Chết Trước Hoàng Hôn

Chương 10



HÔM SAU, KHI CHUẨN BỊ ĐI LÀM, TÔI NHẬN RA mình sẽ có một khoảng thời gian hoàn toàn không dính líu đến ma cà rồng. Kể cả với Bill.

Tôi đã sẵn sàng để tự nhắc nhở rằng mình vẫn là con người.

Vấn đề là, tôi không được phép quên mình là một con người đã thay đổi. Cũng chẳng có gì lớn lao. Sau lần đầu tiên uống máu Bill trong cái đêm nhà Chuột cố giết tôi, tôi cảm thấy mình hồi phục, khỏe khoắn và mạnh mẽ hơn. Nhưng sự khác biệt không quá rõ ràng. Có thể là... Vậy đấy, quyến rũ hơn.

Lần thứ hai nếm máu anh, tôi cảm thấy khỏe thật sự, và cũng dũng cảm hơn vì sự tự tin của tôi đã tăng lên. Tôi cảm thấy tin tưởng hơn vào bản năng giới tính của mình cùng uy quyền của nó. Tôi cũng sử dụng khiếm khuyết của mình một cách tự tin và hiệu quả hơn.

Máu của Long Shadow đi vào cơ thể tôi hoàn toàn tình cờ. Sáng hôm sau, khi soi gương, tôi nhận ra răng mình trắng và sắc hơn. Mái tóc nhạt màu và bóng mượt hơn, đôi mắt cũng long lanh hơn. Tôi trông hệt như những cô gái trên áp phích tuyên truyền vệ sinh hiệu quả hay những quảng cáo liên quan đến vấn đề sức khỏe như dùng vitamin hay uống sữa. Vết cắn ác độc trên cánh tay tôi (tôi nhận ra đó cũng là vết cắn cuối cùng Long Shadow để lại trên cõi đời này) chưa khỏi hoàn toàn, nhưng cũng đang bình phục nhanh chóng. Rồi khi tôi định nhặt ví lên thì lại làm rơi xuống sàn, và mấy đồng xu lẻ lăn xuống dưới gầm ghế. Tôi nâng đầu ghế lên chỉ bằng một tay trong khi tay kia thu mấy đồng xu lại.

Ái chà chà.

Tôi duỗi thẳng người và hít thở sâu.

Ít nhất thì ánh mặt trời cũng không làm tổn thương mắt tôi, và tôi cũng chẳng muốn cắn bất kỳ ai mình gặp. Tôi vẫn khoái dùng bánh mì nướng cho bữa sáng thay vì thèm khát món nước cà chua. Tôi không bị biến thành ma cà rồng. Có lẽ tôi đã thành một dạng người tiến hóa nào đó? Cuộc sống này rõ ràng là đơn giản hơn rất nhiều nếu như tôi không hẹn hò.

Khi tôi đến Merlotte, mọi thứ đều đã sẵn sàng trừ việc thái lát đám chanh vàng và chanh lá cam. Chúng tôi phục vụ cả hai loại quả kèm theo đồ uống hỗn hợp hay trà, vậy là tôi lấy thớt và con dao sắc ra. Lafayette đang thắt tạp dề thì tôi đến mở cái tủ lạnh khổng lồ ra để lấy chanh.

“Em nhuộm tóc đấy à Sookie?”

Tôi lắc đầu. Bên dưới tấm tạp dề màu trắng, Lafayette là một bản giao hưởng của những màu sắc; anh ta đang mặc áo hai dây màu hồng, quần tím sẫm kèm xăng đan da màu đỏ, và anh ta còn đánh viền mắt màu đỏ thẫm nữa.

“Chắc chắn chúng nhạt màu hơn,” anh ta nói với vẻ hoài nghi, nhướn hai hàng lông mày tỉa tót.

“Em ra ngoài nắng nhiều mà,” tôi quả quyết. Dawn chưa bao giờ hòa hợp được với Lafayette, hoặc tại anh ta là người da màu hoặc do anh ta là dân đồng tính, tôi cũng không chắc lắm... mà cũng có thể là cả hai. Arlene và Charlsie chấp nhận anh đầu bếp, nhưng cũng không tỏ ra thân thiện.

