“Tất cả mọi người đề về phe anh,” Manfred cười khẩy.
Lysander im lặng lắc đầu, nhưng rủi thay, Zelda Dobinski chọn ngay lúc ấy để trình diễn tài năng di chuyển đồ vật quái dị của nó. Con nhỏ dòm lom lom vô một cuốn sách khổng lồ ở trên kệ đằng sau Tancred. Cuốn sách phóng qua căn phòng và đâm trúng vô lưng Tancred, ngay khi nó lao ra cửa.
“Úi!” Tancred rú lên.
Sáu đứa trẻ bò ra cười, trong khi năm đứa còn lại lộ vẻ khiếp hãi.
Tancred không nhìn thấy những gương mặt thông cảm. Nó chỉ kịp nhìn thấy những đứa cười giễu cợt. Gió bỗng giật rùng rùng khắp căn phòng khi cậu bé đang nổi cơn sấm sét này vù ra cửa, để lại những tiếng dộng thình thình vô tường.
Charlie không kìm nổi.
“Chờ đã!” Nó hét lên, lao theo Tancred.
“Mày đi đâu vậy, Bone?” Manfred hỏi.
“Em để quên cây viết ở phòng để áo khoác,” nó nói dối.
Một thằng tóc đỏ, gầy đét ngóc đầu nhìn lên trêu nó :
“Luôn luôn quên đồ, há Bone?”
“Không phải luôn luôn, Asa!”
Charlie sợ Asa Pike. Nó là tay sai của Manfred và có biệt tài kinh khủng là thay đổi hình dạng.
“Đóng cửa lại,” Asa nói khi Charlie bước ra.
Henry ẩn náu
Chính Charlie kia lên tiếng trước.
“Giỡn kiểu gì ấy! Cậu bé kia lẩm bẩm.
“Mình chẳng đi xa được hơn chút nào cả.”
Cậu ta có giọng nói hết sức bình thường, Charlie thấy thế. Đây không phải là con ma. Nhưng nếu không phải là ma thì là cái gì? Tằng hắng cho thông cổ, nó nói:
Cậu giơ tay lên che mắt và nhìn trân trối vô dãy đèn điện thắp sáng tiền sảnh.
“…không giống như thế này. Làm cách nào mà nó sáng vậy?”
“Điện đấy,” Charlie nói. Nó bắt đầu nhận ra cậu bé. “Anh là…?” Nó lựa lời. “Ý tôi là…ờ…thế này… Tôi trông thấy anh trong một tấm hình. Phải anh là Henry Yewbeam không?”
“Chính là tôi,” Henry nó, rạng rỡ hẳn lên. “Tôi nghĩ tôi cũng trông thấy cậu. Ở đâu đó… Cậu là ai?”
“Tôi là… à…kiểu như anh em họ của anh vậy. Em là Charlie Bone.”
“Ôi! Thật là hay. Một người em họ. Hay. Hay.” Henry tiến lại và bắt tay Charlie. “Rất vui được gặp em, Charlie Bone.”
“Việc này không hay đến thế đâu,” Charlie nói. “Ngày mà anh… Ngay bây giờ là ngày nào nào?”
“Ngày 12 tháng Giêng năm 1916,” Henry nói. “Tôi luôn nhớ ngày tháng.”
“Em sợ bây giờ không còn là ngày tháng đó nữa.”
“Không phải à?” Nụ cười của Henry chợt lụi tàn. “Thế..?” “Anh đang ở tương lai, gần chín mươi năm sau thời của anh,” Charlie nói.
Miệng Henry há hốc, nhưng không thốt ra được lời nào. Thay vô đó là một âm thanh sắc gọn, vang lên khi một vật gì đó tuột khỏi tay cậu và rơi xuống đất. C
harlie thấy một viên bi pha lê lớn lăn qua tiền sảnh.
“Chao!” Charlie trầm trồ, nhưng nó vừa tính nhặt viên bi lên thì Henry thét thất thanh:
“Cẩn thận, Charlie. Đừng nhìn vô nó.”
“Tại sao?”
“Nó là thứ đã mang tôi tới đây.”
Charlie lùi lại khỏi viên bi lóng lánh.
“Ý là nó mang anh đi xuyên thời gian?”
Henry gật đầu.
“Nó là Quả Cầu Xoắn Thời Gian. Mẹ tôi đã có lần kể cho tôi nghe. Nhưng tôi chưa bao giờ trông thấy, cho đến bây giờ… Đáng lý tôi phải đoán ra nó là cái gì. Tôi biết Zeke luôn tìm cách trừng phạt tôi.”
“Zeke?”
“Anh họ tôi, Ezekiel Bloor.” Henry bất giác toét miệng cười. “Tôi nghĩ, chắc bây giờ anh ta chết rồi.”
Nhưng chợt, một nét u buồn và nghiêm trang hiện ra trên mặt cậu.
“Nhưng chắc họ cũng qua đời cả rồi: cha, mẹ, cả em trai James của tôi nữa. Không còn ai cả.”
“Thì còn em,” Charlie nói. “Em nghĩ em trai của anh là…”
Đúng lúc đó, một tiếng tru đầu hăm dọa cất lên từ cầu thang phía trên đầu chúng.
Hai cậu bé cùng ngước lên, thấy một con chó xấu xí, ú nu, lùn tịt đang đứng trên đầu cầu thang. Nó tru thêm một tiếng nữa, ngỏng cái mũi dài về phía mài nhà, trong khi đống da gần như trụi hết lông lúc lắc dưới đụn cằm của nó.
