Charlie giơ nắm tay lem luốc bồ hóng lên dụi mắt. Nó ngước nhìn những thanh xà rực sáng ánh lửa lò, mong ngóng thấy đốm sáng nhỏ xíu là con bướm của mình. Khẩn thiết hy vọng nó đã theo mình tới đây.
Lũ người đá hình như không thấy nó. Chúng đang bận hủy diệt ông Feromel quả cảm. Bị áp đảo về số lượng và sức mạnh, người thợ rèn quyết không đầu hàng cho tới lúc mọi tia lửa của sự sống trong ông tắt lịm. Chứng kiến cảnh trừng phạt man rợ mà ông Feromel phải chịu, Charlie phi thân vào gã đàn ông đá, gã chỉ huơ một cánh tay bành ki là gạt Charlie văng bay qua căn phòng. Nó lụi hụi đứng dậy và húc vào chân con mụ đá, nhưng vô ích, khác nào cố húc đổ một thân cây.
Bức tượng thần lùn chĩa ánh mắt trơ đá, hung tợn vào Charlie. Hắn xoay người một phát, ngáng cẳng Charlie từ phía dưới. Charlie hổng giò ngã ụp xuống đất lần nữa, và, khi nó nhắm mắt lại đau đớn, một luồng sáng phụt qua tầm mắt nó. Khoảng khắc tiếp theo, nó trôi lềnh bềnh.
“Charlie! Charlie!” những tiếng gọi từ xa trôi dần đến.
“Nó đang chu du phải không? Đáng lẽ nó không nên nhìn vô cái ấm đó.” Giọng này om xòm và cáu kỉnh.
“Cháu nghĩ nó đang ra khỏi đó kìa.”
Charlie thấy mình nhìn xuống một vòng nước đen như mực. Từ từ, nó ngóc cái đầu đau như búa bổ lên. Khắp xung quanh nó, hàng hà ấp đun nước nhấp nha nhấp nháy. Ánh sáng từ chúng tỏa ra chói đến độ Charlie phải nhắm tịt mắt lại để tránh bị lóa.
“Ngồi xuống, cậu bé.”
Charlie được dìu tới một cái ghế, và nó vô cùng cảm kích đặt thân mình nhức nhối của mình xuống. Một gương mặt to, bong nhẫy mồ hôi, dí sát vào mặt nó.
“Cưng làm thế để làm gì, hả?” bà Kettle hỏi. “Làm chúng tôi sợ một mẻ bạt vía.”
“Xin lỗi,” Charlie lung búng. “Nó tự nhiên xảy ra. Ông ấy cần cháu, nhưng vô ích rồi. Cháu không thể giúp được gì.”
Tancred trao cho Charlie một ly nước. “Em đi lâu đến mấy thế kỷ luôn đó, Charlie. Đông cứng tại chỗ. Không dấu hiệu sự sống. Anh với bà Kettle không sao dịch chuyển em được.”
Charlie hớp mấy ngụm lớn thứ nước lạnh dễ chịu. “Ở trong đó nóng dễ sợ,” nó láp ngáp.
“Ở đâu, cưng? Cưng đã đi đâu?” Gương mặt lớn của bà Kettle dời đi khi bà ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh ghế của Charlie.
Hít một hơi thật sâu, Charlie nói, “Thật ra, cháu nghĩ mình đã ở ngay tại đây, có cả ông Feromel nữa.”
“Feromel?” bà Kettle bất giác chắp tay vào nhau. “Cưng đã gặp ngài?”
Charlie liếc nhìn gương mặt hoan hỉ của bà. “Xin lỗi, bà Kettle. Cháu đã cố, nhưng vô ích. Cháu không thể giúp được ông ấy. Cháu đã chứng kiến cảnh ông ấy chết. Gã đàn ông đá đã giết ông ấy. Sự thực mà chúng ta biết là như vậy.”
“Chao!” Tancred lẳng lặng thốt lên.
Một quãng im lặng kéo dài trong khi Charlie đấu tranh tự vấn lương tâm, không chắc có nên kể cho bà Kettle nghe về cái cán gươm vàng đó hay không. Bà là hậu duệ của ông Feromel, đường đường chính chính, bà phải biết về sự tồn tại của nó, nhưng Charlie vẫn lấn cấn nghĩ Hiệp Sĩ Đỏ chưa chắn đã là bạn.
“Đừng lộ mặt thoái chí thế, cưng.” Bà Kettle cầm bàn tay Charlie, vỗ vỗ. “Chắc chắn cưng không thể xoay chuyển được đâu. Hột xúc xắc đã đổ ra. Bọn đê tiện đã ra tay khi đầu óc cưng chìm vô trong cái ấm kia. Bà vốn luôn thắc mắc về nó mãi.” Charlie nhìn theo ánh mắt bà tới cái ấm to đùng, đặt trên bàn. “Đôi khi bà nghe thấy có tiếng lục đục, rồi có những khi bà thề là bà thấy ánh lửa nháng lên khỏi mặt nước đen của nó. Bà luôn tin rằng cái ấm cổ đó phản chiếu kết cục bi thảm của tổ tiên mình. Nhưng tại sao? Bà thường tự hỏi. Mục đích của việc ngài lưu lại ngày cuối cùng của mình trên đời này là gì?”
Charlie không thể giấu diếm sự thật lâu hơn được nữa. “Bởi vì ông ấy giấu một vật, bà Kettle ạ, và có lẽ ông ấy hy vọng, một người chu du nào đó, giống như cháu sẽ trở lại và thấy chỗ ông ấy giấu nó.”
