Charlie Bone 8: Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ

Chương 18: Con ruồi của rembrandt



Cuộc hành trình bằng tấm gương của bà Amoret không hề giống chút nào với chu du qua tranh. Cho tới lúc chạm đích, đầu óc Charlie bị nhồi nhét một đống hình ảnh mà nó sẽ không bao giờ quên được : những cồn cát vàng óng ả, êm tựa như nhung, một con lạc đà lao qua những hàng cây, có một thẳng bé tí xíu đang cưỡi trên lưng, những thành phô lô nhô mái vòm và một mặt biển màu ngọc bích.

Sau đó Charlie đứng trong một lâu đài bằng đá trắng, nơi đang diễn ra một trận đọ kiếm tay đôi giữa một thanh niên châu Phi áo đỏ sẫm và một người trẻ tuổi tóc vàng áo xanh lục bảo. Tiếng thanh gươm chát chúa dộng vô tai Charlie trong khi nó vù chíu qua cảnh này để rồi trôi bồng bềnh trên mặt biển xám bao la, phía trên nó, một cánh buồm màu cam bay phần phật trong gió. Tiếp đến là những vách đá trắng, một khu rừng bất tận và một lâu đài đỏ như máu trôi vụt qua.

Giờ thì Charlie đang rơi, lộn tùng phèo, loáy xoáy giữa một trận đá lở, bay vèo qua một đồng bằng cằn cỗi, nơi có những ngọn tháp đen sì chĩa lên bầu trời vần vũ. " Xứ Badlock " Charlie thét bể cuống phổi khi bị gió quăng quật trên không. Nó quay tít tới một ngọn núi chắn đột ngột trước mặt như một tấm màn đá. Nhưng trước khi đâm sầm vô đó Charlie đã được nâng bổng lên khỏi một cung điện bằng đá hoa cương đen, nơi có những đống lửa cháy tràn ra từ những giá sắt đóng vô tường. Và rồi nó tiếp tục rơi, rơi, rơi,...

Ai đó la thét lên. Charlie lắc đầu, dụi mắt. Thấy mình đang ngồi bệt trên một tấm thảm cực êm, trang trí hoa văn sặc sỡ.

" Charlie Bone! " Tiếng ai hoảng hốt.

Charlie quay đầu lại. Và kìa, Matilda đang ngồi ở phía đầu của một chiếc giường bốn cọc mùng. Cô bé vẫn mặc váy màu hoa mao lương vàng như lần trước.

“Chào bạn!” Charlie thấy mình mừng rỡ cười toe toét, dù cho đầu nó vẫn đau nhức và cảm thấy bầm dập khắp người.

Matilda tuột vội khỏi giường và nhẹ nhàng đỡ Charlie đứng dậy. “Tớ mừng là bạn tới đây,” cô bé nói. “Nhưng tớ tưởng bạn phải đi qua bức tranh của ông cố tớ chứ.”

Charlie giơ tấm gương lên. “Tớ đã dùng cái này.”

“Ố,” Matilda sững sờ. “Nhưng tớ đã thấy nó ở đây, ở trong phòng bùa chú của ông cố tớ mà. Lúc đó cách đây lâu lắm rồi, khi tớ còn nhỏ xíu xíu.”

Charlie nhíu mày nhìn tấm gương. “Làm sao nó có thể ở hai nơi cùng lúc?”

“Không, không.” Matilda lắc đầu. “Thầy bùa đã mang nó tới thế giới của bạn rồi. Ông ấy bảo với tớ rằng ông ấy đã chôn nó ở đó, để cho tương lai sử dụng. Ông hy vọng như vậy. Bạn dã tìm được nso rồi à?”

“Chuyện dài lắm,” Charlie lật qua lật lại tấm gương trong tay. “Tớ muốn biết lịch sử của nó.”

“Có lẽ một ngày nào đó bạn sẽ biết.” Matilda cầm lấy tay Charlie và kéo nó xuống ngồi cạnh mình trên giường. “Tớ không sao diễn tả được mình hạnh phúc như thế nào khi mình nhìn thấy bạn,” cô bé nhìn sâu vô mắt nó. “Bạn đã không nghe thấy tiếng tớ gọi, khi tớ chạm vô một cửa sổ nhà bạn ở trong bức tranh.”

Charlie lắc đầu lấy làm tiếc. “Có một người phụ nữ tên là cô Alice ở nhà của tớ. Cô ấy là một thiên thần hộ mệnh. Cô đã nghe thấy tiếng gọi của bạn. Cô ấy có tài linh cảm sự việc và gây ảnh hưởng lên mọi người. Bà nội tớ là người hay quát tháo, sưng sỉa, nhưng từ khi cô Alice đến bà ấy cứ lừ đừ và buồn ngủ.”

“Thầy bùa cũng có thể làm được thế,” Matilda nói, “Nhưng ông ta thường không thèm làm. Bà cố của tớ khó tính lắm, cả anh trai tớ cũng vậy. Nhưng thầy bùa thường thích thú theo dõi họ quát mắng người khác.”

Chúng mỉm cười với nhau và Charlie ước gì khoảng khắc này kéo dài mãi mãi. Nó tưởng tượng nó sống ở đây, trong căn phòng không thể tin được này, với những bức tường đá hoa cương xanh lá cây, trải thảm sặc sỡ, êm ái và bày biện toàn đồ đạc đen bóng.

“Bạn tới vì Billy phải không?” Matilda nói. “Tớ biết thế nào bạn cũng tới mà.”

“Đúng là vì Billy.” Charlie tần ngần. “Có lẽ vì bạn nữa. Bạn nghĩ coi, Matilda? Bạn có thể về với tớ không?”

Cô bé cười sáng rỡ với nó nhưng rồi lập tức quay mặt đi, như thể che giấu vẻ buồn bã thình lình hiện lên trên mặt. “Thầy bùa có thể đọc được ý nghĩ của tớ,” cuối cùng cô bé nói. “Ông ta biết là lần trước bạn đã tới đây, cố cứu Billy. Và ông ta cũng biết tớ thường nghĩ đến bạn.”

“Thường hay?” Charlie khoái chí.

Matilda liếc nhìn nó một cái kiêu kỳ. “Chứ tớ còn nghĩ đến ai khác nữa, khi sống cô độc trong cung điện rộng mênh mông này? Bên ngoài gió rít ù ù, không gì tổn hại được, ngoài những sinh vật đen thui, bò nhung nhúc.” Cô bé huých cánh tay Charlie. “Cho nên bạn tuyệt đối không được nghĩ quá nhiều về bản thân mình.”

Charlie cười toe. “Bạn đang nói ... về lão thầy bùa,” nó nhắc cô bé.

Nụ cười của cô bé tắt liền và cô bé bảo, “Một ngày kia, thầy bùa bảo tớ rằng ông ta biết tương lai của tớ, và rằng tớ không bao giờ chu du chin trăm năm về sau để sống ở thành phố của Vua Đỏ. Tớ sẽ cưới anh họ tớ, anh này sống ở nơi tên là Venice. Anh ta rất giàu có và đẹp trai, và khi mười sáu tuổi tớ sẽ đi đến đó bằng thuyền và xe ngựa. Bạn thấy đấy, tó không thể đi với bạn cho dù,” cô bé hạ giọng xuống, “tớ rất ao ước.”

“CHỉ vì lão thấy tương lai của bạn trong quả cầu pha lê nào đó không có nghĩa là điều đó không thay đổi được,” Charlie nói xẵng.

Matilda tuột khỏi giường. “Không có quả cầu pha lê nào hết, Charlie. Đó là định mệnh của tớ. Nào, bây giờ chúng ta tới chỗ Billy. Nếu may mắn thì cai ngục đang uống bia trong nhà bếp. Hắn hay la cà ở đó lâu hơn bổn phận, vì biết rằng Billy không thể trốn thoát được.

“Trốn?” Charlie nói “Billy ở đâu?”

“Trong hầm ngục, nơi họ đã nhốt tổ tiên của bạn, người khổng lồ.”

Charlie búng dậy khỏi giường. “Sao nó lại ở đó? Tớ tưởng nó rất hạnh phúc ở đây, được đối xử như một hoàng tử cơ mà.”

“Đó là lỗi tại con chuột của nó, " Matilda bảo với Charlie. “Con vật đó gây náo loạn.”

Charlie phải bật cười. “Rembrandt thiệt tình.” Và rồi bất thình lình, nó sực nhớ ra rằng nó đã chu du một cách cẩu thả. Nó đã bỏ con trăn ở lại, phải có con trăn này nó mới vô hình được. Nó giật tóc, rên rẩm, “Ối, Matilda, sao mà tớ ngu quá sức. Tớ đã quên con trăn. Làm sao mình đi qua cung điện mà không bị nhìn thấy?”

Matilda không tỏ một mảy may lo âu. Cô bé lấy bên trong chiếc váy của mình một chiếc chìa khóa bằng sắt to sụ. “Bản sao,” cô bé bảo Charlie, “do một người bạn làm.” Rồi cất cao giọng cô bé gọi, “Dorgo, anh có ở đấy không?”

Cánh cửa mở ra và một sinh vật lăn vô. Charlie không thể kìm chế nổi một cái hít vô, không hẳn là thở dốc, nhưng cũng đủ khiến Matilda mỉm cười. “Billy hay bảo với tớ là trong thành phố của bạn không có ai giống như Dorgo cả,” cô bé vừa nói vừa vỗ vai anh hầu.

Charlie thở ra. “Ừ, không có.” Thật vậy, nó chưa bao giờ trông thấy sinh vật nào chắc thịt, vuông vắn mà nhỏ đến vậy. Tóc anh ta, nếu có, bị giấu biệt trong cái mũ len to, thân hình trùm kín, hơn là mặc, trong một cái váy thụng dài màu nâu. Nhưng anh ta có nét mặt hiền lành và đôi mắt nâu xám lộ vẻ ân cần.

“Dorgo, đưa quần áo của anh cho Charlie đi,” Matilda bảo.

Không một chút ngạc nhiên hay ngượng ngùng, Dorgo giật tuột cái mũ ôm sát đầu ra, để lộ một mớ tóc nâu cứng quèo, trông hệt như cạnh hàng rào. Charlie nhận lấy cái mũ và đội lên, sau đó Matilda giúp nó nhét hết tóc vô trong. Việc này chẳng mấy khó khan vì cái mũ rộng thùng thình, đủ che kín hai tai và sụp qua khỏi chân mày nó. Trong khi hai đứa lui cui với tóc của Charlie thì Dorgo vén tấm váy thụng nâu ( loại trang phục của đàn ông Châu u thời Trung cổ) qua khỏi đầu và thả phạch nó xuống sàn.

Charlie nhẹ cả người vì thân hình vuông vức của Dorgo vẫn còn được che kín bởi lớp đồ lót màu vàng. Lượm váy thụng lên, Matilda tròng nó qua đầu Charlie. “Cong đầu gối của bạn lại,” cô bé ra lệnh, “Đi thôi.”

Charlie lúp cúp đi theo Matilda ra cửa. Nhưng trước khi lách ra, Charlie quay lại cảm ơn anh bạn nhỏ bé đã cho nó mượn đồ mặc.

Dorgo cười rạng rỡ nói, “Tốt.”

“Gấp lên,”Matilda giục giã. “Chúng ta phải thật vội. Tớ có thể nghe thấy tiếng chuyển động bên dưới rồi. Lính canh đang rời khỏi bếp.”

Charlie lom khom chạy theo sau cô bé. Thật chẳng dễ tí nào khi phải chạy lẹ với đôi đầu gối cong lại.

“Thấp nữa,” Matilda thì thầm, “Bạn vẫn còn cao quá.”

Charlie rên rỉ và khom xuống thấp hơn. Giờ thì nó không làm sao bước đi cho ra bước. Nó liểng xiểng đảo bên này bên kia mỗi khi nhích đầu gối cong gập tới trước.

Matilda đưa tay lên bụm miệng nhưng vẫn không nhịn được cười. “Giờ thì đúng là bạn giống hệt Dorgo rồi,” cô bé thì thào.

Chúng tìm đường tới một cầu thang đá hoa cương dẫn xuống những khu vực bên dưới cung điện, nhưng trước khi chúng tới được đó một người phụ nữ hiện ra ở cầu thang. “Cô nương Matilda,” chị ta nói. “Nữ bá tước muốn gặp cô nương. Thợ giày đã mang da thật đẹp tới. Cô nương phải để bàn chân của cô nương được đo.”

“Ối!” Matilda dừng lại giữa hành lang, tay đặt lên vai Charlie. “Ta phải đi ngay à?”

Người phụ nữ tiến về phía chúng. Chị ta có vẻ mặt đanh sắc, nhờn nhợt, tóc nâu chải ngược ra sau và búi gọn trong một cái đồ chụp tóc màu bạc. Váy chị ra màu rêu đậm và đeo một chuỗi hạt sáng lấp lánh trên cổ. “Đầy tớ này là ai?” Đôi mắt lạnh tanh màu xám của người phụ nữ găm vô Charlie. “Trước giờ tôi chưa thấy nó.”

Matilda bật cười lớn, lộ vẻ hồi hộp. “Dĩ nhiên làm sao chị thấy được, hà Donata. Nhưng không phải bọn họ đều giống nhau y chang sao? Anh này còn trẻ, ta đang huấn luyện anh ta.”

“Bà bá tước sẽ không chịu để bị chờ đợi.” Donata quay gót và lẹt phẹt đi xuống cầu thang.

Matilda và Charlie nhìn nhau, tá hỏa.

“Bạn có nhớ đường đi xuống hầm ngục không?” Matilda hỏi khẽ. “Giờ tớ không dám đi cùng với bạn.”

“Tớ cũng nghĩ vậy,” Charlie đau khổ thừa nhận, “Ờm, Matilda, tớ không thể tin được rằng là mình sẽ không bao giờ còn gặp lại bạn nữa.”

“Phải đấy,” cô bé nói. “Thật buồn bã khi rơi vào cảnh này.”

“Cô nương!” Donata từ dưới chân cầu thang gọi nhóng lên.

“Ta tới ngay!” Matilda đặt một chân xuống cầu thang, rồi quay lại Charlie, “Chìa khóa đây,” cô bé nói thầm và dúi nó vô tay Charlie. “Hãy chờ vài phút sau khi tớ đi. Và nhớ mang theo đồ của DOrgo đi về cùng với bạn luôn. Anh ấy sẽ nguy to nếu bạn bỏ bộ đồ ở lại trong hầm ngục. Tớ sẽ dễ dàng kiếm một bộ khác cho anh ấy.”

Charlie gật đầu, đút chiếc chìa khóa vô túi, bên dưới tấm váy thụng. “Tạm biệt, Matilda”, nó lầm bầm.

“Vĩnh biệt, Charlie.” Cô bé cúi xuống hôn nó, rồi đi khỏi, tiếng đôi giày da tinh xảo của cô bé gõ vô nền cầu thang đá hoa cương một lúc rồi từ từ tắt dần. Từ đâu đó sâu tít trong cung điện, một cánh cửa nặng nề đóng sầm lại. Và rồi tất cả chìm trong im lặng.

Tấm gương hình như đang động đậy bên dưới những ngón tay của Charlie, nóng và trơn. Nó phải lẹ lên. Quyết định không phải cố đi xuống bằng đầu gối gập lại nữa, Charlie thẳng người và chạy ù xuống cầu thang. Đến hết các bậc thang, nó lại chùng người xuống, khó nhọc lê tấm thân tới trước. Nó phải mất một lúc mới bắt chước lại được dáng đi của Dorgo.

Cung điện của bá tước Harken có cực ít cửa sổ. Hành lang mà Charlie đang đi lảo đảo được trải thảm lông thú và thắp sáng bằng đèn bấc. Vừa đi vừa hé mắt dòm những hành lang cắt ngang qua hành lang mình đang đi, cuối cùng nó nhận ra một hành lang quen, bèn thẳng đầu gối lên, phóng vèo vô đó. Ở đây không có đèn bấc, và càng đi thì càng tối hơn. Claerwen bò khỏi cổ áo Charlie, bay đằng trước, ánh sáng dìu dịu chỉ cho nó thấy những bức tường đá và sàn nhà gạch, nhiều chỗ bị vỡ vụn.

Cả hai đi càng lúc càng sâu thêm. KHông khí ngột ngạt, tù túng. Cuối cùng Charlie tới một hàng rào chắn bằng sắt quen thuộc, quây lại hình bán nguyệt. Đằng sau hàng rào là một cầu thang lởm chởm, uốn lượn vô khoảng không gian thậm chí còn đen tối hơn.

Tên cai ngục có đang ở đó, rình bắt nó? Charlie không cách chi biết được. Nó thận trọng đi xuống những bậc thang dốc. Mới đi xuống được nửa đường nó đã nghe thấy tiếng những bước chân đi tới, và rồi có tiếng nói khàn đục vang dội dọc theo hành lang phía trên nó. Kẻ nào đó, không chừng là gã quỷ lùn, đang ư ử rặn ra một giai điệu tẻ nhạt.