Nhưng tôi thì luôn thích Lafayette bởi dẫu cuộc sống có lắm khó khăn đến đâu, anh ta lúc nào cũng vẫn hòa nhã và tràn đầy nhiệt huyết.

Tôi liếc xuống chiếc thớt. Tất cả đám chanh vàng đã được cắt làm tư.

Toàn bộ chanh lá cam đã được thái lát. Tay tôi đang cầm con dao, và bàn tay ướt đẫm nước chanh. Tôi đã hoàn thành công việc mà không hề ý thức được mình đang làm gì. Trong khoảng ba mươi giây. Tôi nhắm mắt lại. Chúa ơi.

Khi tôi mở mắt ra, Lafayette đang nhìn chằm chằm hết khuôn mặt đến bàn tay tôi.

“Đừng nói những gì anh vừa nhìn thấy đều là thật đấy nhé,” anh gợi ý. “Không phải thật đâu,” tôi đáp. Giọng tôi vẫn điềm tĩnh và thản nhiên, nhưng tôi đang kinh ngạc hết sức. “Để em cất đống này đã.” Tôi đem đám chanh vừa thái cất vào từng ngăn riêng trong tủ lạnh đằng sau quầy, nơi Sam vẫn dùng để trữ bia. Khi tôi đóng cửa tủ lại, Sam đã đứng đó, tay khoanh trước ngực. Trông anh chẳng vui vẻ gì.

“Em ổn đấy chứ?” anh hỏi. Đôi mắt xanh sáng săm soi tôi từ trên xuống dưới. “Em vừa đi làm tóc đấy à?” anh hỏi với vẻ không chắc chắn lắm.

Tôi cười phá lên. Tôi nhận ra hàng rào tâm trí đã được dựng lên một cách dễ dàng chứ không còn là quá trình đau đớn nữa. “Em ra nắng quá nhiều thôi,” tôi đáp.

“Tay em làm sao vậy.”

Tôi nhìn xuống cẳng tay bên phải của mình. Tôi đã dùng băng để che vết cắn.

“Em bị chó cắn.”

“Nó đã được tiêm phòng chưa?”

“Tất nhiên rồi.”

Tôi ngước lên nhìn Sam đang ở ngay bên cạnh, và nhận thấy dường như mái tóc vàng sẫm thô xoăn của anh đang tràn trề năng lượng.

Dường như tôi có thể nghe tiếng tim anh đập. Tôi có thể cảm nhận được sự lưỡng lự của anh, khao khát của anh. Cơ thể tôi phản ứng lại ngay lập tức. Tôi chú tâm vào đôi môi mỏng của anh, và mùi nước thơm nồng nồng xức sau khi cạo râu tràn ngập buồng phổi tôi. Anh tiến lại gần hơn chút nữa. Tôi có thể cảm nhận được từng nhịp thở của anh. Tôi biết rằng cái ấy của anh đang cương cứng. Đúng lúc đó Charlsie Tooten bước vào và sập cửa lại. Cả hai chúng tôi đều bước lùi lại. Chúa phù hộ Charlsie, tôi nhủ thầm. Mũm mĩm, lơ đãng, hiền hậu và chăm chỉ, Charlsie là hình mẫu nhân viên đáng mơ ước. Chị kết hôn với Ralph, anh chàng người yêu từ thời trung học hiện làm việc ở một trại gà và hai vợ chồng có một cô con gái đang học lớp mười một và một cô khác đã xây dựng gia đình. Charlsie yêu công việc ở quán, vì chị có thể gặp gỡ mọi người, và chị luôn có vài mánh nho nhỏ để những tay say rượu bình yên ra về mà không gây nên vụ xô xát nào. “Chào hai người!” chị chào vui vẻ. Mái tóc nâu sẫm (thuốc nhuộm L’Oreal, theo lời Lafayette) được buộc cao từ trên đỉnh đầu, những lọn tóc xoăn chảy dài xuống lưng như một dòng thác. Chị mặc áo phông trơn và túi quần soóc phồng lên vì đầy nhóc những đồ là đồ. Charlsie đi tất dài mỏng màu đen kèm theo giày Keds, và bộ móng giả được sơn màu đỏ tía.

“Con bé nhà chị có mang rồi. Chuẩn bị gọi chị là bà được rồi đấy!” chị nói, và tôi có thể chắc chắn Charlsie đang vui mừng khôn xiết. Tôi ôm lấy chị, còn Sam vỗ vỗ vai. Cả hai chúng tôi đều mừng vì chị đã đến.