“Giấu cái gì, Charlie?” Tancred hỏi.
Charlie nhìn từ Tancred qua bà Kettle. “Một cán gươm. Ông ấy bảo nó do chính tay Vua Đỏ trang trí.”
“Cái gì!” bà Kettle nhảy bắn khỏi ghế. “Nó ở đâu, Charlie? Ông Feromel đã giấu nó ở đâu?”
“Trong ống khói.”
“Ống khói?” người thợ rèn hét lên, chạy tới cánh cửa kim loại. “Thế thì ở trong lò sưởi. Bà phải dập tắt lửa đi mới được.”
“Không, không,” Charlie nói. “Không phải trong lò sưởi. Nó chỉ có một chút lửa ông ấy nhóm trong căn phòng.”
“Có một ống khói kìa,” Tancred chỉ mảng tường bao ống khói ở đằng sau một lò sưởi lớn bằng sắt.
Charlie lắc đầu. “Nó ở gần mặt đất, vì vậy nó phải thấp hơn nóc lò sưởi.”
Tancred nghi hoặc nhìn cái lò sưởi trông kiên cố. “Nó phải nặng đến cả tấn.”
Bà Kettle không hề bác bỏ điều đó. “Đi nào, mấy cưng, giúp bà một tay.” Bà bước tới lò sưởi và bắt đầu giật nó ra khỏi bức tường.
Hai thằng bé không còn cách nào khác, phải xấn tới giúp bà. Hên là lò sưởi chưa đỏ lửa, trong khi Charlie lôi từ phía mặt sàn, Tancred giật ở bên trên Charlie, và bà Kettle kéo ở trên đỉnh. Từ từ một bên lò sưởi dềnh dàng bắt đầu dịch chuyển khỏi tường. khi nó tách ra một lỗ hổng chừng nửa mét, bà Kettle la lớn. “Dừng lại, mấy cưng. Bà có thể nhìn vô trong ống khói được rồi.”
Charlie ghé mắt dòm vô trong lò sưởi. “Một cái lỗ rất nhỏ,” nó nhận xét.
“Thế thì chúng ta sẽ cho nó to hơn.” Bà Kettle đi huỳnh huỵch qua cánh cửa sắt vô xưởng rèn và quay trở lại hầu như ngay tức khắc, lấy ra một cái búa thật lớn. Ép mình vô giữa bức tường và lò sưởi, bà đẩy một phát cực mạnh bằng cặp mông to lớn của mình. Lò sưởi lùi lại ít nhất một mét nữa, cho bà thợ rèn đủ chỗ để quai búa vào bức tường đáy ống khói.
Rắc! Chỉ một búa là đủ đập vỡ những viên gạch trên ống khói. Bị bao bọc trong đám bụi đen, bà Kettle dộng thêm một nhát nữa. Với nhát thứ ba, một đống gạch văng khỏi đáy ống khói, vùi bà Kettle tới tận đầu gối.
“Aa-ha!” người thợ rèn reo lên chiến thắng. “Charlie, đến lượt cưng đó. Cưng coi ngài Feromel đã cất vật báu đó ở đâu.”
Dùng chân hất đống gạch vỡ ra để lấy đường đi, bà dịch tới phía sau lò sưởi và chỉ cái lỗ lớn mình vừa đập ra. “Cưng nghĩ sao?”
Charlie không biết phải nghĩ gì. Nó cố tưởng tượng căn phòng tối nơi nó đã giúp ông Feromel giấu cán gươm. Liệu cái này có đúng là ống khói đó?
“Tìm đi, Charlie!” Sự nhiệt tình của Tancred thổi tung những đám bụi lên không, khiến Charlie bật ho.
“Bình tĩnh, Tancred!” bà Kettle trách cứ. “Này, Charlie đeo cái này vô.” Bà trao cho nó một đôi bao tay quá khổ.
Charlie cẩn thận đeo chúng vào. Chuyển động của nó chậm chạp và lưỡng lự, bởi vì đầu óc nó đầy ắp mối hồ nghi. Có lẽ một vật quý như vậy không bao giờ được tìm thấy, nhất là bởi một đứa như nó, cái thằng không bao giờ tỏ ra xứng đáng được chạm vào vật sở hữu của nhà vua vĩ đại.
“Thế thì tháo nó ra. Hôm nay không có lửa trong ống khói.” Bà Kettle bật cười, Tancred cũng cười theo. Tiếng cười của họ dường như lạc điệu với tình huống tôn nghiêm này.
Charlie tháo chiếc găng tay phải ra và đặt xuống nóc lò sưởi. Nó dạng chân gạt vài mẩu gạch qua bên, rồi quỳ gối xuống trước cái lỗ rộng trong đáy ống khói. Nó có thể thấy gạch ở đằng sau, trét dính lại bằng nhựa đường và bồ hóng. Nó chồm tới trước và rà bàn tay đeo găng khắp bề mặt bức tường. Có một viên gạch hơi lục sục bên dưới ngón tay nó. Charlie nghĩ bụng mình đã không nhìn thấy. Nó đang nghĩ về tấm áo choàng bị mất cắp. Nếu Hiệp Sĩ Đỏ là kẻ trộm, thì liệu ông ta có xứng được trao cho thanh gươm thần?
“Cháu không chắc phòng này đúng hay không,” nó nói.