Charlie cắm đầu phóng nốt quãng cầu thang còn lại, mặc cho có trượt chân hay vấp ngã mấy lần suýt té trên mặt đá gập gềnh. CUối cùng nó tới một căn phòng trông tựa như một cái hang, có một ngọn nến đang cháy phập phù trên bàn. Qua khỏi cái bàn Charlie thấy những song xà lim. Nó đâm bổ tới đó, và dòm qua những song chắn, thấy một thân hình bé tẹo đang nằm co rúm trên một cái nệm sần sùi.

“Billy!” Charlie gọi khẽ. “Anh nè, Charlie!”

Billy ngồi dậy. Nó trợn mắt dòm Billy, bàng hoàng. “C...cái?”

Charlie lột phắt cái mũ của Dorgo ra. “Coi, anh nè! Anh tới để đưa em về.”

“CHARLIE!” Billy suýt hét vang.

“Suỵt!” Charlie cảnh báo. “Có người đang tới.”

Những bước chân phía trên dồn dập hơn. Giờ đang đổ dồn xuống những bậc thang gồ ghề.

Charlie tra chiếc chìa khóa Matilda đưa vô ổ trên cửa xà lim, nó mở bung ra. Charlie nhảy tùm vô trong.

“Làm... làm sao... tụi mình đi ...?” Billy lắp bắp.

Charlie giơ tấm gương lên. “Bằng cái này, và bằng Claerwen. Giữ chắc tay anh.”

“Khoan!” Billy thét. Nó chạy tới con chuột của nó, đang ngồi chồm hổm bên cạnh một cái lỗ nhỏ trong tường. “Nó đang chờ bạn nó,” Billy nói. “Nhưng, Rembrandt, tụi mình phải đi ngay.” Nó vồ lấy con chuột, con vật chít lên một tiếng chói lói và bắt đầu giãy giụa phản đối kịch liệt.

“Lẹ lên!” Charlie giục, túm chặt bàn tay Billy. “Tụi mình phải đi, NGAY!” Nó nhìn vô tấm gương và nghĩ tới Emma, đang chờ nó ở trên gác xép nhà số 9. Giờ nó đã có thể trông thấy mặt cô bạn, lờ mờ và lo lắng. Charlie ao ước nó ở bên cạnh Emma. “Claerwen, đi thôi,” nó thét to.

Những bàn chân xuất hiện, khua trộn rộn vô trong phòng của tên cai ngục. Và gã quỷ lùn Ngón Cái Dị đâm bổ tới xà lim, bàn tay có ngón cái khổng lồ vươn về phía chúng.

Thình lình Charlie bị nhấc hổng chân và bị giật mạnh lên cao, tấm gương nóng cháy một bên tay nó, và bên kia có những ngón tay của Billy bóp chặt.

Cuộc hành trình thứ hai này không giống cuộc hành trình lần đầu tiên tý nào. Tấm gương này có thể thực hiện được bao nhiêu trò mưu mẹo? Charlie tự hỏi khi chúng ngật ngưỡng khoan xoáy màn đen. Gió hú rít trong tay chúng, mưa đá quất vô mặt chúng. Chân cẳng chúng đạp vô định, cố tìm một khối vững chắc đặng mà đáp xuống. Cứ thế, chúng xoay tít, quay cuồng, quay cuồng và lộn nhào xoáy trôn ốc.

“Áaaaaaah!” Charlie rên xiết. Đầu gối nó đập bụp xuống mặt sàn và nó té nhủi thành một đống, sấp mặt, không làm sao thu được tay nào về để tự chống đỡ thân mình, do bởi một tay vẫn nắm chắc tấm gương và tay kia nắm chặt Billy Raven.

“Xem ra được rồi.” Một giọng cất lên.

Charlie buông tay Billy ra và lăn vật ngửa lên.

Emma từ trên nhìn đăm đăm xuống nó. Cô bé đang mỉm cười. “Bồ cứu được nó rồi, giỏi lắm.”

Charlie quay đầu qua, Billy đang nằm bẹp dí bên cạnh nó. Một bên mắt kính bị nứt và trông mặt nó nhăn nhó với một chòm hoa thị che con mắt bên ấy.

“Vậy là, bồ đã không có thời gian thay đồ,” Emma nhận xét.