“Đứa trẻ sẽ ra đời khi nào?” tôi hỏi, vậy là Charlsie được dịp thao thao bất tuyệt. Tôi không phải nói thêm gì trong suốt năm phút sau đó. Rồi Arlene bước vào, những nốt mụn trên cổ được che đậy một cách vụng về bằng lớp phấn trang điểm, và chị lại phải nghe bản trường ca của Charlsie một lần nữa. Ánh mắt tôi chạm mắt Sam một lần, nhưng ngay lập tức, cả hai đều quay nhìn chỗ khác.

Rồi sau đó, chúng tôi bắt đầu phục vụ khách khứa đến ăn trưa, và sự việc lúc nãy xem như là chuyện đã qua.

Hầu hết mọi người đều không uống nhiều vào buổi trưa, nếu có thì cũng chỉ một vại bia hay ly rượu. Phần lớn uống nước lọc hoặc trà đá. Thực khách đến vào giờ ăn trưa bao gồm những người tình cờ ở gần Merlotte đúng giờ dùng bữa, những khách quen coi việc đến quán là lẽ đương nhiên, và cả những con sâu rượu địa phương lấy giờ ăn trưa làm cơ hội được uống lần thứ ba thứ tư trong ngày. Lúc bắt đầu nhận yêu cầu của khách, tôi nhớ lại lời đề nghị khẩn thiết của ông anh trai.

Tôi lắng nghe suốt cả ngày, và mệt lử. Tôi chưa bao giờ dành cả ngày để nghe; tôi chưa bao giờ hạ rào chắn của mình lâu đến vậy. Có lẽ nó không còn đau đớn như hồi trước nữa; có lẽ tôi đã cảm thấy lạnh nhạt hơn với những gì mình nghe thấy. Cảnh sát trưởng Bud Dearborn ngồi cùng bàn với ngài thị trưởng, một người bạn của bà, Sterling Norris. Ông Norris đứng lên vỗ vai tôi, và tôi nhận ra đó là lần đầu tiên tôi gặp ông kể từ đám tang của bà.

“Cháu dạo này thế nào, Sookie?” ông hỏi bằng giọng cảm thông. Trông ông có vẻ không khỏe.

“Mọi chuyện đều ổn, còn ông thì sao ạ?”

“Ta già rồi, Sookie,” ông nói kèm theo nụ cười ngập ngừng, ông thậm chí chẳng thèm đợi tôi phản đối. “Những vụ giết người đó đã vắt kiệt sức ta. Chúng ta có vụ sát hại nào ở Bon Temps đâu, kể từ khi Darryl Mayhew bắn chết Sue Mayhew. Và chuyện đó cũng chẳng có gì là bí ẩn cả.”

“Chuyện đó... sao nhỉ? Sáu năm trước phải không ạ?” tôi hỏi viên cảnh sát trưởng, chỉ để tìm cớ đứng lại đó. Ông Norris đang rất buồn khi nhìn thấy tôi bởi ông nghĩ Jason sắp bị bắt vì tội giết người, vì đã sát hại Maudette Pickens, và ngài thị trưởng cũng liệt Jason vào danh sách tình nghi giết bà. Tôi cúi đầu xuống để che nước mắt.

“Có lẽ vậy. Để xem nào, ta nhớ hôm đó chúng ta đã ăn mặc rất diện để tham dự buổi độc tấu múa của Jean- Anne... Vậy là... đúng đấy, cháu nhớ đúng đấy, Sookie, là sáu năm trước.” Viên cảnh sát trưởng gật đầu tán đồng với tôi. “Jason hôm nay có đến không?” ông hỏi giọng thản nhiên, cứ như thể chỉ tình cờ thôi vậy.

“Không, cháu vẫn chưa thấy anh ấy,” tôi đáp. Viên cảnh sát trưởng gọi trà đá và bánh hamburger; trong lúc đó ông nghĩ đến lần ông bắt gặp Jason và Jean-Anne của mình đang điên cuồng âu yếm nhau trên chiếc giường trong xe tải của Jason.

Ôi, Chúa ơi. Ông ta đang nghĩ Jean- Anne thật may mắn vì đã không bị bóp cổ. Và rồi, ông ta nảy ra một suy nghĩ rõ ràng đã chạm đúng vào điểm nhạy cảm của tôi: cảnh sát trưởng Dearborn nghĩ, “Bọn con gái này dù gì cũng chỉ là dạng cá ăn sát đáy nước mà thôi.”

Tôi có thể đọc được những suy nghĩ đó rõ đến từng lời vì tình cờ thay, cảnh sát trưởng lại là một trường hợp dễ dò xét. Tôi có thể cảm nhận được đầy đủ sắc thái, ông ta đang nghĩ, “Công việc thấp kém, học hành chẳng ra gì, ngủ với ma cà rồng... cặn bã cả.”

Tổn thương và tức giận chưa đủ để miêu tả cảm xúc của tôi trước lối đánh giá này.

Tôi máy móc đi từ bàn này sang bàn khác, mang đồ uống và bánh sandwich cho khách, dọn bàn, làm việc chăm chỉ như thường lệ, nụ cười dễ sợ đó vẫn kéo căng da mặt. Tôi nói chuyện với khoảng hai mươi người quen, hầu hết đều có những suy nghĩ vô tội kiểu như ngày sao mà dài thế. Phần lớn khách hàng đều suy nghĩ về công việc, hay những nhiệm vụ phải hoàn thành ở nhà, hay vấn đề lặt vặt nào đó cần giải quyết, như thuê thợ của Sears đến sửa máy rửa bát, hay dọn dẹp nhà cửa đón đồng nghiệp đến chơi cuối tuần. Arlene thở phào nhẹ nhõm khi lại có kinh.

Tâm trí Charlsie thì tràn ngập những suy nghĩ màu hồng về đứa cháu ngoại. Chị thành tâm cầu nguyện cho con gái mình được mẹ tròn con vuông.

Lafayette nghĩ làm việc cùng tôi có phần đáng sợ.

Viên cảnh sát Kevin Prior băn khoăn không hiểu cộng sự Kenya sẽ làm gì vào ngày nghỉ. Còn anh ta thì sẽ giúp mẹ dọn dẹp nhà kho, và ghét cay ghét đắng công việc này.

Tôi nghe được rất nhiều lời bình luận, to có, nhỏ cũng có, về mái tóc, nước da, và miếng băng gạc trên tay tôi. Dường như tôi trở nên khêu gợi hơn đối với nhiều người đàn ông hơn, và cả một phụ nữ nữa. Một vài tay tham gia vào vụ thiêu ma cà rồng nghĩ rằng chúng không có cơ hội với tôi vì tình cảm của tôi dành cho ma cà rồng, và chúng đang hối tiếc vì hành động lỗ mãng của mình. Tôi ghi nhớ danh tính của chúng trong đầu. Tôi không đời nào quên chuyện suýt nữa chúng đã giết chết Bill của tôi, cho dù lúc này, tôi cũng chẳng ưa gì ma cà rồng.

Andy Bellefleur và em gái của anh ta, Portia, đang dùng bữa trưa cùng nhau, một hoạt động được họ duy trì ít nhất một lần mỗi tuần. Portia là phiên bản nữ của Andy: chiều cao trung bình, thân hình rắn chắc và khuôn miệng và quai hàm kiên quyết. Sự giống nhau giữa hai anh em có lợi rất nhiều cho Andy, chứ không phải Portia. Tôi nghe đồn chị ấy là một luật sư rất thạo việc. Tôi lẽ ra đã gợi ý Jason chọn chị khi anh tính chuyện thuê luật sư, nếu chị ấy không phải là phụ nữ... Và tôi nghĩ thế vì lợi ích của Portia nhiều hơn là của Jason.

Hôm nay nữ luật sư đang cảm thấy thất vọng tràn trề, vì dẫu được ăn học đến nơi đến chốn và kiếm được kha khá, nhưng chị lại chưa từng hẹn hò với ai. Đó là mối bận tâm thầm kín của chị.

Andy ghê tởm khi thấy tôi vẫn tiếp tục giao du với Bill Compton, nhưng cũng thấy khá hứng thú với vẻ ngoài đã được cải thiện của tôi, và tò mò không hiểu ma cà rồng làm tình như thế nào. Hắn cũng lấy làm buồn vì có lẽ phải bắt Jason. Andy nghĩ Jason cũng chẳng đáng nghi hơn những người khác là bao, nhưng Jason lại là kẻ có vẻ sợ hãi nhất, nghĩa là anh ấy đang giấu giếm điều gì đó. Và còn cả những cuốn băng ghi lại cảnh Jason đang làm tình - không hẳn là theo cung cách quen thuộc - với Dawn và Maudette.

Tôi nhìn Andy chăm chăm trong lúc xử lý những suy nghĩ trong đầu hắn, vậy nên khiến hắn cảm thấy khá khó chịu. Andy quả thực biết rõ khả năng của tôi. “Sookie, lấy bia cho tôi nhé?” Cuối cùng hắn cũng mở miệng, vẫy vẫy bàn tay khổng lồ trong không khí để chắc chắn rằng tôi có chú ý.

“Chắc chắn rồi, Andy à,” tôi đáp lơ đãng, và lôi một chai bia ra khỏi thùng ướp lạnh. “Chị có dùng thêm trà không, Portia?”

“Không, cảm ơn em, Sookie,” Portia đáp lịch sự rồi dùng khăn giấy chấm chấm miệng. Portia đang nhớ lại thời trung học, lẽ ra chị nên bán cả linh hồn để được hẹn hò với chàng Jason Stackhouse điển trai. Chị tự hỏi bây giờ Jason đang làm gì, liệu anh có khi nào từng thấy hứng thú với chị không - nhưng có lẽ thân hình của trong đầu anh ta có ý tưởng nào khiến chị hứng thú đồng cảm về mặt trí tuệ? Vậy là Portia vẫn chưa xem mấy cuộn băng đó, chưa biết về sự tồn tại của chúng; Andy là một cảnh sát biết giữ mồm giữ miệng đấy chứ. Tôi cố tưởng tượng ra cảnh Portia cùng với Jason, và không thể nhịn được cười. Chắn hẳn đó sẽ là kinh nghiệm để đời cho cả hai bọn họ. Tôi ao ước, không phải lần đầu tiên, rằng mình có thể gieo ý nghĩ vào đầu mọi người cũng giỏi không kém gì việc đọc được tâm trí người khác.

Khi ca làm gần kết thúc, tôi phát hiện ra... chẳng điều gì cả. Ngoại trừ việc những cuốn băng do ông anh tôi ngu ngốc quay lại có cả những màn câu thúc tình dục nhẹ nhàng, nguyên nhân khiến Andy liên tưởng đến những vết trói quanh cổ nạn nhân. Vậy nên, chung quy lại, để mở tâm trí mình vì ông anh trai là một việc làm hoàn toàn vô ích. Tất cả những gì tôi nghe thấy chỉ làm tôi lo lắng hơn, và chúng chẳng cung cấp thêm được thông tin gì giúp ích cho Jason cả.

Tối nay một đám đông khác sẽ đến. Tôi chẳng bao giờ đến Merlotte để giải trí cả. Tối nay tôi có nên đến không nhỉ? Bill sẽ làm gì? Tôi có muốn gặp anh không?

Tôi cảm thấy thật cô đơn. Tôi chẳng thể kể cho ai về Bill, chẳng ai lại không choáng váng khi nghe chuyện tôi hẹn hò cùng Bill. Làm sao tôi có thể kể với Arlene rằng mình buồn vì đám bạn ma cà rồng của Bill thật đáng sợ và tàn nhẫn, rằng một tay trong số chúng đã cắn tôi vào đêm hôm trước, đã làm tràn máu vào miệng tôi và rồi bị cắm cọc khi đang nằm đè lên tôi? Đó không phải kiểu vấn đề Arlene có thể xử lý được.

Tôi cũng chẳng nghĩ ra ai là người có thể.

Tôi không thể nhớ ra có người nào từng hẹn hò với ma cà rồng mà lại không thuộc nhóm hâm mộ ma cà rồng bị phân biệt đối xử, một nhân tình răng nanh sẵn sàng đi với bất kỳ kẻ hút máu nào.

Khi tôi rời khỏi quán, kể cả vẻ ngoài hoàn thiện hơn cũng chẳng thể cho tôi sự tự tin nữa. Tôi cảm thấy mình như một kẻ dị hợm.

Tôi lăng xăng quanh nhà, chợp mắt một chút, tưới đám hoa của bà. Đến lúc chạng vạng, tôi ăn thứ gì đó đã được hâm trong lò vi sóng. Băn khoăn do dự cho tới tận phút cuối về chuyện có nên ra ngoài hay không, cuối cùng tôi mặc áo sơ mi đỏ và quần trắng, đeo trang sức rồi lái xe trở lại Merlotte.

Tôi có cảm giác rất lạ khi vào quán với tư cách khách hàng. Sam đứng đằng sau quầy, và đôi mày của anh nhướn lên khi thấy tôi bước vào. Ba cô phục vụ bàn mà tôi chỉ biết mặt đang làm việc tối đó, và qua cửa sổ chuyển đồ, tôi thấy một tay đầu bếp khác đang nướng hamburger.

Jason đang ở quán. Ngạc nhiên là chiếc ghế bên cạnh anh vẫn còn trống, và tôi chiếm luôn chỗ đó.

Anh quay lại nhìn tôi với khuôn mặt sẵn sàng chào đón một nàng mới: miệng nhoẻn một nụ cười, đôi mắt mở to sáng rỡ. Nhưng khi nhìn ra tôi, vẻ mặt anh thay đổi nhanh như phản ứng hạt nhân vậy . “Em làm cái quái gì ở đây thế, Sookie?” anh hỏi bằng giọng phẫn nộ.

“Anh không vui khi gặp em,” tôi bình luận. Khi Sam dừng trước mặt tôi, tôi gọi một ly bourbon pha Coke mà không ngước lên nhìn anh. “Em đã làm theo ý anh, và đến giờ vẫn chẳng được gì cả,” tôi thì thầm với ông anh trai. “Em đến đây tối nay để thử với vài người khác.”

“Cảm ơn em, Sookie,” anh đáp sau một lúc lâu im lặng. “Có lẽ anh đã không nhận ra mình đang đòi hỏi gì. Này, em vừa làm tóc đấy à?”

Anh thậm chí còn trả tiền nước cho tôi khi Sam mang đến.

Chúng tôi không có nhiều chuyện để mà nói, thực ra cũng chẳng sao, vì tôi còn bận lắng nghe tâm trí các vị khách khác. Quán có vài khách lạ, và tôi kiểm tra họ trước, để xem liệu họ có thể là kẻ tình nghi không. Nhưng tôi phải miễn cưỡng rút ra kết luận họ có vẻ không có khả năng đó. Một người đang nhớ vợ khủng khiếp, và thêm vào đó anh ta hoàn toàn chân thành với cô ấy. Người kia lại nghĩ đây là lần đầu tiên anh ta đến đây, và đồ uống khá ngon đấy chứ. Người cuối cùng thì chỉ tập trung giữ tỉnh táo và hy vọng có thể lái xe an toàn về nhà trọ.

Tôi gọi thêm một ly rượu khác.

Jason và tôi ước tính chi phí thuê luật sư khi việc nhà cửa của bà được ổn định. Anh liếc nhìn ra cửa và thốt lên, “Ối chà.”

“Sao vậy?” tôi hỏi, không buồn quay lại xem anh đang nhìn gì.

“Em gái à, bạn trai em đang ở đây kìa. Mà hắn không đi một mình.”

Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi là Bill mang theo một gã bạn ma cà rồng nào đó, một hành động đáng lo và không hề sáng suốt. Nhưng khi quay lại, tôi nhận ra tại sao Jason lại có vẻ giận dữ đến thế. Bill đi cùng một ả người. Anh nắm chặt cánh tay cô ta, còn cô ta bám theo anh như một ả điếm, và mắt anh đang quét qua đám đông. Tôi nhận ra anh đang trông chờ phản ứng của tôi.

Tôi nhảy ra khỏi chiếc ghế và nhận ra thêm một điều nữa.

Tôi say mất rồi. Tôi hiếm khi uống rượu, và hai ly bourbon pha Coke được tiêu thụ trong vài phút ấy đã khiến tôi nếu không phải say bí tỉ thì ít ra cũng hơi chếnh choáng.

Bill bắt gặp ánh mắt tôi. Anh không thật sự mong sẽ gặp được tôi ở đây. Tôi chẳng thể đọc được tâm trí anh giống như đã làm với Eric trong khoảng thời gian khủng khiếp ấy, nhưng tôi có thể hiểu được ngôn ngữ cơ thể của anh.

“Này, ma cà rồng Bill!” Hoyt, một tay bạn của Jason, lên tiếng. Bill gật đầu lịch sự về phía Hoyt, nhưng bắt đầu lôi cô ả - nhỏ bé, da màu - hướng về phía tôi.

Tôi chẳng biết nên làm gì.

“Em gái này, hắn định chơi trò gì thế?” Jason hỏi. Anh đang tức nghẹn họng rồi. “Ả đó là một nhân tình răng nanh ở Monroe. Anh biết ả hồi ả còn thích con người kìa.”

Tôi vẫn chẳng biết nên làm gì. Sự tổn thương đã lên tới cùng cực, nhưng lòng kiêu hãnh của tôi vẫn cố gắng che giấu điều đó. Tôi phải thêm vào cảm xúc của mình một chút mặc cảm tội lỗi. Tôi đã không đến nơi Bill mong tôi sẽ đến, và tôi cũng chẳng để lại lời nhắn cho anh. Ngẫm cho kỹ - mặt khác (đây là lần thứ năm hay thứ sáu gì rồi) - tôi đã gặp quá nhiều cú sốc trong màn tra hỏi ở Shreveport tối hôm trước; và chỉ có tình cảm của tôi dành cho anh mới khiến tôi đâm đầu vào mớ rắc rối đó. Sự thôi thúc muốn đánh nhau đã giữ tôi đứng yên. Tôi muốn nhảy bổ vào cô ả kia và đập cho cô nàng khỏi ngóc đầu dậy, nhưng từ bé tôi đã được dạy là không được ẩu đả trong quán rượu. (Tôi cũng muốn đập cho Bill khỏi ngóc đầu dậy, nhưng làm thế thì cũng ngang với tự đập đầu mình vào tường). Ngay lúc đó, tôi cũng muốn khóc òa lên bởi sự tổn thương - nhưng làm vậy thì yếu đuối quá. Sự lựa chọn tốt nhất là đừng thể hiện gì cả bởi Jason đã sẵn sàng nhảy bổ vào Bill rồi, và chỉ cần một hành động nào đó từ tôi là anh sẽ bùng nổ ngay lập tức.

Quá nhiều mâu thuẫn góp thêm vào quá nhiều chất cồn.

Trong khi tôi vẫn đang tính toán các lựa chọn thì Bill đã đến gần, đi xuyên qua những dãy bàn, vẫn kéo theo cô ả kia. Tôi nhận thấy căn phòng trở nên yên lặng hơn. Thay vì quan sát người khác, giờ chính tôi lại bị theo dõi.

Tôi có thể cảm nhận được những giọt nước mặt chực trào ra trong khi đôi tay siết lại thành nắm đấm. Tuyệt. Phản ứng tồi tệ nhất của cả hai phương án trả lời.

“Sookie,” Bill nói, “Eric đã thả cô gái này ngay trước bậc thềm nhà anh.”

Tôi khó có thể hiểu được anh đang nói gì.

“Thì sao?” tôi giận dữ hỏi. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt cô ả kia. Chúng to, đen và đầy phấn khích. Tôi cũng cố giữ mắt mình mở to, biết rõ rằng chỉ cần tôi chớp mắt thì nước mắt sẽ tuôn ra mất.

“Coi như phần thưởng,” Bill nói. Tôi không thể hiểu anh cảm thấy sao về chuyện này.

“Món đồ uống miễn phí à?” tôi hỏi lại, không ngờ rằng giọng mình có thể cay nghiệt đến thế.

Jason đặt tay lên vai tôi. “Bình tĩnh nào, em gái,” anh nói, giọng khẽ và độc địa không kém gì tôi. “Hắn không đáng đâu.”

Tôi không biết Bill không đáng với cái gì, nhưng tôi cũng sắp biết được rồi. Sau cả đời phải sống trong sự kiềm chế, tôi hầu như cảm thấy hân hoan khi không biết mình sẽ làm gì tiếp theo.

Bill đang quan sát tôi với sự chú tâm sắc lạnh. Dưới ánh đèn huỳnh quanh, trông anh trắng đến khác thường. Anh vẫn chưa hút máu cô ả. Và răng nanh của anh đang thụt vào. “Ra ngoài nói chuyện đi,” anh nói. “Với ả ta à?” tôi gầm ghè.