“Chắc chắn mà. Ngài Feromel đã sống ở đây. Ngôi nhà này hầu như không thay đổi.” Bà Kettle nhìn Charlie thật lâu, thật xoáy. “Cưng có chắc không, cưng? Thử lần nữa coi.”
Một lần nữa Charlie rà bàn tay quanh tường. Viên gạch lỏng tao ra một tiếng lích nhẹ, gai người, nhưng Charlie không nghe thấy.
“Cái gì đó?” Tancred la lớn. “Anh nghe có tiếng gì.” Cậu quỳ gối xuống bên cạnh Charlie. “Nghe như cái gì đang lỏng ra.”
“Chỉ là vôi vữa thôi,” Charlie phản đối.
Tancred không chịu. Thò hẳn đầu và vai vô bên trong ống khói, anh sờ soạng mảng tường bằng cả hai tay. “Đây rồi!” Anh nhấc viên gạch lỏng và đem nó ra ngoài ánh sáng.
“Chà!” bà Kettle ập hai bàn tay to lớn vào má mình. “Bà không tin nổi. Có gì trong đó, Charlie? Đằng sau viên gạch có gì? Mau lên, MÒ xem sao, cưng.”
Charlie thò tay phải vô trong cái hốc. Những ngón tay nó rờ trúng mặt trên của một vật cứng bọc vải. Mất một tích tắc chần chừ, nó chầm chậm lôi cái bọc ra khỏi bức tường. Bên dưới lớp bụi dày, miếng vải đỏ phai màu lộ ra. Charlie thấy mình không thể thở nổi. m thanh duy nhất trong căn phòng hình như là tiếng tim nó đập hối hả. Nó trao cái bọc cho bà Kettle.
“Ôi, Charlie!” bà thở dốc. “Bà có nên nhận?”
“Dĩ nhiên,” Tancred nôn nao. “Mở tấm vải ra. Chúng ta hãy xem đi.”
Phải một lúc, bà Kettle xúc động đến nỗi không nhúc nhích được. Bà nhìn một cách tôn kính cái bọc vải đầy bụi, rồi thận trọng mở nó ra.
Trong ánh sáng của phòng đựng ấm, cái cán gươm trông thậm chí còn lộng lẫy hơn Charlie nhớ. Choáng sốc đến không thốt nên lời, cả ba người nhìn ánh vàng rực rỡ, những con chim tinh xảo và những con báo cẩn saphia.
“Đó là vật đẹp nhất cháu thấy trong đời mình,” Tancred trầm trồ.
“Không chỉ đẹp, mà còn bất khả chiến bại,” bà Kettle nói. Hạ thấp giọng đến nỗi hầu như bọn trẻ không nghe được, bà thêm, “và có phép màu.”
“Nhỡ nó không khớp với thanh gươm của bà thì sao?” Tancred hỏi, đôi khi cậu lại thực tế một cách đáng ngạc nhiên.
Bà Kettle quay ngoắt đôi vai rộng của bà và ra lệnh. “Theo bà!”
Hai thằng bám sát gót bà qua cánh cửa kim loại, vô căn phòng mà bà gọi là xưởng rèn. Có một hộp kim loại dài nằm dài trên cái bàn thô. Bà Kettle mở nắp hộp lên và họ ngắm nhìn thanh gươm sáng chói. Ngay cả khi chưa hoàn tất, nó cũng khiến một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng Charlie – trông nó thật nguy hiểm.
Mũi gươm thon dần thành một đầu nhọn phản trắc, nhưng phần chuôi gươm thừa ra một dải kim loại dài chừng mười lăm xăng-ti-mét.
“Không có tay cầm,” Tancred nhận xét. “Ý cháu nói là nó không có cán.”
Một lần nữa, bà Kettle mở cái gói bụi bặm ra. Bà kính cẩn nhìn cán gươm hoàn mỹ và rồi, rất thận trọng, nâng nó lên sát mặt. Ngó xuống phía dưới hai con báo có cánh, bà vui mừng thốt lên, “Đây rồi!” và quay phần đầu cán gươm về phía bọn con trai.
Chúng thấy một khoảng đen ở giữa – một rãnh hẹp được làm để tra cái gì như là phần đuôi của một thanh gươm vào.
“Charlie,” bà Kettle nói, “nhấc thanh gươm lên.”
Charlie chùi hai bàn tay dính bồ hóng vô quần và nhẹ nhàng nâng dải kim loại mỏng ở chuôi thanh gươm lên.
“Tốt, giữ chắc lấy,” bà Kettle ra lệnh.
Bà mỉm cười với chúng, nhưng Charlie có thể thấy là bà rất hồi hộp, không dám tin chắc cán gươm có thể tra vừa thanh gươm. “Cao lên, Charlie,” bà nói, giọng bà hơi run.
Charlie nâng thanh gươm lên thêm vài xăng-ti-mét nữa, và bà Kettle từ từ tra cán gươm dải kim loại. Nó lách vô khe êm đến nỗi dường như có một lực hấp dẫn kéo cánh của những con báo trôi xuống lưỡi gươm sáng loáng.
“Được làm để khớp nhau,” Tancred thở hắt ra.
Hầu như đồng thời với lời cậu nói, một cơn gió mạnh lùa qua sàn xưởng rèn cùng với một tiếng thở phào phụt ra từ đâu đó sâu trong những bức tường cổ xưa.
Charlie nhìn Tancred.
“Không phải anh,” Tancred nói, lo lắng nhìn quanh phòng.
“Đó là ngài Feromel,” bà Kettle bảo, một dòng nước mắt ngấn ướt mắt bà. “Cảm ơn, Charlie. Ngài đã yên lòng rồi.” Bà đặt thanh gươm giờ đã hoàn chỉnh vô hộp của nó và đóng nắp lại.
“Cháu có làm gì đâu, thật mà” Charlie nói, hơi bối rối. “Nó cứ thế xảy ra thôi.”
“Cưng đã làm nhiều lắm rồi, giờ cưng phải co giò chạy thôi,” bà liếc nhìn ra cửa sổ. “Trời tối rồi kìa, có lẽ chúng đã đến rồi.”
“Ai cơ?” Tancred hỏi, thấp thỏm nhấc vai lên.
“Manfred và đồng bọn, dù chúng là cái gì hay là bất cứ ai.” Mặt bà Kettle nghiêm lại khi bà dẫn hai thằng trở lại biển ấm đun nước. Và khi Tancred và Charlie bước ra ngoài trời xẩm tối, một tiếng thì thào trầm trầm rót vào tai chúng qua cánh cửa đang đóng lại. “Đừng làm gì ngu ngốc cho đến chừng nào Hiệp Sĩ Đỏ có thanh gươm của ngài.”
“Làm sao tụi mình biết được điều đó?” Tancred hỏi khi chúng chạy hối hả trên con đường thắp sáng qua loa.
“Có lẽ bà ấy sẽ có thông điệp nhắn cho tụi mình biết.”
Cả hai tăng tốc. Chúng cảm thấy nhiều con mắt đang dòm mình qua những khe cửa sổ tối hù. Nhưng khi chúng đi qua tiệm bán cá, Tancred lại dừng bước và ngước nhìn cửa sổ phía trên tấm biển. “Dagbert không có ở đó,” cậu nói. “Anh không ngửi thấy mùi cá.”
Charlie bước tiếp tới tiệm Đá. Nó nheo mắt nhìn vô những bóng người bên kia cửa sổ. Người đàn ông đá ở đó: đúng y cái gã đã hùng hổ xông vô nhà ông Feromel và nghiền sự sống ra khỏi ông. Charlie lùi sựng lại trước ánh nhìn trơ tráo của những con mắt đá thồi lồi. “Tụi mình ra khỏi đây lẹ lên,” nó nói khàn khàn.
“Đi mau,” Tancred nói, chạy tới Charlie và rồi vượt qua nó.
Khi chúng đi hết đường Piminy, Charlie quyết định ghé tiệm sách cô Ingledew. Nơi này gần hơn đường Filbert và, nếu may mắn, sẽ gặp Ông cậu Paton ở đó.
Tancred lẩn vô bóng tối, gọi to. “Gặp em ngày mai, Charlie.”
Charlie cười một mình. Nó vui vẻ phóng quẹo vô ngõ Nhà Thờ Lớn. Có đèn còn sáng bên trong tiệm. Charlie gõ cửa và hai giây sau, Emma mở cửa.
“Bồ đã ở đâu vậy?” con nhỏ hỏi. “Ông cậu của bồ ở đây.”
Charlie lao vù vô tiệm. Thật dễ chịu khi được bao quanh bởi ánh sáng dịu và những quyển sách màu nhẹ, được đắm mình vào bầu không khí đầm ấm, và được thấy Ông cậu Paton trầm ngâm ngó ra phía trên cặp kính nửa vầng trăng.
“Con có rất nhiều chuyện để kể cho ông nghe,” Charlie nói.
Tấm vải liệm teo rút
Billy hối hận về quyết định nghỉ cuối tuần trong trường của mình ngay sau khi những đứa trẻ khác ra về hết. Nhìn lão Weedon đóng rồi cài then cánh cửa nặng nề,nó liền bị nỗi cô đơn xâm lấn. Giờ nó thậm chí còn không có Rembrandt bầu bạn nữa.Có lẽ bà bếp trưởng đã tìm cách cho con chuột vô trường. Nghĩ vậy khiến Billy tươi lên tí chút và nó tức tốc đi tìm bà bếp trưởng.
Billy ngó vô mọi căng-tin và nhà bếp,kể cả nhà bếp xanh lá cây của mụ Weedon-mụ ta đang úp xoong nồi loảng xoảng xuống chỗ phơi bát đĩa cho ráo nước.
“Bà có thấy bà bếp trưởng đâu không?”Billy rụt rè hỏi.
“Không!”người đàn bà bị thịt quát.
Vào những ngày khác,lời đáp như thế có thể đuổi Billy lút cút chạy đi một nước.Mụ Weedon luôn khiến nó sợ hãi,nhưng hôm nay nó vẫn đứng chôn chân tại chỗ. “Bà có biết bà ấy ở đâu không?”
“Không biết. Hôm nay tao trực”.
Billy ho một tiếng thắc thỏm. “Ừm. Cháu sẽ đến đây ăn tối nhé?”
“Một trái trứng”,mụ ta hậm hực. “Ở đây.6 giờ đúng duýt. Tao không phải hầu mày. Không ai bảo tao cả”.
“Cháu xin lỗi”, Billy lùi ra.
Còn hơn một tiếng nữa mới tới bữa tối. Và sau đó là gì? Lên giường,nó nghĩ. Billy đi lên phòng ngủ chung và bắt đầu đọc lần thứ năm quyển Những đứa trẻ của khu rừng mới. Nó đang đọc tới đoạn ngôi nhà của bọn trẻ bị cháy rụi,thì chợt nghe có tiếng cào cửa.
“May Phúc!” Billy vùng ngay dậy và chạy ra mở cửa. Nó mừng húm khi thấy con chó già đến nỗi quỳ thụp xuống mà ôm chầm lấy con chó.
“Bà bếp trưởng đâu?” Billy hỏi,bằng tiếng ụt ịt trầm trầm.
“Sợ!”May Phúc sủa.
“Tao biết. Bà ấy sợ thằng người cá. Nhưng bà ấy đâu?”
Đầu May Phúc gục rũ.
“Bà ấy ở trong phòng của bà ở cánh Đông hả?”
Con chó già thở khò khè-hay là nó thở dài?Billy không chắc. “Đi,tụi mình đi tìm nào”.
Billy không bao giờ biết cửa nào,trong bao nhiêu cửa ở tầng bốn,là phòng của bà bếp trưởng,nhưng nó biết chắc May Phúc sẽ dẫn mình đến đúng cửa. Sau khi leo lên hai dãy cầu thang và đi lò mò qua mấy cái hành lang tối,dội âm,cuối cùng chúng tới một cánh cửa không sơn phết,có một đôi giày đi bộ nhỏ đặt bên ngoài.
Billy gõ cửa. Không lời đáp. Nó mở cửa kêu một cái két và ngó vô. Một chiếc tạp dề sạch sẽ nằm trên một cái giường ngăn nắp. Trong phòng có ghế,tủ ngăn kéo,và tủ đựng chén đĩa. Một tấm thảm mòn xơ xác bên cạnh giường là thứ duy nhất làm êm bàn chân trần dưới sàn lót ván nứt nẻ. Một đôi dép lê đặt ở cuối giường. Trông còn mới.
Billy nhìn May Phúc. “Tao không tin bà bếp trưởng sống trong căn phòng này”,nó nói bằng một tràng sủa nhẹ mà nó biết May Phúc hiểu.
Phản ứng duy nhất của May Phúc là nghiêng đầu.
“Gì đó? Trông mày lo lắng vậy,May Phúc. Có gì mày chưa nói với tao. Hay là tụi mình không còn là bạn nữa?”
“Bạn!Bạn!Đúng”,May Phúc sủa. “Trốn tìm”.
“Được. Tụi mình sẽ chơi sau”.
Trốn tìm là trò chơi May Phúc ưa thích nhất,bởi vì nó chơi trò này cực giỏi. Mũi nó luôn dẫn thẳng tới chỗ Billy núp. Mặc dù,thỉnh thoảng, để thêm phấn khích,nó giả bộ khứu giác của nó tạm thời không theo ý nó.
Billy và May Phúc chơi trong những hành lang vắng lặng và những phòng ngủ chung cho tới gần 6 giờ,khi Billy vội vã xuống căng-tin xanh lá cây.
Quả trứng đang đợi nó-một quả trứng luộc lại,chỏng chơ trên đĩa,bên cạnh một lát bánh mì mỏng dính. Một mẩu giấy trên bàn nhắc: “Ăn xong rửa đĩa”.
Billy bóc quả trứng lạnh ngắt mà nghĩ đến những quả trứng lòng đào nóng hổi ngoại Maisie dọn cho nó khi nó ở nhà Charlie. May Phúc rầu rĩ chầu chực nhìn Billy ăn quả trứng nguội và miếng bánh mỏng.
“Ngon?”con chó già nua hỏi.
“Kinh tởm”,Billy nói. Nó đi vô bếp,rửa đĩa xong rồi đặt lên chỗ úp bát.
“Gì tiếp?” Billy hỏi May Phúc.
“Trốn tìm”,May Phúc đáp
Thế vẫn hơn ngồi chóc ngóc một mình trong phòng ngủ chung.
May Phúc xí đi trốn trước. Chúng bắt đầu ở tiền sảnh. Billy nhắm mắt lại, đếm đến một trăm. Nó có thể nghe tiếng móng chân May Phúc lạch cạch đi lên cầu thang chính. Tới chiếu nghỉ Billy chắc chắn tiếng móng ấy quẹo trái,sau đó chúng hoà tan vào bầu tĩnh mịch bao trùm khắp toà nhà.
“Một trăm”,Billy nói trong lồng ngực,và nó bắt đầu đi lên cầu thang.
May Phúc không thể nào mở được cửa và nó cũng hiếm khi mất công đóng cửa lại, thế cho nên Billy bỏ qua những cánh cửa đóng im ỉm ở lầu hai và lầu ba. Chỉ có các buồng tắm là May Phúc có thể vô được, nhưng không buồng tắm nào có nó cả.
Trong khi ì ạch leo lên một trong rất nhiều cầu thang, Billy chợt nhận ra mình đang hướng lên gác mái, và lập tức tim nó thót lại. Lão Ezekiel đã từng hay cho nó sô-cô-la trong một căn phòng thắp đèn khí ở trên gác mái. Lão dùng sô-cô-la để phỉnh phờ Billy và hứa chẳng lâu nữa cha mẹ tử tế,tốt bụng sẽ đến nhận nó làm con nuôi. Có điều họ không bao giờ đến. Và sô-cô-la và những lời hứa cũng hết khi Billy kết bạn với Charlie Bone.
Billy lên tới đỉnh cầu thang và hít ngửi không khí. Mùi ô thiu và ẩm mốc. Những bóng đèn khí đặt trong lồng sắt toả ánh sáng lù mù,run rẩy xuống hành lang hẹp.
