanh ra khỏi giỏ và nhìn sững nó. “Ôi, chết tiệt. Ta cứ quên mất biểu tượng của ta là giỏ trái cây
chưa chín. Tại sao gió xuân không được ưu ái hơn nhỉ? Mùa hè chiếm
hết thứ thú vị còn gì.
“Thôi cảm ơn,” Nico nói nhanh. “Cứ mang chúng tôi đi gặp Cupid thôi.”
Favonius xoay chiếc nhẫn trên ngón tay, và cơ thể Jason tan vào trong không khí.
———————-
[1] trông như thế này:
[2] trông thế này
[3] Thần Gió Tây, thần của mùa xuân trong thần thoại La Mã và Hy Lạp, ‘đệ’ thần Tình Yêu của Cupid hay Erros. Thường được miêu tả là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, cầm theo một chiếc làn đựng hoa quả xanh, có cánh chim màu nâu đỏ hoặc cánh bướm nhƯ bức Flora (một nữ thần hoa) et Zephyr dưới đây:
[4] một vài hình ảnh vè thành phố Split và cung điện Diocletian: