Charlie Bone sống trong một thành phố ôm giữ vô vàn điều bí mật. Những bí mật ẩn giấu trong tường và chôn vùi dưới đất hàng bao thế kỷ.
Thành phố đó ra đời cách đây chín trăm năm, bắt đầu từ một lâu đài do tổ tiên của Charlie là Vua Đỏ xây dựng nên. Tên của Vua Đỏ xuất phát từ tấm áo chùng đỏ rực và hình mặt trời chiếu sáng khắc trên tấm khiên của ngài. Vua Đỏ là người Phi châu; ngài cũng là một thầy pháp.
Khi hoàng hậu yêu quý của nhà vua, hoàng hậu Berenice, qua đời, ngài đi vào rừng để than khóc. Ngài rất an tâm khi mười người con của mình sẽ an toàn trong tay của những quan cận thần uyên bác và những bà vú hiền lành. Vả lại, mỗi người con của ngài đều được ban một tài phép thần kỳ.
Vào thời đó, vương quốc của ngài là một nơi đầy bạo lực và không có luật pháp – nạn giết người cướp của hoành hành. Trên đường về nhà, ngài nhận thấy cần phải đem tài phép vô song của mình ra cứu giúp dân nghèo và những người bị áp bức. Lập tức, ngài mặc giáp sắt, đội mũ sắt cắm chùm lông đỏ, sau đó hóa phép ra một thanh gươm bất khả chiến bại và cưỡi ngựa xông pha đi bảo vệ những người khốn khổ và những kẻ thân cô thế cô.
Vua Đỏ diệt trừ bọn bạo chúa, quân sát nhân và lũ quý tộc kẻ cướp suốt 5 năm. Cuối cùng, khi ngài về đến lâu đài, mới hay, năm người con của mình đã trốn chạy, còn năm kẻ ở lại thì dùng tài phép của mình đi thôn tính những quốc gia láng giềng. Chính những những con này và cháu chắt của họ đã bắt đầu lịch sử tang thương và đồi bại kinh hoàng của thành phố. Không thể ra tay đánh đuổi chính các con mình, nhà vua tan nát trái tim đành phải rời khỏi lâu đài của mình vĩnh viễn.
Bà nội Charlie cùng ba người em gái của bà ta đứng về phe quỷ ác. Trong thời gian ba nó bị ếm bùa, họ tống nó vào học viện Bloor, ngôi trường do một dòng họ có quá khứ cực kỳ bạo ngược điều hành. Charlie luôn luôn phải e dè gia đình Bloor và đồng minh của họ, nhưng, tính cho đến nay, nó đã đập tan mọi âm mưu đè bẹp nó của họ, bởi vì xung quanh nó có nhiều bạn bè là hậu duệ của Vua Đỏ, luôn dùng tài phép phi thường của mình để trợ giúp nó.
Riêng với tài đi vào quá khứ của mình, Charlie đang dần khám phá những bí mật của thành phố. Đó là một hành trình nguy hiểm, nhưng Charlie có bạn bè sát cánh bên mình và có niềm tin sắt đá vào tài phép muôn đời của Vua Đỏ.
KHÔNG HẲN LÀ NGƯỜI
Hẳn là bạn sẽ nghĩ Charlie Bone ẩu thật khi để mất cha nó lần thứ hai, nhất là vào lúc nó chỉ vừa mới tìm thấy cha. Họ đã cách mặt mười năm ròng – những năm bị ếm yêu thuật, chú Lyell Bone chìm đắm trong sự quên lãng, không thể nhớ gì về quá khứ, thậm chí kể cả tên của mình cũng quên
Lần này, chí ít Charlie cũng biết cha mình đi đâu. Ba nó đang đưa mẹ nó đi hưởng tuần trăng mật lần thứ hai. Còn gì sung sướng hơn lánh xa những ngày tháng Hai âm u, lạnh lẽo để đi xem cá voi và cá heo nô giỡn ngoài biển rực nắng? Tất nhiên họ rủ Charlie đi cùng, nhưng nó đã ý nhị từ chối. Cha mẹ nó cần được ở bên nhau, ngoài ra, ở nhà nó còn mấy việc phải hoàn thành. Có vài điều bí ẩn cần làm sáng tỏ.
Lúc này đây Charlie đang ở ngoài cổng ngôi nhà nơi nó chào đời. Đó là một tòa nhà gạch đỏ, mái lợp ngói nghiêng dốc, có bốn bậc thang dẫn lên cánh cửa trước màu xanh da trời. Charlie và mẹ đã rời ngôi nhà này khi nó 2 tuổi, thành ra nó chả nhớ chút gì về chốn này. Ngay như cái tên nhà cũng lạ lẫm đối với nó: “Góc Kim Cương” – tọa lạc trên góc phố Diamond và đại lộ Lyme.
Bây giờ Charlie đã 12 tuổi – một thằng bé cao trung bình, tóc đen bù xù và mắt nâu màu quả óc chó. Một thằng bé bình thường về mọi phương diện, ngoại trừ một điều: nó là người-đi-vào-tranh, một tài phép nó thừa hưởng từ Vua Đỏ huyền thoại.
Đứng bên cạnh Charlie là một người đàn ông cao lớn, nét mặt rắn rỏi, đẹp như tạc và mái tóc đen thẳng, dài gần chấm vai. Ông mặc áo khoác đen, dài và trùm chiếc mũ đen rộng vành sụp hẳn xuống, dường như để che kín mắt, mặc dù trong buổi chiều thứ Bảy u ám này không có lấy một tia nắng mặt trời yếu ớt nhất.
“Phải sửa nhiều đây,” người đàn ông nhận xét, nhìn những lỗ hổng đen ngòm trên mái nhà, nơi những miếng ngói lợp bị tốc mất.
“Ước gì con có thể dọn vào đấy ở ngay, Ông cậu Paton à,” Charlie nói.
“Con không phải đợi lâu nữa đâu,” Ông cậu bảo nó. “Tuần tới là thợ xây, thợ sơn, thợ ống nước, và thợ lợp mái sẽ bắt đầu tu sửa mà.”
“Chúng ta vào xem chút đi.” Charlie mở cổng và bước trên lối đi hẹp cỏ mọc tràn lan. Ông cậu nó theo sau, leng keng một chùm chìa khóa. Khi vào gần hơn, họ nhận thấy có ánh đèn ở một trong những cửa sổ tầng dưới.
“Có người trong đó.” Charlie chạy ào lên tới cửa. Ông cậu đang ở sau nó một bước liền phóng vèo qua các bậc thang và tra một chiếc chìa khóa vào ổ. Cánh cửa xanh da trời mở tung và Charlie bước vô trong.
Mùi cũ mốc nồng nặc trong hành lang. Ván lót sàn ẩm, bám kịt bụi, những mảnh giấy dán tường bong tróc dính lủng lẳng trên các bức tường nhem nhuốc, đen xì. Charlie cố nhón chân nhẹ hết sức, nhưng những tấm ván trần trụi cứ rung lên kèn kẹt dưới từng bước đi của nó. Nó vội vàng mở một cánh cửa bên trái và ngó vô căn phòng hồi nãy nó thấy có ánh sáng. Trống huơ trống hoác. Ông cậu Paton hất đầu ra hiệu về phía cánh cửa khép hờ ở phía kia căn phòng. “Nhà bếp đó,” ông thì thào.
Một tiếng chân được nghe thấy. Khó mà biết nó từ đâu vọng tới. Charlie băng xoẹt qua căn phòng, những bước chân nặng nề của ông cậu bám theo. Nhưng cả nhà bếp cũng trống trơ. Một tiếng “rầm” đanh, gắt, làm Charlie lao bắn vèo qua nhà bếp, vô lối đi hẹp. Cánh cửa sau mở toang, xô đánh ầm vào bức tường phía sau nó một tiếng rung chuyển nữa. Một luồng khí lạnh ập vào mặt Charlie khi nó nheo mắt dòm ra ngoài trời. Vừa vưa kịp lúc cho nó thấy hai bóng đen chui lẹ qua quãng hàng rào gãy ở cuối vườn.
“Hê!” Charlie hét lớn, chạy bươn qua thảm cỏ và những cây dại cao khô héo. Tới hàng rào, nó nhoài người ngó ra ngõ hẹp tí rị. Nhưng kẻ đột nhập đã biến mất.
“Chắc là những kẻ lang thang.” Ông cậu Paton đá vào một chồng báo cũ ở góc nhà. “Về thôi, Charlie.”
“Cho con lên lầu đi?” Charlie năn nỉ. “Con muốn xem mình có nhớ căn phòng mình từng ngủ hay không.”
“Thì đi.” Ông cậu Paton theo Charlie lên cầu thang. Khi ông lên tới nơi, Charlie đang đứng nhìn trân trối vào hai cánh cửa trước mặt nó. Có thêm hai cánh cửa bắt đầu một hành lang ở bên trái nó, rồi một cánh nữa ở bên phải. Nó chọn một cánh.
“Con nhớ giỏi quá, Charlie!”
“Con chỉ đoán thôi,” Charlie nói. Nó đẩy mở cánh cửa đó ra. “ỐI!”
Không thể đi được bước nào vô phòng. Tất cả ván lót sàn đã bị dỡ sạch. Tấm thì dựng đứng vào tường, những tấm khác lại nằm vắt trên các thanh rầm hẹp đỡ sàn nhà.
“Quái lạ!” Ông cậu Paton ghé nhìn qua vai Charlie. “Ta không biết là thợ xây đã bắt đầu rồi.”
Hai ông cháu nhìn vào những căn phòng khác. Phòng nào cũng trong tình trạng tương tự: ván lót sàn bị giật tung rồi quăng bừa bãi vào góc nhà hoặc vắt vẻo trên những thanh rầm mỏng.
“Trông như ai đó sục sạo tìm vật gì,” Charlie nhận xét.
“Một cuộc lùng kiếm tuyệt vọng,” ông cậu đồng ý. “Ta tưởng tượng họ cũng bứt tung sàn nhà dưới lầu lên, nhưng sau đó đã gắn lại để đề phòng người ta nhìn vô qua cửa sổ.”
“Con không thích nghĩ tới việc người lạ lẻn vô và đào bới nhà cũ của con,” Charlie nói.
Khi đi xuống lầu, họ căng mắt tìm xem có dấu hiệu mặt bậc thang bị bứng đi không. Lần này họ phát hiện mặt gỗ tưa xước, đinh bị nhổ lên và tay vịn xục xịch.
“Thế này thì phải thay hết ổ khóa thôi,” Ông cậu Paton nói khi hai ông cháu trở ra đứng ngoài đường. “Để ta nói chuyện với nhà thầu.”
Họ bắt đầu rảo bộ về ngôi nhà số 9, đường Filbert. Ông cậu Paton mải nghĩ về bọn xâm phạm nên quên bẵng là đèn đường đang sáng. Trước khi Charlie kịp cảnh báo, ông đã vô tình ngước lên và bóng đèn phía trên đầu ông kêu bụp một phát, nổ tung.
Ông cậu Paton chúi người né trận mưa thủy tinh dội xuống đầu mình. “Chán quá! Chán quá!” ông gầm to. “Ai cần làm kẻ tăng áp cơ chứ!”
Ông cậu Paton Yewbeam, một hậu duệ khác nữa của Vua Đỏ, thừa hưởng một tài phép không may. Chỉ cần ông hơi liếc vào một bóng đèn đang cháy, dù nó ở trong cửa sổ, trong nhà dân, trên đường phố, hay tại nhà mình, thì tất yếu nó vẫn cứ tăng sức nóng lên đến độ nổ tan bóng đèn. Vì vậy nên Ông cậu Paton rất ít khi ra khỏi nhà vào ban ngày. Đèn giao thông, đèn xi-nhan ô-tô và đèn cửa sổ bày hàng luôn có nguy cơ hứng chịu tài phép khốn khổ này của ông. Ông thấy điều này thật bất tiện cho mình.
Lần này tai nạn của Ông cậu Paton đã để lộ ra một sự việc. Trong chớp lóe sáng vụt chiếu con đường, hai hình hài bị nhìn thấy đang lúp cúp bên một hàng rào. Khoảnh khắc đó kéo dài không tới một giây nhưng gương mặt họ đã in đậm trong tâm trí Charlie. Trông họ... không hẳn là người.
Charlie chớp mắt trước cơn mưa thủy tinh dội xuống đầu ông cậu. Khi nó mở mắt ra thì hai hình hài đó đã biến mất.
“Mau lên, Charlie, chúng ta mau ra khỏi đây kẻo có người thấy chúng ta.” Ông cậu Paton chộp cánh tay Charlie và lôi nó đi khỏi hiện trường.
“Có người đã nhìn thấy chúng ta rồi, Ông cậu Paton. Con nghĩ đó có thể là bọn họ. Tức những kẻ đột nhập nhà con. Nhưng họ không hẳn là người. Nếu ông hiểu ý con.”
“Ta không hiểu.” Ông cậu Paton túm chặt cánh tay Charlie hơn. “Nhanh lên! Nhanh ra khỏi đây!”
Charlie thấy mình bị lôi xệch qua đường. Một chiếc xe lao tới bóp một tiếng còi cảnh báo và Ông cậu Paton vội giật nó lên vỉa hè.
“Con bảo không-hẳn-là-người nghĩa là sao?” Ông cậu Paton kéo thụp vành nón xuống. Bây giờ cả mũi của ông cũng bị che khuất.
“Họ quái đản lắm, Ông cậu Paton,” Charlie thở hồng hộc. “Con không thể giải thích.”
“Cố lên,” ông cậu ra lệnh. “Ta muốn biết chúng ta đang đối phó với loại sinh vật gì.”
Ông cậu Paton đi tiếp với tốc độ lướt gió thường lệ của mình. Charlie phải cắm cổ chạy từng chặp cho kịp ông. “Chân ông dài gấp đôi chân con.”
“Ta muốn ngăn cách mình với đèn đường,” Ông cậu Paton gắt. Ông rẽ một góc phố và chậm bước lại. “Nào, cố lần nữa coi. Cái gì khiến họ không phải là người, Charlie?”
“Trước tiên là họ có lông. Rồi mắt họ... mắt họ, à, con nghĩ khác xa mắt người. Chúng giống mắt chó... hoặc, hoặc...”
“Sói?” ông cậu gợi nhắc.
“Chắc vậy,” Charlie thận trọng. “Nếu mắt sói màu vàng.”
“Hừm. Sao ta có linh cảm nhà Bloor liên quan tới vụ này? Nói ta coi, ba của con có nhắc đến việc để lại vật gì đó ở ngôi nhà cũ không?”
“Không ạ. Nhưng có rất nhiều thứ ba con đã quên rồi.” Charlie mỉm cười một mình. Ba nó nhớ tên mẹ nó và tên ba là đủ. “Tuy nhiên, trí nhớ của ba con đang dần trở lại. Mỗi ngày lại có một điều mới bật khỏi đầu ba. Có lẽ khi đi nghỉ về, ba con sẽ phục hồi hoàn toàn.”
“Và đó là điều bọn chúng lo sợ.” Ông cậu Paton dừng khựng lại.
“Ai ạ? Cái gì cơ?” Charlie hỏi.
“Nghe này, Charlie. Ai nấy tin rằng Manfred Bloor thôi miên ba của con là bởi vì chú ấy gây tai nạn cho lão Ezekiel. Nhưng ta ngẫm thấy còn nhiều lý do hơn thế nữa. Ta tin là ba của con đang giấu một vật mà gia đình Bloor muốn có. Rất có thể bọn chúng hy vọng là dưới sức thôi miên, chú ấy sẽ tiết lộ nơi cất nó. Nhưng điều này không xảy ra. Đến bây giờ họ lại sợ ba của con sẽ nhớ và tìm ra cái vật đó trước bọn họ.”
Charlie không thể hình dung nổi điều gì khiến ông cậu đi đến kết luận như vậy. Nhưng đầu óc Ông cậu Paton vốn hay lần tìm vấn đề. Ông đang viết lịch sử Vua Đỏ, và căn phòng riêng của ông chật cứng những quyển sách khổng lồ về tất cả những đề tài Charlie từng nghe nói tới, cũng như về biết bao điều nó chưa từng nghe bao giờ.
Đường Diamond nằm ở ngoại ô thành phố, Charlie và ông cậu phải đi bộ gần một tiếng mới về tới nhà. Lúc đó bóng chiều đã ập xuống và sương mù dày đặc đang bò qua các con phố. Thật lạ, không khí thoảng mùi muối, mặc dù biển cách xa nơi này ít nhất là 30 dặm.
Bà ngoại của Charlie, ngoại Maisie, đón họ tận cửa. Vẻ mặt bà như vừa bị choáng sốc ghê gớm. “Bà Bone về rồi,” bà thì thầm, tắt đèn hành lang đi, ngăn ngừa Ông cậu Paton gây tai nạn.
“Về rồi?” Ông cậu Paton nói to. “Cái quái quỷ...”
“Suỵt!” ngoại Maisie đưa một ngón tay lên môi. “Vào nhà đã.”
Charlie và ông cậu theo ngoại Maisie vào nhà bếp. Bàn ăn đã dọn sẵn và trong khi múc súp ra ba cái tô, ngoại Maisie kể cho họ nghe về chuyến trở về đột ngột của nội Bone.
Nội Bone là chị gái của Ông cậu Paton. Hơn ông tới hai mươi tuổi và họ chẳng bao giờ thuận hòa với nhau. Bà ta thậm chí còn không ưa người con trai duy nhất của mình, tức là ba của Charlie. Ngay khi chú ấy trở về sau mười năm bị cầm tù trong học viện Bloor, nội Bone liền khăn gói ra đi – đến sống với ba cô em gái ở cuối một con hẻm tối tăm, bất ổn tên là Ngách Tối. Charlie đã hy vọng sẽ không bao giờ phải nhìn thấy bà ta lần nữa chứ.
“Mụ ta vẫn còn giữ chìa khóa,” ngoại Maisie kể. “Mụ hùng hổ đi vào, thảy phịch giỏ vô hành lang và hét ‘Ta về lại!’ ‘Sao vậy?’ ta hỏi. Hừ, thoáng nhìn đã biết có điều không ổn rồi. ‘Ai cũng nghĩ chắc là bà tiếc lắm,’ mụ nói. ‘Đúng thế. Tôi tưởng bà dọn đi hẳn chứ,’ ta liền đáp như vậy.”
Charlie bật cười khúc khích.
Ông cậu Paton hỏi, “Nhưng lý do của bà ta là gì, bà Maisie? Tại sao bà ta trở về?”
“Vì đám cưới!” ngoại Maisie nói.
“Cưới ai?” Ông cậu Paton hỏi vội.
“Em út của mụ, Venetia. Tuần sau bà này sẽ cưới chồng.”
Charlie bị sặc súp. “Bà cô Venetia? Người quái quỷ nào trên đời lại muốn cưới bà ta nhỉ?”
“Có đấy, Charlie cưng,” ngoại Maisie nói. “Nhưng chẳng mấy chốc gã đàn ông tội nghiệp đó sẽ hối tiếc về ngày này cho mà xem.”
“Quái lạ,” Ông cậu Paton nhìn ngoại Maisie trân trân, không tin nổi.
“Nội Bone rất cáu tiết,” ngoại Maisie kể tiếp, “Nhưng hai bà em kia thì ủng hộ hoàn toàn.”
“Phùù.” Ông cậu Paton thổi súp của mình, chắc hẳn nó đâu có nóng, bởi vì ông đã nuốt chửng gần chục muỗng rồi mà đâu kêu ca gì. Ông đang cố không để lộ ra, nhưng ai cũng có thể thấy ông đang cực kỳ hoang mang và bàng hoàng thật sự.
Bốn bà chị của Ông cậu Paton đều xấu xa như nhau. Họ căm thù ông em duy nhất của họ; cả đời họ hành hạ ông chỉ vì ông bất đồng những quan điểm đạo đức của họ và luôn bày tỏ dứt khoát cho họ biết điều đó. Cả bốn chị em nhà họ đều đê tiện, hận thù, hống hách, lươn lẹo và tham lam. Quả tình, Charlie không sao tìm đủ lời để diễn tả cho hết họ kinh khủng đến cỡ nào. Không ai trong bọn họ từng bao giờ nói một lời tử tế với Charlie, chứ đừng nói là tặng quà sinh nhật nó, đặc biệt là nội Bone.
Ngoại Maisie ém phần hấp dẫn nhất trong bản thông báo của mình đến phút cuối mới bất ngờ tung ra. “Điều tệ nhất là gã đó đã có con rồi. Hai người nghĩ gì về điều này?”
“Có con!” Charlie rùng mình. “Tội nghiệp bọn chúng. Hãy tưởng tượng bà cô Venetia là mẹ mình!”
“Thật quá quắt.” Ông cậu Paton ngẩng phắt đầu lên.
Charlie quay lưng ra cửa nên không thấy nội Bone đang bước tới từ đằng sau nó.
“Ta mừng rằng ta không phải là mẹ mày,” nội Bone hằn học. Mụ đùng đùng bước tới tủ lạnh, mở ra. “Chẳng có gì trong đây,” mụ phàn nàn. “Chả có gì ngoài phó mát và xương ôi. Không patê, không sốt mayonnaise và thậm chí không cả mùi cá hồi.”
Ngoại Maisie thở dài đánh sượt. “Làm sao tôi biết bà xuống đây lùng sục, với cái bụng cầu kỳ và cái mồm kén chọn của bà? Ngồi xuống đi, Grizelda, để tôi múc cho bà một ít súp nấm.”
“Thôi, cám ơn.” Nội Bone thả người đánh rầm vào chiếc ghế bập bênh gần bếp lò.
Ông cậu Paton nhăn mặt. Ông đã định vứt chiếc bập bênh đó đi rồi. Xưa nay có ai dùng tới nó. Nó là sự nhắc nhở không ngừng về sự có mặt ảm đạm của nội Bone. Phải chi ông nghĩ sớm và đã chặt nó ra làm củi từ hôm trước.
Cọt! Kẹt! Cọt! Kẹt! Cọt! Bà ta nằm đó, mắt nhắm lại, đầu rụt vào cằm. Cọt! Kẹt! Cọt! Kẹt! m thanh dư sức làm vón cục món súp.
“Thì ra,” Ông cậu Paton mãi mới tìm được lời, “tôi nghe nói bà bất hòa với các em, Grizelda.”
“Chúng cũng là chị của mày,” mụ độp lại. “Cưới chồng! Xời, ta chưa bao giờ nghe chuyện lố bịch đến vậy. Venetia đã năm mươi hai tuổi rồi. Đáng ra nó phải dẹp bỏ cái việc đại loại thế từ nhiều năm trước cơ.”
“Đại loại nào?” Charlie hỏi.
“Đừng xấc xược!” bà nội nó mắng.
Charlie ăn xong súp thì đứng lên. “Con cá là bà sẽ đi khi ba con trở về,” nó nói.
“Hừ, bọn mày sẽ đến sống ở Góc Kim Cương ấm cúng kia mà.” Mụ thảy cho Charlie ánh nhìn lạnh lẽo nhất của mụ. “Nhưng mà xem cá voi có thể rất nguy hiểm. Không chừng hắn chả bao giờ...”
Charlie không chờ nghe bà nội nói nốt câu. “Con qua nhà Ben chơi đây,” nó hét to, chạy ra hành lang và xộc áo khoác vào.
Ngoại Maisie gọi với theo, “Charlie, trời tối rồi cưng. Đừng để ý bà Bone. Bà ấy nói vậy chứ chả có ý gì đâu.”
“Có đấy,” Charlie lầm bầm. Nó rời nhà, chạy băng qua đường tới nhà số 12 và nhấn chuông. Đường Filbert luôn im ắng vào giờ này Chủ Nhật. Chỉ có vài chiếc xe chạy ngang qua, còn vỉa hè vắng teo. Nhưng Charlie cảm thấy nổi gai đằng sau gáy, mách bảo nó có ai đó đang nhìn mình.
“Lẹ, lẹ lên.” Charlie nhấn chuông lần thứ hai.
Benjamin Brown mở cửa. Nó nhỏ hơn Charlie vài tháng tuổi và nhỏ con hơn nhiều. Mái tóc vàng hỗn độn của nó trùng y với màu lông con chó đứng bên cạnh, vẫy đuôi rối rít.
“Mình vào được không?” Charlie hỏi. “Nội Bone vừa trở về.”
Benjamin hiểu ngay tắp lự. “Tai họa làm sao! Mình định đưa Hạt Đậu đi dạo đây. Đi không?”
Bất kể điều gì cũng tốt hơn một buổi tối trong cùng nhà với nội Bone. Charlie liền nhịp bước bên cạnh Benjamin khi thằng này hướng về phía công viên. Với những tiếng sủa hân hoan, Hạt Đậu chạy vòng quanh hai thằng bé, sau đó phóng thục mạng trên con đường tối. Benjamin không thích để vuột tầm mắt khỏi con chó. Dù biết thế là mình lo lắng không cần thiết. Ba mẹ nó luôn dặn nó hãy tươi tỉnh lên, nhưng Benjamin không thể nào khác đi bản tính của mình được. Ngoài ra, một màn sương mù đang bò vào phố – một màn sương bất thường, thoảng mùi muối.
Charlie thõng vai xuống. Lại nữa rồi. Vẫn cảm giác gai gai kỳ quặc bên dưới cổ áo. Nó dừng lại và ngoái nhìn ra sau.
“Gì vậy, Charlie?” Benjamin hỏi.
Charlie kể cho bạn nghe về những người nhưng không-giống-người nó đã thấy gần Góc Kim Cương.
“Đêm nay không có gì bình thường cả,” Benjamin run rẩy. “Chưa bao giờ mình nếm thấy mùi muối trong sương.”
Và rồi chúng nghe thấy tiếng tru – ở rất xa, nhưng đúng là một tiếng tru. m thanh đó nghe hơi giống tiếng người, nhưng không phải tiếng người. Lần đầu tiên kể từ khi ba mẹ đi nghỉ, Charlie ước gì họ đừng đi xem cá voi.
Hạt Đậu hộc tốc trở lại chỗ hai thằng bé. Lông xù dựng lên như lông nhím.
“Vì tiếng tru đó đó,” Benjamin bảo. “Mình đã nghe thấy một lần rồi. Nó khiến Hạt Đậu hoảng hốt, mặc dù bình thường Hạt Đậu vốn không sợ cái gì cả.”
Không lâu sau, Charlie nhận ra có mối liên quan giữa tiếng tru đằng xa và sinh vật không-hẳn-là-người hình như đang đi theo nó.
Nhưng còn về màn sương có muối lại là điều hoàn toàn khác.
NHỮNG KẺ LẠ TỪ BIỂN KHƠI
Có hai kẻ lạ mặt đã vào thành phố trong buổi chiều Chủ Nhật buốt giá hôm ấy. Họ đến bằng đường sông. Bỏ lại con thuyền neo dưới một cây cầu, họ leo bờ sông dốc lên đường cái. Họ di chuyển bằng những cử động chao đảo kỳ lạ như thể đang giữ thăng bằng trên boong tàu. Đi tới đâu họ kéo một màn sương mù theo đến đó: thứ sương mù giả tạo, đượm mùi muối, làm cho chim chóc im tiếng và khiến khách qua đường bật ho vào tận trong lồng ngực mà không cưỡng lại được.
Người nhỏ hơn trong hai người lạ là một thằng bé chừng 11 tuổi, mắt xanh biển trông như tảng băng trôi ngầm dưới nước. Mái tóc dài chấm vai của nó màu nâu lục, bết xỉn, hơi quăn một nếp. Dù cao đúng độ tuổi của mình, nhưng da nó tái nhợt, môi nó hầu như không có máu. Nó chòng chành đi qua những con đường rải sỏi, với vẻ quyết tâm, không gì lay chuyển trên bộ mặt mỏng quẹt.
Cha thằng bé có đôi mắt lạnh trơ giống như mắt nó, nhưng mái tóc dài của hắn ta điểm những vệt trắng. Tên hắn là Lord Grimwald.
Khi họ đến những bậc thang dẫn lên học viện Bloor, thằng bé dừng lại. Mắt nó dán vào những bức tường xám đồ sộ và đảo lên hai tòa tháp ở hai bên lối vào. “Đi từ biển tới đây xa quá,” nó nói bằng giọng du dương đến không ngờ.
“Con phải học cách sống không biển một thời gian.” Giọng người đàn ông có tiếng dội của hang động ẩm ướt.
“Được.” Thằng bé thọc một tay vào túi quần. Vẻ yên lòng hiện ra trên khuôn mặt nó trước sự tiếp xúc dễ chịu với những linh vật biển. Trong túi, nó mang theo một con cá vàng, một con nhím biển và mấy con cua vàng. Đó là quà tặng từ người mẹ quá cố, được làm từ vàng tìm thấy trong những con tàu đắm dưới biển sâu. “Dagbert, những linh vật biển này sẽ giúp con sống sót,” mẹ nó đã thì thầm với nó. “Nhưng con không bao giờ được cho cha con biết về chúng.”
Khi thằng bé bắt đầu lên cầu thang, cha nó nói, “Dagbert, nhớ lời ta dặn đấy. Phải cố tự kiềm chế.”
Dagbert dừng bước và quay lại nhìn cha. “Ngộ nhỡ con không thể thì sao?”
“Con buộc phải. Chúng ta ở đây giúp con.”
“Cha thì giúp. Còn con thì học.” Dagbert quay đầu và bước lên hết cầu thang. Cặp giò dài đưa nó băng qua mảnh sân gạch chỉ với vài sải chân liêu xiêu, tiếp theo, nó giật sợi dây xích treo cạnh cánh cửa đôi đồ sộ bằng gỗ sồi. Một tiếng chuông lanh lảnh cất lên đâu đó sâu thẳm bên trong tòa nhà. Dagbert săm soi những hình người bằng đồng khảm trên các cánh cửa.
“Họ xưa hơn cả tòa nhà.” Lord Grimwald rà ngón tay khắp hình một người đàn ông cầm cái gì trông như một tia chớp. “Tổ tiên của chúng ta đó, Dagbert. Nhớ đấy. Chúng ta đang nói về Petrello, người con thứ năm của Vua Đỏ.”
Một trong hai cánh cửa loảng xoảng mở ra và một người đàn ông xuất hiện. Đó là một gã lực lưỡng, đầu trọc lóc, mặt vuông bạnh và mắt nhỏ rí, vô hồn. “Gì hả?” Hắn hỏi.
“Chúng tôi có hẹn,” Lord Grimwald tuyên bố một cách ngạo mạn.
“Tên là Grimwald?” Mắt gã đàn ông híp lại.
“Chứ mi trông chờ ai khác à?”
Gã đàn ông lẩm bẩm “Chậc!” và mở cánh cửa rộng ra hơn. “Thế thì vô đi.”
Cha và con đi theo tấm phản thịt qua một tiền sảnh dài lát đá phiến tới một cánh cửa ăn vào một trong những bức tường ốp ván gỗ sồi. “Tháp nhạc,” kẻ dẫn đường thông báo, xoay một cái vòng sắt. Cánh cửa bật mở và hắn dẫn hai người khách vào một hành lang thắp sáng lù mù. Ở cuối hành lang họ đi vô một căn phòng hình tròn rồi leo một cầu thang xoáy trôn ốc. Lên hết quãng cầu thang thứ nhất, họ rẽ phải và bước vào một hành lang trải thảm dày.
“Văn phòng của tiến sĩ ở cửa thứ hai bên trái,” gã gác cổng đầu trọc nói. “Đúng như ông nói, ông có hẹn. Gia đình Bloor đang ở trong đó. Cả ba người.”
“Tên gì?” Lord Grimwald hạch sách. “Ta muốn biết những chi tiết này.”
“Weedon: gác cổng, lái xe, tạp vụ, làm vườn. Vậy đủ cho ông chưa?” Hắn nện gót trở lại cầu thang.
“Đồ láo xược.” Nước da xanh rêu của Lord Grimwald chuyển thành màu xìn xịt của đất nung. Khi tiến sát đến cửa văn phòng, hắn ta nện thẳng lên đó vài nắm đấm, thay vì gõ cửa lịch sự như ở trường hợp khác chắc hẳn hắn đã làm.
“Vô đi!” hai giọng vang lên cùng lúc, một trầm đục và ngạo mạn, còn giọng kia rít lên hăm hở.
Lord Grimwald và con trai bước vào phòng. Họ thấy mình ở trong một căn phòng u ám, xếp đầy sách, có một người đàn ông to cao đứng đằng sau bàn viết. Cạnh bên bàn là một sinh vật già khọm ngồi trong xe lăn. Toàn thân lão quấn tọt trong một tấm chăn ca-rô, đầu đội mũ đen hình tròn, ôm sát cái hộp sọ gồ xương. Từ đó lòi ra mấy dải tóc trắng thòng xuống tới vai, trông tưởng sợi sáp. Đằng sau lão, một lò sưởi đun củi cung cấp hơi ấm và chút màu sắc sinh động cho căn phòng.
“Lord Grimwald.” Tiến sĩ Bloor bước vòng qua bàn và bắt tay khách. “Hân hạnh gặp ông. Tôi là tiến sĩ Bloor, hiệu trưởng. Tôi tin là cuộc hành trình của ông không được thoải mái cho lắm.”
“Chúng tôi đến bằng đường biển.”
“Không thể nào. Chúng tôi cách biển nhiều dặm mà,” sinh vật trong xe lăn lên tiếng.
“Chúng tôi đã đi xa hết sức cho phép rồi sau đó chèo thuyền qua sông.” Lord Grimwald bắt bàn tay như móng vuốt thò ra khỏi tấm chăn ca-rô.
“Ta là ngài Ezekiel,” lão già cốc đế nói. “Ta một trăm lẻ một tuổi. Thế nào? Trông không tới tuổi đó, nhỉ?” Không chờ lời đáp lại, lão tiếp, “Ra đây là thằng bé.” Lão thộp lấy tay Dagbert.
“Tên nó là Dagbert,” Lord Grimwald bảo với lão khọm. “Nó có nhiều tên khác nữa, nhưng chúng tôi quyết định họ của nó là Endless1.”
“Bởi vì tên tôi vĩnh cửu như đại dương.” Dagbert không hề nao núng khi những ngón tay mình bị vò trong một bàn tay xương xẩu. Thật ra nó không nhìn lão Ezekiel. Ánh mắt nó bị hút vào một hình thù trong góc phòng, tùm hụp và sậm tối, ngoảnh mặt khỏi những vị khách, mặc dù nó tạo ấn tượng là đang chăm chú lắng nghe không sót lời nào. Dagbert mải chú mục tới hình thù sát khí đó đến nỗi quên kiểm soát bản thân.
Những lưỡi lửa trong vỉ lò hiu hắt rồi tắt ngỏm. Một màn sương nhớp nháp tràn vào phòng, và những quyển sách màu mốc giăng kín các bức tường bị tắm đẫm trong ánh sáng biển kỳ quái.
“Ma quỷ gì thế này?” Lão Ezekiel vọt miệng, kéo tấm chăn vô sát người hơn.
“Đó là phép của nó,” Lord Grimwald thản nhiên nói. “Chẳng bao lâu nữa Dagbert sẽ phát huy hết quyền năng, và tài phép của nó sẽ mạnh hơn ta.”
“Thật thế ư?” Tiến sĩ Bloor ước lượng thằng bé. “Một ý nghĩ chẳng thoải mái cho ông, ông Lord Grimwald à.”
“Không đâu. Dagbert sẽ không bất tuân. Nếu thế nó sẽ chết. Nó biết rõ điều này.” Lord Grimwald nói như thể con trai không hề có mặt trong phòng. “Ta không muốn có con,” hắn tiếp, “Nhưng rồi thì phép lạ này xảy đến,” hắn chỉ Dagbert, “và ta thấy mình không thể tách khỏi điều đó. Dòng họ của ta bị nguyền rủa, ông biết đấy. Hễ khi nào một đứa con trai đạt tới tối đa công lực, nó sẽ quay qua chống lại cha nó, rồi thì một trong hai cha con sẽ có người chết. Nhưng chúng tôi, ta và Dagbert, đã có một hiệp ước, sẽ luôn luôn hợp tác cùng nhau. Phải không, Dagbert?”
Dagbert gật đầu với cha một cái cụt lủn.
“Nào, Dagbert, hãy tự chủ!”
Dagbert mỉm cười. Ánh sáng biển nhạt đi, những khúc củi trong lò kêu lèo xèo và bùng cháy trở lại.
“Thú vị.” Tiến sĩ Bloor nhíu mày với thằng bé. “Miễn là nó sử dụng tài phép của nó đúng chỗ.”
“Hãy để mắt tới nó giùm ta,” Lord Grimwald nói, “Và ta sẽ làm những gì ông muốn.”
“Chúng tôi sẽ xếp nó vào phòng ngủ chung của Charlie Bone,” lão Ezekiel hả hê.
“Xin mời cả hai người ngồi xuống,” tiến sĩ Bloor nói. “Dagbert, lấy mấy chiếc ghế cạnh kệ sách lại đây.”
Thằng bé kéo hai chiếc ghế lại gần bàn trong khi tiến sĩ Bloor tiếp, “Charlie Bone đang trở nên mạnh ngoài tầm kiểm soát. Cần phải gò cương nó lại.”
“Cháu có thể làm điều đó, thưa ngài.” Dagbert ngồi xuống ghế cạnh cha nó.
Lần đầu tiên kể từ khi những vị khách tới, cái hình thù trong bóng tối day mặt ra ánh sáng. Lord Grimwald vô ý thở hốc lên, nhưng con trai hắn ta trố mắt nhìn gương mặt bị tàn phá của Manfred Bloor bằng vẻ hãi hùng pha lẫn khoái chí. Bốn vết sẹo lớn chạy từ đường ngôi tới cằm của người thanh niên. Mí mắt hắn nhúm nhíu những mũi khâu và môi trên bị xách ngược lên thành hai phần, khiến cho bộ mặt hắn mang vẻ quàu quạu vĩnh viễn.
“Khủng khiếp hả?” Lão Ezekiel ngó quành lại thằng chắt của mình. “Nhưng chúng ta sẽ trả thù chúng, Manfred.”
“Sao lại ra thế?” Lord Grimwald hỏi.
“Lũ mèo,” tiến sĩ Bloor đáp.
“Mèo?” Lord Grimwald lặp lại, không tin nổi.
“Những con báo,” một giọng đùng đục từ phòng vang vọng ra.
“Chúng xé toạc cổ họng nó,” tiến sĩ Bloor hạ thấp giọng. “Mỗi tiếng nói ra đều khiến nó đau đớn.”
“Những con báo.” Mắt Dagbert vẫn chưa rời khỏi bộ mặt bị hủy hoại.
“Những con báo của Vua Đỏ,” lại cái giọng ghê sợ đó.
Dagbert quay qua cha. “Chúng ta là con cháu của Vua Đỏ.”
Cha nó gật đầu. “Chính vì vậy chúng ta ở đây.”
“Vậy là mi biết câu chuyện về Vua Đỏ?” Lão Ezekiel lăn xe lại gần Dagbert. “Mi biết là khi vợ ngài mất, nhà vua vào rừng than khóc chỉ có lũ báo đi cùng. Nhưng mi có biết ngài đã biến lũ báo đó thành mèo không? Những con mèo bất tử, lông chúng sáng như lửa, lũ mèo đó xuất hiện trong mọi thế hệ để đồng hành với những đứa trẻ khước từ sự kiểm soát.” Giọng lão Ezekiel rú lên giận dữ. “Chính chúng. Những con mèo đó đã hủy hoại chắt của ta.”
“Tại sao?” Dagbert hỏi, rất can đảm trước nỗi cuồng điên của lão già.
“Đúng, Charlie Bone,” tiến sĩ Bloor thừa nhận. “Cứ cho là nó cố cứu cha nó, nhưng làm ra nông nỗi này...” ông hiệu trưởng vung tay về phía con trai.
“Ông đã tìm ra cách trừng phạt Charlie Bone chưa?” Lord Grimwald hỏi.
“Chúng tôi hy vọng ông có thể giúp chúng tôi.” Tiến sĩ Bloor thở phùù ra. “Charlie có bạn bè, ông biết đấy, đám bạn có phép hùng mạnh. Chúng nó dính nhau như hồ.”
“Hồ có thể bị loãng,” Dagbert lẳng lặng nói.
Một bầu thinh lặng kinh ngạc theo sau lời nhận xét này. Gia đình Bloor đánh giá Dagbert bằng mối quan tâm mới. Nhưng ánh mắt thằng bé đang bị ghìm giữ trong đôi mắt sứt sẹo đang nhìn ra nó từ trong bóng tối, và tất cả mọi người trong phòng đều cảm nhận mối dây vô hình được hình thành tức tốc giữa Dagbert Endless và Manfred Bloor.
Ezekiel mỉm cười thỏa mãn. Từng có nhiều đứa trẻ được ban phép thuật học ở học viện Bloor; không thiếu đứa độc địa một cách đáng hài lòng, nhưng lão chắc chắn chưa đứa nào chết người như thằng bé phương Bắc có đôi mắt băng trôi này.
Lord Grimwald đứng dậy và bắt đầu di chuyển trong phòng bằng kiểu đi lảo đảo quái đản của mình. “Vậy là ông sẽ giáo dục con trai ta. Thế còn ta sẽ phải làm gì cho ông?”
“À, bây giờ chúng ta đi vào mấu chốt vấn đề,” lão Ezekiel hồ hởi. “Ông có thể điều khiển biển cả, Lord Grimwald. Một tài phép không ai bằng, nếu ta có thể nói thế.”
Lord Grimwald nghiêng đầu trong khi vẫn tiếp tục liêu xiêu trong phòng.
Tiến sĩ Bloor nói, “Cha của Charlie, Lyell Bone, hiện giờ đang ở ngoài biển. Hắn đi hưởng tuần trăng mật lần thứ hai với vợ là Amy. Và bọn chúng đã quyết định sẽ đi xem cá voi.”
“Xem cá voi!” lão Ezekiel cười lục cục. “Bọn ngớ ngẩn. Chúng đang ở trên một con thuyền bé tẹo, sóng sẽ đánh thuyền của chúng nghiêng ngả, đến khi một con sóng cao nhất, lớn nhất, rộng nhất sẽ dìm con thuyền xuống đáy đại dương, cho Lyell và Amy mãi mãi nằm lại dưới đấy. Ông nghĩ sao về điều đó, Lord Grimwald?”
“Ta có thể làm điều đó cho ông.” Lord Grimwald dừng bước và ngồi xuống. “Nhưng cho ta hỏi, ngoài trừng phạt Charlie Bone, còn có lý do nào khác mà ông muốn dìm chết Lyell Bone?”
“BẢN DI CHÚC!” cả tiến sĩ Bloor và lão Ezekiel cùng đồng thanh.
“Bản di chúc?” Lord Grimwald hỏi.
“Nó xưa, xưa lắm rồi, nhưng vẫn còn hiệu lực,” lão Ezekiel nói. “Do ông tằng tổ của ta, Septimus Bloor, lập năm 1865, ngay trước khi chết. Lão ấy để lại mọi thứ: nhà, vườn, lâu đài trên bãi đổ nát, những tài sản vô giá, tất tật... tất tật cho con gái lão là Maybelle và bọn thừa kế của mụ. Nhưng bà dì của ta, Beatrice, là một phù thủy. Beatrice rất căm ghét Maybelle, nên đã đầu độc Maybelle và làm giả một bản di chúc khác. Bản di chúc này, bản giả đó, để lại tất cả mọi thứ cho ông nội ta, Bertram. Ông ấy để lại tất cả cho cha ta, sau đó cho ta. Beatrice không muốn gì cho mình cả – bà ấy thấy Maybelle chết và thấy con cái mụ bơ vơ sống nhờ trại tế bần là mãn nguyện rồi.”
“Thứ lỗi cho sự chậm hiểu của ta, ngài Bloor, nhưng đâu là vấn đề?” Lord Grimwald xòe tay ra. “Dường như bản di chúc thật không còn tồn tại nữa.”
“Nhưng có đấy, nó vẫn tồn tại,” lão Ezekiel thét gào. “Có kẻ đã tìm thấy nó, đó là Rufus Raven, chắt của Maybelle. Hắn đã trao cho vợ hắn, Ellen, ngay trong ngày cưới.”
“Trao bản di chúc?” Lord Grimwald hỏi.
“Không, không chính xác là bản di chúc. Ellen được trao chiếc hộp đựng bản di chúc,” tiến sĩ Bloor giải thích. “Chìa khóa đã mất và cô ta không thể mở được chiếc hộp, nhưng Ellen được ban phép nhận biết... đồ vật. Cô ta đoán trong hộp chứa một thứ cực kỳ quan trọng.”
“Bọn ta tin rằng Rufus đã trao chiếc hộp cho Lyell Bone giữ cho an toàn,” lão Ezekiel nói. “Chúng là bạn nối khố của nhau, hắn và Rufus ấy. Bọn ta đã thương lượng, đã cố dọa nạt: ‘Đưa cái hộp cho bọn ta thì mi sẽ được một nửa gia tài’. Dĩ nhiên bọn ta dụ thế thôi.” Một nụ cười quỷ quyệt bệu ra khỏi cặp môi héo hắt của lão Ezekiel. “Nhưng Rufus không chịu nhả. Vì vậy bọn ta buộc phải khử hắn với con vợ khờ khạo của hắn. Một tai nạn thương tâm do một thợ máy xe được ta trả công bày bố. Thằng con của chúng sống sót, nhưng nó chẳng biết tí ti gì.”