“Mình sẽ không tới đó đâu”,Billy tự nhủ. Nhưng rồi nó thấy một cái bóng vụt qua một cánh cửa khép hờ. Tao sẽ cho mày thêm một cơ hội nữa, May Phúc, nó nghĩ,và nó kiễng gót,rón rén hết sức,vô căn phòng tối thui đằng sau cánh cửa.
Thật ngạc nhiên, Billy nhận thấy sàn nhà của căn phòng được thắp sáng bằng những hàng ánh sáng mỏng mảnh. Thì ra là những khe nứt dưới ván sàn cũ đã để cho ánh sáng từ căn phòng phía dưới rọi lên. Tò mò muốn biết cái gì dưới ấy, Billy cẩn thận nằm sấp xuống sàn và hé một mắt vô một lỗ hổng lớn. Cảnh tượng trông thấy khiến nó thở hốc lên kinh hãi.
Thẳng ngay bên dưới nó,Manfred Bloor đang nằm trên ghế xô pha bọc nhung đỏ. Đầu hắn gối lên một cái gối lụa và mắt hắn phủ kín trong bầy bọ màu cam. Cố nén tiếng thở hốc nữa,Billy chong mắt ngó những sinh vật nhỏ li ti đang bò lúc nhúc. Bên dưới chuyển động oằn oại của chúng, bộ mặt tái mét cảu Manfred đang biến đổi. Nếu Billy có thể tin vào mắt mình, thì những vết sẹo của Manfred đang mờ đi.
“Bọ phép thuật”, Billy thì thầm một mình.
Lờ đờ, run lẩy bẩy,Billy ngóc đầu lên, nhưng trước khi nó kịp đứng dậy, có tiếng quát tháo ở cửa. “Chúng ta có gì ở đây thế này?”
“Một thằng do thám”, vẫn cái giọng lạnh buốt đó.
Bất thình lình một tấm vải liệm màu xám ma quái bay về phía Billy, đốt xém nó trong những nếp gấp xì khói, bóp nghẹt nó cho tới khi nó cảm thấy mình không bao giờ thở lại được nữa, dìm nó vô bóng tối không gì xuyên thủng, làm nó điếc bởi hàng ngàn bầu thinh lặng, ghim chặt nó xuống sàn trong một mạng lưới thép.
Một lát sau, khi Billy không chắc mình có, nó còn sống không, nó ngửi thấy, qua cái lồng xịt khói, một mùi chó không thể sai được.
“May Phúc”, Billy khọt khẹt, “Mày đó hả?”
Đáp lại chỉ là tiếng tru tuyệt vọng, chẳng có nghĩa gì đối với Billy. Tiếp theo là một tràng gừ, sủa và rống. Billy không hiểu lấy một từ nào.
“Cứu tao với,May Phúc”,nó nói khản đặc. “Kéo cái khủng khiếp này ra khỏi người tao”.
Nó chờ, không còn tiếng sủa, không tiếng tru, không tiếng ư ử luôn, và Billy biết con chó già khụ đã bỏ rơi mình.
Nó không thể hiểu mình, Billy nghĩ, và mình không thể hiểu nó. Bọn chúng đánh cắp tài phép của mình rồi, thứ duy nhất mình có, thứ duy nhất khiến cuộc đời mình đáng sống.
Trong căn phòng bí mật của mình bên dưới khu nhà bếp, bà bếp trưởng bừng tỉnh sau một giấc ngủ chập chờn. bà láng máng nghe thấy tiếng chó rên rỉ đằng xa. Bà liền ra khỏi giường, xỏ dép lê vô và mở cửa phòng ngủ ra. Tiếng rên rỉ vẫn tiếp diễn, gằn và khẩn cấp.
Bà bếp trưởng nhấn công tắc và ánh đèn dìu dịu soi rõ một phòng khách ấm cúng. Những chiếc ghế bành thoải mái có gối căng phồng quây quanh lò sưởi nhỏ. Các bức tường treo đầy những hình ảnh sinh động, và đồ gốm sứ viền vàng lấp la lấp lánh như an ủi từ trên các kệ của chiếc tủ li cố xưa bằng gỗ sồi.
Bà bếp trưởng băng qua phòng khách và mở cánh cửa nhỏ trong góc phòng. Một buồng tối hiện ra. Bà mở một cánh cửa nữa ở cuối buồng, thì thấy may Phúc ngồi dưới chân cầu thang. Quả là căn phòng của bà bếp trưởng cực kì bí mật.
“Ừm,gì đó?” bà bếp trưởng ngáp. “Chắc là mi đánh thức ta dậy chẳng vì cái gì hết”.
May Phúc sủa. Bà bếp trưởng không thể nói được ngôn ngữ của nó, nhưng bà nhận ra vẻ cấp bách trong tiếng sủa.
“Thế thì vô mau đi, đồ chó được ban phúc”.
May Phúc không muốn vô. Nó quay lưng lại và bắt đầu núng nính đi lên cầu thang.
“Ta không đi theo mi vào giờ này đêm hôm đâu”, bà bếp trưởng thì thào, hơi bực mình.
Con chó già ngoái lại nhìn bà và tru lên một tiếng nỉ non, bà bếp trưởng linh cảm có gì không ổn rồi.
