Du Tà nhìn Dung Nguyên Cẩn hồi lâu, hiểu rằng không thể gạt y được nữa, khẽ thở dài nói: “Nói cho chính xác, ta vốn nên tính là quỷ thân, chỉ vì tám trăm năm trước trong lúc lang thang trong núi gặp một vị tiên nhân chỉ điểm mới bắt đầu tu theo tiên đạo, năm trăm năm trước có thể phi thăng đứng hàng tiên ban. Bây giờ nói là tiên cũng được, gọi là quỷ cũng xong… Tướng công có sợ ta không?”
Dung Nguyên Cẩn lắc đầu, kéo tay hắn nắm vuốt chỗ xương ngón út hơi gồ lên: “Huynh là tức phụ (vợ, nàng dâu) ta cưới hỏi đàng hoàng, sao lại phải sợ?”
“…” Trái tim Du Tà mới vừa chùng xuống, lại tựa hồ nảy lên, ngập ngừng mở miệng: “… Nếu ta không phải thì sao?”
Dung Nguyên Cẩn nhíu mày: “Lời này của nương tử là có ý gì?”
“Tiểu nữ Du gia lúc đầu em định cưới, thật ra đã bị ta chặn lại giữa đường…”
Dung Nguyên Cẩn nhìn hắn chằm chằm, thần sắc phức tạp: “Cô nương kia bây giờ ở đâu?”
“Lúc trước bà mối không có ý tốt, lấy nhiều tiền của Du gia để che giấu bệnh câm của tiểu nữ nhà ấy. Hôm đó đón dâu ta chặn đường kiệu hoa, giúp cô ta chữa khỏi, rồi thả về nhà.” Du Tà vừa nói vừa chăm chú dò xét nét mặt Dung Nguyên Cẩn, thấy y không biểu lộ thần sắc gì kì quái mới yên lòng nói tiếp, “Tướng công an tâm, Du Nhược Lan kia chăm chỉ tháo vát, chỉ vì bị câm mới khiến người nhà không thôi phiền lo. Bây giờ có ta giúp nàng trị khỏi, nàng trở về nhà đương nhiên sẽ không phải chịu ủy khuất gì nữa.”
Dung Nguyên Cẩn nghe xong, trong lòng thở phào một hơi, khẽ gật đầu, ngược lại còn nói đỡ thay bà mối: “Ách tật mà thôi, cũng là không tính là lừa gạt… Điều kiện nhà ta như thế, dựa vào đâu mà bắt bẻ cho đặng.”
Du Tà không thích nghe y nói những này, song lại vì đuối lý không dám phản bác, chỉ yếu ớt nói: “Ta vẫn thấy rất tốt.”
Đuôi mắt Dung Nguyên Cẩn rốt cuộc cũng câu lên một đường cong nhu hòa, sắc mặt dịu lại: “Cũng may là huynh, đổi thành người khác chỉ sợ đã chịu không nổi.”
Nói đến giữa chừng, Dung Nguyên Cẩn chợt nhớ lại chuyện hôm nay, lông mày khẽ nhíu lại: “Việc bên ngoài lúc sáng, nương tử có từng lấy mạng người khác?”
Du Tà thấy y vẻ mặt trầm ngâm, cố ý trêu đùa, làm bộ gật đầu.
Dung Nguyên Cẩn nghiêm sắc mặt, định mở miệng nói, Du Tà lại vội vã cười xòa: “Không có, thật sự không có.”
“Sao ta lại muốn lấy mạng người?” Du Tà nắm lấy vai y, “Nếu ta giết người, sau khi kẻ đó chết hồn phách sẽ xuất thể, oán khí sâu nặng không vào được luân hồi, cả ngày bên tai ta quấy rầy gào khóc, không phải phiền hà lắm thay?”
Lông mày Dung Nguyên Cẩn dần dần thả lỏng, còn chưa kịp đáp lại, Du Tà đã nói tiếp.
“Thế nhưng ta hôm nay trái lại thật sự muốn giết hắn.” Đồng tử Du Tà rung lên, hàn khí tỏa ra trong mắt, “Ta hận không thể hút cạn máu hắn, rút gân chặt đứt tay chân hắn, cho hắn chết không yên ổn toàn thây, để hắn kiếp này, kiếp sau, đời đời kiếp kiếp thấy em là khiếp sợ, trốn tránh chui lủi như con chuột qua đường.”