“Tên nó là Billy,” tiến sĩ Bloor nói. “Bọn ta đang giữ nó ở đây. Nó 8 tuổi và có thể nói chuyện với thú vật.”
“Lợi hại ghê,” Dagbert thích thú.
Lão Ezekiel cười gằn. “Tài phép của Billy đến giờ chả có lợi lộc gì cho nó. Như Thương Hại này là ví dụ.” Lão bật ngón tay. “Thương Hại, lại đây.”
Một con chó già khú đế từ dưới gầm bàn hiện ra. Mắt nó bị khuất tịt trong mớ da bèo nhèo chảy xệ, bộ vó ngắn cũn cỡn hầu như không đỡ nổi thân hình ục ịch của nó. Môi Dagbert tớn lên ghê tởm khi con vật ự hự và dí vòm miệng nước dãi lòng ròng vào tấm chăn của lão Ezekiel.
“Billy gọi nó là May Phúc,” lão Ezekiel nói. “Có trời mới biết tại sao. Con chó này hiểu được mấy lời láo nháo của Billy nhưng lại chả hiểu những gì bọn ta nói. Bướm với lại,” lão Ezekiel huơ đôi tay còng queo lên khỏi đầu, “với lại... tiệc sinh nhật, là tất cả những gì nó biết. Vì vậy nó không thể mách lẻo Billy chút gì về cuộc chuyện trò của bọn ta, hay về sự thừa kế của nó.”
“Lão chắc không đó?” Dagbert nghi ngờ tia con chó.
“Hoàn toàn,” tiến sĩ Bloor nói. “Những từ duy nhất con chó đó biết là tên nó: Thương Hại hoặc May Phúc.”
Điều này không hẳn đúng. May Phúc không đủ khả năng để hiểu hết từng lời được nói ra, nhưng nó hiểu mạch cảm xúc ở trong phòng. Nó biết bọn họ đang nói về bạn của nó, Billy, và linh cảm hai kẻ lạ mặt kia mang đến tai họa. Họ phả mùi sương và gỗ mục. Da họ lạnh và trơn nhẫy, và trong giọng nói của họ có âm vang tiếng sóng đập vào bờ đá. Mắt thằng bé nhoang nhoáng như nước đóng băng, và mặt của người đàn ông kể về những con tàu đắm và những người bị chết đuối thương tâm. May Phúc sẽ mô tả tất cả những điều này cho Billy, sau đó Billy sẽ nói chuyện với bà bếp trưởng. Và bà bếp trưởng sẽ cho May Phúc một cục xương to, May Phúc hy vọng vậy. Con chó già hướng ra cửa, ngúc ngoắc cái đuôi trụi lủi và đánh một phát rắm khi nghĩ về cục xương hằng ao ước.
Có tiếng gõ cửa lớn và, khi cửa mở, May Phúc hấp tấp sượt qua Weedon ra hành lang.
“Bà bếp trưởng đã dọn xong bữa tối,” Weedon thông báo một cách cục cằn.
“À!” tiến sĩ Bloor đập hai bàn tay vào nhau. “Phòng ăn ở cuối hành lang. Đi hướng này, xin mời mọi người.”
Trong khi hai vị khách đi theo tiến sĩ Bloor, một phụ nữ nhỏ nhắn từ phòng ăn hiện ra. Bà bếp trưởng đã tròn trịa hơn ngày trước, mái tóc đen giờ hơi ngả xám, nhưng gương mặt hồng hào vẫn lưu lại những nét xinh đẹp thời trẻ. Trông thấy tiến sĩ Bloor và khách, bà đứng nép qua bên cho họ đi qua.
“Cảm ơn, bà bếp trưởng,” tiến sĩ Bloor nói.
Bà bếp trưởng gật đầu, bỗng bất giác rùng mình. Bà bụm chiếc khăn mùi xoa lên mặt và lật đật đi khỏi. Tim bà đập nhanh đến nỗi May Phúc cũng nghe thấy khi bà chạy theo sau nó xuống cầu thang.
“Ối, hãi hùng! Ối, kinh hoàng! Đó là hắn. Là hắn đấy. Ối, May Phúc, ta phải làm gì đây? Sao hắn lại ở đây? Sao lại là bây giờ?”
Bà bếp trưởng bươn vào căn tin xanh da trời, với May Phúc kè sát nút. Chiếc khăn mùi xoa vẫn bịt chặt miệng bà như thể từng luồng không khí bà hít vào đều bị đầu độc.
“Bà bếp trưởng, chuyện gì vậy ạ?”
Bà bếp trưởng đã không thấy thằng bé tóc trắng đang ngồi bên cái bàn trong góc.
“Ồ, Billy, cưng. Ta bàng hoàng quá.” Bà kéo một chiếc ghế ra và ngồi xuống cạnh nó. “Có một người đàn ông ở đây. Hắn... hắn...” bà lắc đầu. “Billy, ta cần phải nói với con. Chính hắn đã dìm chết cha mẹ ta, quét sạch nhà cửa của ta và giết hại vị hôn phu của ta, tất cả chỉ vì ta không cưới hắn.”
Đôi mắt màu rượu vang đỏ của Billy trợn tròn kinh hãi. “Ở đây? Nhưng tại sao?”
“Ta không lý giải được cho con hiểu. Có gì đó liên quan tới thằng bé mà hắn mang theo, ta nghĩ vậy.” Bà bếp trưởng hỉ mũi và giắt chiếc khăn mùi xoa vào tay áo. “Tên hắn là Grimwald. Chuyện đã bốn mươi năm rồi. Ta không biết hắn còn nhận ra ta không. Nhưng rủi hắn nhận ra...” bà nhắm mắt lại cố gạt đi những nỗi kinh hoàng không thể tưởng tượng được. “Nếu hắn nhận ra, ta buộc phải rời khỏi đây.”
“Rời khỏi đây? Không thể được, bà bếp trưởng!” Billy bật dậy và vòng tay ôm cổ bà bếp trưởng. “Con sẽ ra sao nếu không có bà? Bà không thể đi được. Bà đừng đi. Làm ơn đừng đi, mà.”
Bà bếp trưởng lắc đầu. “Ta không biết, Billy. Đã từng có rất nhiều người khủng khiếp tới nơi này, nhưng hắn là kẻ kinh khủng nhất. Nếu thằng bé kia có chút gì giống hắn, chúng ta sẽ nguy khốn, tin ta đi.”
Bất thình lình May Phúc chồm hai chân lên đùi bà bếp trưởng và ngửa đầu ra sau, tru lên một tiếng thê lương đến nỗi Billy phải bịt tai lại.
“Nó biết,” Billy thì thầm. “Nó muốn nói với con điều gì đó, nhưng con không chắc mình có muốn nghe không.”