“Con gì mà xấu chưa từng thấy,” Henry thì thầm.
“Nó là May Phúc, con chó của bà bếp trường đấy.”
Charlie không đợi cho con chó tru lên thêm nữa.
“Nhanh lên,” nó chộp lấy cánh tay Henry. “Anh phải trốn đi. Chỗ này hiện thời không tốt cho anh đâu. Có những người ở đây… họ có thể làm những chuyện xấu xa nếu họ nhận ra anh là ai.”
“Tại sao vậy?” Mắt Henry tròn xoe.
“Em chỉ cảm thấy thế thôi,” Charlie nói.
“Đi thôi,” nó lôi Henry về phía cánh cửa dẫn vô chái phía tây.
“Tụi mình đi đâu vậy?” Henry hỏi, nhặt vội Quả cầu Xoắn thời Gian lên và đút vô túi áo.
Trong thoáng chốc, Charlie không hiểu vì sao nó lại kéo Henry vô chái phía tây. Nó xoay cái vòng đồng nặng nề ở trên cánh cửa và đẩy người bạn mới vô hành lang tối mò.
“Tôi biết chỗ này,” Henry thì thào.
“Không bao giờ thích nó cả.”
“Em cũng không thích,” Charlie nói. “Nhưng chúng ta phải đi lối này để kiếm chỗ an toàn.”
Nó đóng cửa lại sau lưng khi con May Phúc tru lên một hồi nữa.
Hai cậu bé mò mẫm đi dọc theo hành lang cho đến khi chúng tới một căn phòng trống hình tròn. Bóng đèn từ trần nhà hiu hắt soi một cánh cửa gỗ kiểu cổ. Đối diện cánh cửa là một dãy cầu thang đá.
“Lên tháp à?” Henry nhìn những bậc thang và nhăn mặt.
Đến lúc nào Charlie mới nhận ra lý do nó mang Henry đến chỗ này.
“Anh sẽ an toàn ở trên tầng trên cùng,” nó bảo.
“An toàn?” Henry có vẻ hồ nghi.
“Tin em đi mà,” Charlie trấn an.
Khi Henry bắt đầu đi lên các bậc thang, Charlie để ý cái quần vải tuýt lạ lùng của cậu bé. Nó chỉ ngắn tới gối, có khuy cài ở gấu để giữ cho ống quần trùm ra ngoài đôi vớ rộng màu tím.
Đôi ủng của Henry trông y như ủng con gái: đen, bóng lộn, và cột dây thẳng thớm phía trên mắt cá.
“Tốt nhất là tụi mình phải kiếm quần áo mới cho anh thôi.”
Charlie thì thầm khi chúng tới căn phòng hình tròn thứ hai. Có một cánh cửa thông ra chái phía tây, nhưng Charlie giục Henry leo lên dãy cầu thang kế tiếp.
“Gia đình Bloor sống ở đó đó,” nó bảo.
“Hay nhỉ,” Henry nói. “Một số thứ vẫn không thay đổi.”
Chúng tiếp tục leo lên, còn xa mới tới tầng trên cùng của tháp, nhưng đã nghe thấy tiếng đàn piano vẳng xuống, âm vang khắp cái cầu thang hẹp.
Henry dừng lại. “Có người ở trên đó.”
“Thầy giáo dạy dương cầm, thầy Pilgrim,” Charlie bảo. “Chẳng có ai lên đây ngoài thầy. Mà hình như thầy Pilgrim cũng không quan tâm đến chuyện gì đâu. Không lo thầy đâu. Em đảm bảo!”
Thêm hai lượt cầu thang nữa thì chúng tới căn phòng nhỏ ở trên cùng: những tập nhạc nằm rải rác trên sàn nhà, những kệ sách cao đụng trần ken đặc những quyển an-bum bọc da và vô số bản nhạc quăn góc.
“Ở đây thì ấm đấy,” Charlie nói, rút vài chồng ra khỏi kệ. “Anh coi, nếu mình trải giấy xuống sản như vầy.”
Nó trải vài bản nhạc ra giữa kệ sách và những chồng nhạc xếp cao như một bức tường.
“Vậy là thành một chiếc giường. Anh có thể núp ở đây tới sáng.”
“Sau đó thì sao?” Henry hỏi.
“Á…” Charlie gãi gãi đầu. “Sau đó em sẽ tìm cách lấy cho anh một ít đồ ăn sáng, và cả quần áo mới nữa.”
“Quần áo của tôi có gì không được à?” Henry nhíu mày lo lắng.
“Chúng chỉ trông khác quá thôi. Bây giờ người ta không mặc đồ như thế nữa.” Henry liếc cái quần xám dài và đôi giày đế bự của mình Charlie.
“Ôi không. Để coi đã,” cậu rên rẩm.
“Em phải quay về lớp đây,” Charlie nói.
“Huynh trưởng Manfred Bloor sẽ truy lùng em. Em không muốn đối đầu với anh ấy. Anh ấy biết thôi miên.”
“Trời! Lại một đứa biết thôi miên!” Henry đã từng nghe kể về những nhà thôi miên trong dòng họ mình.
“Em cũng là một người có phép thuật như họ à?” Cậu hỏi Charlie.
“Huynh trưởng Manfred Bloor sẽ truy lùng em. Em không muốn đối đầu với anh ấy. Anh ấy biết thôi miên.”
“Trời! Lại một đứa biết thôi miên!” Henry đã từng nghe kể về những nhà thôi miên trong dòng họ mình.
Nó vẫy tay và đi ra khỏi căn phòng nhỏ, cảm giác mình có lỗi mà không sao giải thích được.