Charlie lồm cồm đứng lên. Nó vẫn còn mặc bộ đồ thùng thình và cái mũ len ôm sát đầu của Dorgo. Billy thì trong chiếc áo jacket nhung màu xanh da trời viền vàng rực ở cổ áo và cổ tay áo, với quần dài cũng bằng nhung xanh da trời. Cả bộ xem ra đã sờn tưa vì mặc đã lâu. Đằng trước áo ố lem và quần rách tơi tả. Một bàn chân nó còn xỏ chiếc giày dài sọc, mũi nhọn. Chân kia để không.

Rembrandt đang ngồi trên ngực Billy, kêu chit chit không thôi. Billy ngồi dậy. “Tớ xin lỗi về Gloria,” nó bảo với con chuột bằng một tràng lít rít. “Nhưng lúc đó không đi thì không bao giờ đi được. Vả lại, tụi mình cũng không thể mang được cô ấy trở về cùng đâu.”

“Hừ,” Rembrandt quay lưng lại Billy, và một con ruồi bay ra khỏi lưng nó. Con chuột hờn dỗi lập tức chất vấn: “ Thế làm sao mà chúng ta lại xoay xở mang được một con ruồi trở về?”

Billy không thể trả lời được câu này. “CHào, Em,”nó nói. “ Em rất vui gặp lại chị.”

“Chị cũng vậy.” Emma nói, “Đồ đẹp quá ta.”

“Nó đã từng đẹp.” Billy ngó xuống những vết bẩn trên áo jacket. “Em hi vọng có gì đó để ăn. Em đói, đói rã họng luôn.” Nó đứng dậy và đi ra cửa, nhưng Charlie giữ nó lại.

“Tốt hơn em cứ ở đây, Billy.” Charlie nói, “Coi chừng nội Bone trông thấy em, và nếu gia đình Bloor biết em đã trở lại thì họ sẽ truy bắt em cho mà coi.”

Billy thở dài, ngồi xuống một cái thùng và xoa xoa cái bụng.

“Để chị đi lấy cho em cái gì đó.” Emma chạy biến đi.

Trong lúc Charlie cởi bộ đồ của Dorgo, nó liếc nhìn ra cửa sổ và thấy những mái nhà mà thường ngày nó vẫn thấy bây giờ đã chìm khuất hoàn toàn trong sương mù.

Đến lúc nó đã thay đồ khá chỉnh tề xong, Emma trở lên, bưng một khay bánh nướng và nước cam, và với cả cô Alice Angel. Khi Billy trông thấy cô Alice, con mắt đằng sau tròng mắt kính còn lành của nó trố lên kinh hãi, nó tự đùn cả mình lẫn cái thùng lùi sâu vô góc phòng. Nhưng cô Alice quỳ xuống bên cạnh nó, không quá gần, nhưng cũng đủ gần cho nó cầm tay cô nếu nó thấy cần. “Billy, cháu không nên sợ,” cô nói. “Cuộc hành trình cháu vừa trải qua thật khủng khiếp. Giờ cháu an toàn rồi. Tên cô là Alice Angel và cô sẽ không để bất cứ chuyện gì xảy ra với cháu nữa đâu.”

Billy thả lỏng người lại và nụ cười nở trên khóe môi nó. “Cháu là Billy Raven,” nó nói và cầm lấy tay cô. “Còn kia là Rembrandt.” Nó chỉ con chuột, vẫn còn đang cáu kỉnh ngồi một góc, đâu mặt vô tường. “Nó vừa phải bỏ lại bạn gái ở xứ Badlock và nó đang rất bực mình vì chuyện đó.”

Cô Alice đưa tay lên che miệng, nhưng vẫn không sao kìm được một tràng cười rũ. Emma hòa theo và ngay cà Billy cũng bật cười khúc khích. Nhưng Charlie nghĩ tới Matilda, nó không thấy có gì tức cười cả.

“Cháu mừng là mình đã về lại được,” Billy nói. “Cả Rembrandt cũng sẽ vui mừng cho xem, khi nó tìm được một bạn gái khác. Cháu nghĩ mình thật ngu ngốc mới thích cái xứ Badlock đó. Ban đầu lão thầy bùa tử tế với cháu. Lão làm ra những loại thú cho cháu chơi, mặc dù chúng không có tim, nhưng chúng để cháu vuốt ve chúng, còn con cọp thì kêu rừ rừ. Nhưng sau đó thì cháu bị nhốt vô hầm ngục. Cháu nghĩ tại vì lão bá tước đã chán cháu rồi. Có lẽ ban đầu lão nghĩ cháu có ích gì đó, nhưng sau thì nhận ra tất cả những gì cháu có thể làm là nói chuyện với thú vật.” Billy tháo mắt kính ra và nắn nắn cái gọng kính phía bên mắt bị nứt. “Tài phép đó không hay ho gì.”

“Bá tước Harken nhốt em trong xứ Badlock là vì gia đình Bloor muốn như thế,” Charlie bảo.

“Tại sao?” Billy thắc mắc.

Charlie nghĩ bây giờ không phải là lúc thích hợp để kể cho Billy nghe rằng nó sẽ thừa kế tài sản của gia đình Bloor nếu một bản di chúc trong một cái hộp được tìm thấy. Ông cậu Paton dạo gần đây vẫn còn rất ngại ngùng khi thảo luận về bản di chúc bị giấu biệt đó. Biết đâu bây giờ ông đã đổi ý rồi.

Chuông cửa reng và những tiếng nói được nghe thấy dưới hành lang. Charlie đi ra chiếu nghỉ và gọi, “Ai đấy ạ, ngoại Maisie?”

Ngoại Maisie đi ra chân cầu thang và nói lên, “Cô Ingledew tới tìm Emma.”

“Cô Ingledew à? Tại sao vậy?” Charlie hỏi.

Emma chạy ra chiếu nghỉ, kêu to. “Con xin lỗi dì. Con xin lỗi, lẽ ra con nên về thẳng nhà.”

“Cô ấy không nghe được con nói đâu,” ngoại Maisie hét lên. “Cô ấy nhất định không vô nhà, nhưng cô ấy không muốn con đi về một mình. SƯơng mù đã dày đặc hơn rồi.”

“Emma, cầm lấy cái này, xong rồi đấy.” Cô Alice trao cho Emma một cái bịch nylon màu trắng.

“Tấm áo gi – lê,” Emma nói, ngó vô trong cái túi.

Cô Alice gật đầu. “Chúc con may mắn.”

“Cám ơn, cô Alice!” Emma hôn má cô Alice và chạy xuống lầu. Cô bé xuống tới chiếu nghỉ tầng dưới ngay lúc nội Bone từ trong nhà tắm đi ra.

" Mày đang làm gì ở đây? " nội Bone hỏi, vồ lấy vai Emma.

" Cháu ghé thăm một chút, " Emma nói, luồn người lách ra và phóng vèo xuống cầu thang tiếp theo.

" Vào giờ sớm bảnh mắt này? " Nội Bone nhoài người ra khỏi thanh vịn và ngó chằm chặp xuống hành lang. " Bà Maisie, tại sao cửa trước mở? Có gì thế? "

Trước khi ngoại Maisie đáp lời, cô Alice xuất hiện ở cầu thang trên cùng và gọi xuống nội Bone, " Không việc gì phải lo lắng cả, bà Grizelda. Đi ngủ lại đi, tôi sẽ mang cho bà một tách trà thật ngon. "

" Ờm. " nội Bone trông bộ hoang mang. " Ừ, thế thì được. " Mụ lóc cóc trở lại phòng ngủ của mình và đóng cửa lại. Emma cũng rời khỏi nhà vào đúng giây phút ấy và ngoại Maisie đóng cửa trước. Nửa giây sau Ông cậu Paton mở cửa phòng riêng của ông và ngó lên Charlie hỏi, " Có chuyện....? "

" CÔ Ingledew, Ông cậu Paton, " Charlie đáp.

“Thế cô ấy có vô không?” Ông cậu hỏi một cách thăm dò.

Hơi sượng sùng, Charlie đáp. “Không, ông à.”

“Ra vậy.” Ông cậu Paton thụt đầu vô và Charlie cảm thấy càng lúng túng hơn.

Ở trong gác xép, Billy đã dỗ Rembrandt ra khỏi xó phòng bằng một miếng bánh nướng trái cây, món khoái khẩu của con chuột. Con ruồi đã từ xứ Badlock tới đây trong lòng của Rembrandt đang bay vù vù gần cửa sổ.

“Cô không thích bộ dạng của con ruồi đó tí nào,” Cô Alice vừa nói vừa cố đập nó bằng một cái giẻ lau.