“Thế thì chờ một phút”, bà trở lại phòng lấy áo choàng. Mặc áo xong, bà đút cây đèn pin vô túi và đi theo May Phúc qua hai cánh cửa, cẩn thận đóng lại từng cánh sau lưng. Khi leo lên cầu thang bà tự trách mình sao ngớ ngẩn quá. Chắc chắn có gì mờ ám đang diễn ra trong học viện Bloor. Bà đã thấy thằng người cá và Dorcas Loom băng qua chiếu nghỉ, vào lúc tất cả bọn trẻ đã về nhà từ lâu.
Có hai lối đi vô căn phòng bí mật của bà bếp trưởng. Một bắt đầu ở buồng để chổi trong nhà bếp, nhưng May Phúc tìm một lộ trình dễ lọt qua hơn. Lên tới đầu cầu thang, bà bếp trưởng đi theo nó qua một hành lang, dẫn vòng vèo, tới tận một cánh cửa cực nhỏ. Bên cánh cửa có một ô ván ốp tường bị bong bằng đúng kích thước một con chó để cho May Phúc chui ra chui vào. Bà bếp trưởng nhướn một bên mày. Bà đã lên kí kể từ giáng sinh và nhất định sẽ không để bị kẹt trong bất cứ ô cửa dành cho chó nào. Bà mở cánh cửa nhỏ ra và đẩy khẽ một cái tủ chẹn ngay trước nó. Ép mình lách qua giữa cái tủ và cánh cửa, bà bếp trưởng vô một hành lang trải thảm. May Phúc đang chờ bà sẵn.
“Giờ sao?” bà bếp trưởng hỏi con chó già.
May Phúc phóng vọt đi, ở tuổi tác và kích thước của nó thì không thể phi nhanh như thế được. Bà bếp trưởng vội vã theo sau. Khi May Phúc tới khu vực gác mái rợn người, bà bếp trưởng đi chậm lại. Bà bắt đầu cảm thấy lo sợ. Bất cứ phút nào, bà nghĩ, Lord Grimwald cũng sẽ xồ ra vồ lấy mình với những sải chân kinh hoàng trong đôi ủng không thấm nước của hắn. “May Phúc”,bà rón rén gọi, “Không đi nữa”.
Nhưng con chó già lại tăng tốc, vậy là bà bếp trưởng chắc chắn có một đứa trẻ đang gặp nguy, bà liền nhớ lại lời tự hứa của mình-giữ cân bằng giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lũ trẻ nghiêng về quỷ sứ và những đứa trẻ luôn ao ước điều tốt đẹp cho nhau. Tài phép của bà bếp trưởng là gìn giữ sự yên bình.
Cuối cùng họ tới hành lang thắp đèn khí. Gừ khẽ một tiếng, May Phúc đi vô căn phòng tối mò. Bà bếp trưởng đi vài bước vô phòng thì va trúng một cái đống nằm dưới sàn. Chiếu cây đèn pin của mình xuống sàn, bà bếp trưởng thấy cái đầu trắng của Billy Raven bên dưới một chiếc khăn quàng trông như tấm lưới xám.
Một giọng nói từ hành lang nổi lên. “Tôi sẽ không làm thế nếu tôi là bà”.
Bà bếp trưởng bật phắt dậy và quay ra. Ánh sáng từ câu đèn pin của bà chiếu rõ hai khuôn mặt quen thuộc:Dagbert Endless và Dorcas Loom.
“Tụi bay làm gì ở đây?” bà bếp trưởng nạt. “Tụi bay đã làm gì thằng nhỏ tội nghiệp này?”
“Cho đáng đời nó” Dorcas nói.
“Đáng đời? Đáng đời cái gì? Con bé độc ác”, bà bếp trưởng thét lên. Bà cảm nhận con mắt của Dagbert đang xoáy vô mình và thấy chân mình mủn ra như thạch. Bà hi vọng đèn khí leo lét, không đủ cho thằng đó thấy rõ gương mặt mình, nhưng rủi thay, chính điều đó khiến cho bà thêm trẻ hơn, và nó bắt đầu nhận ra những đặc điểm của bà.
“Tôi biết bà thì phải?” Dagbert rề rà.
“Tất nhiên, ta là bà bếp trưởng”, bà quát.
“Không, ý tôi là cách đây lâu lắm kia. Tôi đã nhìn thấy hình của bà ở đâu đó”. Nó cười. “Cha tôi có nó”.
“Đừng nói nhảm”, bà bếp trưởng la nó, rồi thêm, “Cha của mi đang làm gì?”
“Ông ấy đã trở về phương Bắc. Ông ấy không thích nơi này lắm”.
Bà bếp trưởng không tin nó. “Đi nhủ đi”, bà bảo nó, “trong khi ta chăm sóc thằng bé tội nghiệp này”.
“Cấm bà làm thế”, Dorcas nói một cách cay nghiệt.
“Đúng,bà bếp trưởng. Để mặc nó đó”. Dagbert xấn xổ tiến một bước về phía bà.
“Đi ngủ ngay lập tức”, bà ra lệnh.
“Đi ngủ”, bọn chúng giễu cợt. “KHÔNG. KHÔNG ĐI”.
Bất chợt, bà bếp trưởng thấy một bóng người lù lù đằng sau đám trẻ. Suýt nữa thì bà đánh rơi cây đèn pin vì sợ hãi. Chắc mẩm Lord Grimwald đang phăm phăm đi tới. Nhưng không phải.
“BỌN BAY HÃY LÀM NHƯ ĐƯỢC BẢO!” giọng người đó gầm vang.
Đồng thời hai đứa trẻ bị túm cổ áo và giật mạnh ra sau.