Dung Nguyên Cẩn đè tay lên lồng ngực hắn, lùi người về phía sau, nghiêm túc nhìn thẳng vào mắt hắn: “Huynh như vậy ta sẽ sợ.”
Du Tà thở ra một hơi, vươn tay mơn trớn mái tóc y: “Ta cư nhiên biết.”
Dung Nguyên Cẩn yên ổn dựa vào vòng tay hắn, nửa nghi hoặc nửa tò mò hỏi: “Nguyên lai người sau khi chết nếu không vào luân hồi, hồn phách thực sự sẽ lang thang khắp thế gian?”
“Nếu tướng công hiếu kì, để ta kể cho em nghe.” Du Tà khẽ hếch cằm về phía bàn, “Chỉ là tướng công từ sáng đến giờ còn chưa có gì bỏ bụng, chi bằng chúng ta vừa ăn vừa nói?”
Du Tà áp tay vào thùng cháo nguội ngắt, không đầy nửa khắc sau, cháo trong thùng bốc lên nghi ngút khói trắng.
Dung Nguyên Cẩn chạm thử vào vỏ gỗ ngoài thùng, nhiệt độ dưới tay nóng ấm vừa phải, mùi cháo phả ra thơm lựng.
Dung Nguyên Cẩn kinh ngạc: “Thần tiên nếu như không phải đúng như trong thoại bản, có thể ngàn dặm đằng vân, thì cũng có thể cách không thủ vật (lấy đồ vật từ không khí)?”
“Đó là đương nhiên.” Du Tà suy tư một lát, ánh mắt dừng lại trên đôi chân trần của Dung Nguyên Cẩn. Hắn vươn hai ngón tay đảo một vòng, trong chớp mắt, một đôi giày xuất hiện trên tay.
Dung Nguyên Cẩn trong mắt tràn ngập kinh hỉ, Du Tà thấy vậy cười hỏi: “Chơi vui không?”
Dung Nguyên Cẩn gật đầu: “Rất là thú vị.”
Vung tay áo bào, Du Tà ngồi xuống trước mặt Dung Nguyên Cẩn, đặt chân y lên đầu gối mình, cầm khăn lau bàn chân sạch sẽ, giúp y thay đôi tất mới: “Một chút nữa dẫn em đi chơi. Ta có mang thuốc, cũng sao thuốc xong rồi, hôm trước phải đi đường, uống không được đều như thường lệ.”
“Nhân sinh lão bệnh trước khi chết sẽ có ấn ký rơi xuống mi tâm, sau khi chết sẽ có Hắc Bạch Nhị Sứ đến thu lại hồn phách, hồn phách phải được độ hóa, kính lễ trước điện Diêm Vương rồi đi qua cầu Nại Hà mới được luân hồi.” Du Tà đặt một bát cháo đầy trước mặt Dung Nguyên Cẩn, “Nếu như tuổi thọ chưa hết mà đột ngột qua đời, giữa lông mày không có ấn ký, thì có thể thoát được Hắc Bạch Nhị Sứ. Loại hồn phách này nếu có người nhà liệm thi xin đưa thì mới có thể nhập luân hồi. Mà bạo tử hoang liêu không có người nhặt xác, sau khi chết hồn phách không có chốn về, phải chịu lưu lại nhân gian lang thang vĩnh viễn.”
Dung Nguyên Cẩn vừa cầm bát lên chợt khựng lại, trong lòng một mảnh đắng chát, bất giác ngẩng đầu nhìn Du Tà.
Du Tà ngừng lời, dịu dàng hỏi: “Bỏng hả?”
Dung Nguyên Cẩn lắc đầu, rũ mắt nâng bát cháo, vừa đưa đến gần miệng, vành mắt lại đỏ hoe.
Du Tà hoảng hốt: “Tướng công sao thế?”
Dung Nguyên Cẩn ăn một thìa cháo, trong chén hơi nóng hầm hập, xộc thẳng vào mắt đến nhòe ướt.
Y khẽ hít mũi, mơ hồ thủ thỉ: “Nếu ta biết huynh sớm hơn thì tốt rồi.”
Du Tà sửng sốt.
Dung Nguyên Cẩn lắc đầu, cúi đầu hớp một thìa cháo.
Nếu ta biết huynh sớm hơn thì tốt rồi.
Ta sẽ có thể vì huynh liệm cốt, không để người cô độc hoang lạnh, du đãng ngàn năm.