Charlie nhận thấy, trong ánh sáng thích hợp thì con ruồi đó có màu xanh lá cây. Clearwen vỗ cánh đuổi theo nó, nhưng con ruồi đáp ra sau một chồng sách trên kệ, im re luôn.

Cô Alice đi thông báo cho ngoại Maisie biết những gì đã xảy ra và đi lấy cho nội Bone một tách trà. Charlie chạy xuống phòng ngủ của nó để tìm ít đồ cho Billy thay. Ai cũng kết luận là Billy phải ở trên gác xép cho tới khi những sự sắp xếp khác được thực hiện. Tuy nhiên, đó là những sự sắp xếp gì thì chưa ai nghĩ ra. Ngay cả cô Alice cũng rối trí. Và khi Charlie hỏi ông cậu xin lời khuyên thì Ông cậu Paton nhìn Charlie trừng trừng, như thể nó vừa thông báo với ông rằng có một người sao Hỏa đang ngồi ở trong gác xép.

“Ta không biết phải có ý kiến gì,” Ông cậu Paton cuối cùng nói. “Ừ, cứ giữ nó trên gác xép một thời gian đi đã. Dầu gì nó cũng không thể ở đó mãi mãi.”

“Làm sao mà mãi mãi được, phải không Ông cậu Paton?” Charlie nói. “Bởi vì sắp có chuyện gì đó xảy ra. Rất gần thôi. Một biến cố mà sẽ thay đổi mọi thứ mãi mãi.”

“Thật vậy,” ông cậu nó đồng ý, với vẻ không nhiệt tình cho lắm.

Đó là một ngày quái đản, thinh lặng và im lìm. Sương mù đã tiến vô sâu hơn và toàn thành phố đang nín thở. Benjamin cùng ba mẹ nó tới vào giờ uống trà, thế là ngoại trử nội Bone và Billy, tất cả họ quây quần trong nhà bếp để nghe những gì chú Brown kể. Là một thám tử tử có nghĩa rằng chú phải tìm mọi cách để biết sự thật từ những lời đồn đại đầy ắp xung quanh.

Thị trưởng và một số hội đồng viên đã rời thành phố. Một bộ phận cảnh sát không còn thấy ở vị trí của họ nữa, mặc dù cảnh sát viên Singh và cảnh sát viên Wood vẫn được nhìn thấy đi tuần ở trên đường Đồi Cao. Tất cả mọi trường học đều đóng cửa, ngoại trừ học viện Bloor. Bưu điện và tất cả những ngân hàng cũng đóng cửa. Chỉ có một hay hai chiếc xe buýt còn chạy. Không hề có bóng dáng chiếc taxi nào.

“Vậy là chúng ta sẽ phải tự cung tự cấp thôi,” cô Brown vui vẻ nói. “Tôi đã trữ đủ thực phẩm cho nửa tháng, và sương mù không bao giờ kéo dài lâu đến thế.”

Không ai muốn nói rằng loại sương mù này xem ra rất có khả năng sẽ bao phủ vĩnh viễn.

Gia đình Brown ở lại ăn bữa tối, và khi họ ra về, một chiếc giường đã được kê xong cho Billy ở trên gác xép. Với Rembrandt trên gối, chẳng bao lâu Billy ngủ thiếp đi.

Giữa đêm khuya có một tiếng nổ inh tai, rung chuyển ngôi nhà. Tòa nhà lung lay tới tận chân móng. Đồ sành sứ bay ra khỏi tủ và đồ đạc kêu cót két, bị lệch khỏi chỗ.

Lao bổ ra khỏi giường, Charlie thấy ông cậu đang bấu chặt thanh chắn cầu thang ở chiếu nghỉ. Ngoại Maisie và cô Alice xuất hiện ở chiếu nghỉ tầng trên và cũng chạy vội xuống để gặp hai ông cháu. Cửa trước bị mở toang và một luồng gió lạnh lùa thốc vô nhà.

“Động đất hả?” ngoại Maisie kêu lên.

“Hình như sao băng rơi,” Ông cậu Paton nói.

“Chắc là một ánh chớp,” Charlie đoán.

Cô Alice lặng lẽ nói, “Hoặc là tiếng của một con ruồi biến thành cái gì đó lơn hơn.”

Tất cả cùng khiếp hãi nhìn cô, Charlie lào thào, “Con ruồi của Rembrandt!”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.