Bà bếp trưởng nhấc cây đèn pin lên một chút. Bà mỉm cười vừa ngạc nhiên vừa nhẹ nhõm cả người. “Giáo sư Saltweather!”
“Chào bà bếp trưởng!” giáo sư Saltweather giữ hai đứa trẻ quẫy đạp chỉ bằng một nắm tay vững chắc. “Đám trẻ này quấy rầy bà phải không?”
“Đúng thế. Bọn chúng đã làm cái gì khủng khiếp lắm với Billy Raven đáng thương này”.
“Thằng đó ớn xương”, Dagbert rống gào. “Ông không biết ông dây vào cái gì đâu, đồ ngốc già”. Nó co giờ đạp một phát thẳng cánh vô ống quyển giáo sư Saltweather.
“Thôi ngay!” ông thầy dạy nhạc gầm.
“Tôi sẽ làm điều tôi thích”, Dagbert the thé. “Chúng tôi được phép rồi”.
“Không phải với ta”, giáo sư Saltweather nói. “Nào,hãy trở lại cái giường khốn khổ của chúng mày đi”.
Thả Dagbert và Dorcas ra, ông đẩy cả hai đứa một phát về phía cầu thang.
Dagbert đứng lì lợm tại chỗ. Nó trừng đôi mắt thủy quái ra nhìn giáo sư Saltweather. Một làn mây luộn cuộn bao quanh vị giáo sư và bắt đầu tràn lấp hành lang. Thậm chí cả Dorcas cũng lảo đảo lùi lại,ho dữ dội.
Bà bếp trưởng thấy mình không thể thở nổi. Mây khói xộc xuống lấp đầy phổi bà và, nếu bà có thể tin vô mắt mình, có cá bơi xuyên qua tường và tảo biển lều phều trong dòng nước xanh lục khắp xung quanh bà. Lẽ nào nước dâng lên tận gác mái? bà tự hỏi.
“THÔI NGAY!” tiếng quát như sấm rền.
Giáo sư Saltweather xem ra không hề suy suyển trước làn mây ngạt thở và những hình ảnh nước.
Dagbert phọt ra cười ghê rợn. “Ông sẽ chết đuối”.
“Ta không thể chết đuối!”
Bà bếp trưởng không chắc những gì mình đã nghe. Những lời trầm sâu đó quay quay trong đầu bà. Không thể chết đuối. Không thể chết đuối. Không thể chết đuối. Bà nhận thấy những con cá đang mờ đi, tảo biển héo quắt lại và làn mây tan loãng.
Dagbert đứng ở hành lang, trông hoang mang. Một con Dorcas khiếp đảm quặp chặt tay nó.
“Đi ngủ”, giáo sư Saltweather ra lệnh, lần này với giọng điềm tĩnh, rành rõ.
Hai đứa trẻ cung cúc quay đầu và chạy biến xuống cầu thang.
“Làm sao thầy làm thế được”, bà bếp trưởng ngờ vực hỏi.
“Không phải tự dưng mà tên tôi là Saltweather”, vị giáo sư cười đáp.
“Ờm”, bà bếp trưởng hít thật sâu và nhìn đăm đăm vô gương mặt phong trần và mái tóc trắng lọp phọp như bọt sóng của giáo sư. “Ông là một...một người trong chúng tôi?”
Giáo sư Saltweather mím miệng lại và đặt một ngón tay lên môi. “Tôi thích không ai biết hơn. Chính xác, tôi không phải là người được ban phép thuật, nhưng tôi có quyền năng ở những lĩnh vực nhất định”. Ông xoa hai tay vào nhau. “Nào,chúng ta hãy giải phóng chú bé này khỏi tình thế khó chịu của nó nào”.
Tấm vải liệm xám không dễ dàng bị gỡ đi. Nó cứ bám lấy những ngón tay của bà bếp trưởng và quấn quanh ống tay áo của giáo sư Saltweather. Nhiều lần họ bóc lớp sợi khỏi đầu Bily, để rồi lại thấy một lớp khác bò lên, lấp vùi thằng bé xuống nữa. Nhưng mãi giáo sư cũng gom được những lọn chỉ sau cùng và nắm chặt cái thứ xám ngoét kinh hoàng trong tay mình.
“Cái này, tôi tin là thứ mà người ta gọi là tấm vải liệm teo rút”, ông nói chắc như đinh đóng cột. “Nó teo rút ý nghĩ hơn là teo rút vật rắn”.
“Nó được dệt mà thành”, bà bếp trưởng quan sát. “Bằng kim loại rất lớn”.
“Một tài phép mà Dorcas thừa hưởng từ một trong những tổ tiên hiểm ác của nó, không nghi ngờ”. Giáo sư Saltweather vo tròn tấm vải lại như quả banh và đút vô túi quần. “Tôi sẽ tính sổ nó sau”.
Bà bếp trưởng quỳ xuống bên cạnh Billy. “Nó tỉnh rồi,con chuột con này”.
“Chuyện gì thế?” Billy rên rỉ. “Con đang tìm May Phúc thì...rồi thì...”
“Tốt nhất không nghĩ về nó nữa, Billy”, bà bếp trưởng dịu dàng.
Không một lời, giáo sư Saltweather cúi xuống và bồng Billy lên. “Chúng ta có thể mang nó đi đâu, bà bếp trưởng? Không nên để thằng bé một mình đêm nay”.
“Theo tôi”, bà bếp trưởng nói, “nhưng ông không bao giờ được nói với ai về nơi tôi sẽ dẫn ông tới”.