“Không,” anh đáp. “Với anh. Anh phải trả cô ta lại.”

Sự ghê tởm trong giọng Bill đã tác động đến tôi, và tôi theo anh ra ngoài, ngẩng cao đầu và không nhìn ánh mắt ai. Anh vẫn túm tay cô ả, và ả ta đang phải kiễng chân lên để theo kịp. Tôi không biết Jason vẫn đang đi theo cho đến khi đã vào đến bãi đậu xe, tôi quay lại và nhìn thấy anh đang ở ngay đằng sau. Ở ngoài, người ra kẻ vào tấp nập, nhưng thế vẫn còn hơn cái quán bar đông đúc.

“Xin chào,” cô ả mở lời. “Tên em là Desiree. Em nghĩ ta đã gặp nhau trước đây rồi, Jason.”

“Em đang làm gì ở đây thế, Desiree?” Jason hỏi nhỏ. Nghe qua thì cứ tưởng anh đang bình tĩnh lắm. “Eric đưa em đến Bon Temps làm phần thưởng cho Bill,” cô nàng rụt rè đáp, liếc mắt nhìn Bill. “Nhưng anh ấy có vẻ chỉ thấy ghê tởm. Em chẳng biết tại sao nữa. Em cũng đặc biệt hấp dẫn đấy chứ.”

“Eric nào?” Jason hỏi tôi.

“Một ma cà rồng ở Shreveport. Chủ quán bar. Ông trùm.”

“Hắn để cô gái này ở thềm nhà anh,” Bill nói với tôi. “Anh không yêu cầu có cô ta.”

“Anh định làm gì?”

“Trả lại cô ta,” anh đáp với vẻ sốt ruột. “Anh và em cần nói chuyện.”

Tôi nuốt khan. Những ngón tay nới lỏng dần.

“Cô ta cần quá giang đến Monroe à?” Jason hỏi.

Bill trông có vẻ ngạc nhiên, “Ừ. Anh tiện đường chứ? Tôi cần nói chuyện với em gái anh.”

“Chắc chắn rồi,” Jason đáp với vẻ rộng lượng. Tôi nghi ngờ ngay lập tức.

“Em không thể tin được anh lại từ chối em,” Desiree thốt lên, ngước nhìn Bill và bĩu môi. “Trước đây chưa từng có ai từ chối em.”

“Tất nhiên tôi rất biết ơn, và tôi tin chắc cô là một người đặc biệt hấp dẫn, đúng như cô nói,” Bill đáp lịch sự. “Nhưng tôi đã có hầm rượu của mình rồi.”

Desiree bé nhỏ ngây ra nhìn anh trong một vài giây trước khi vẻ thấu hiểu chậm chạp sáng lên trong đôi mắt nâu của cô ả. “Người phụ nữ này là của anh?” cô ta hỏi, hất đầu về phía tôi.

“Phải.”

Trông Jason có vẻ lo lắng trước sự khẳng định đơn giản của Bill.

Desiree nhìn tôi một lượt. “Mắt cô ấy ngộ quá,” cuối cùng cô ả thốt lên.

“Đó là em gái anh,” Jason nói.

“Ồ. Em xin lỗi. Anh thì... bình thường hơn nhiều.” Desiree cũng quay nhìn Jason một lượt, và có vẻ hài lòng với những gì mình thấy. “Mà họ của anh là gì nhỉ?”

Jason nắm tay cô nàng dẫn ra chiếc xe tải của anh. “Stackhouse,” anh vừa đáp vừa ve vuốt đôi mắt cô nàng sau khi cả hai đã bước ra xa. “Có lẽ trên đường về nhà, em có thể kể cho anh nghe em đã làm gì...”

Tôi quay về phía Bill, đang băn khoăn không hiểu Jason có động cơ gì trong hành động hào hiệp này thì chạm phải ánh mắt Bill. Thật không khác gì đang đi thì va vào tường vậy. “Vậy, anh muốn nói chuyện à?” tôi hỏi vội vàng.

“Không phải ở đây. Về nhà với anh.”

Tôi lấy ngón chân cào cào đám sỏi. “Không phải nhà anh.”

“Vậy thì nhà em.”

“Không.”

Anh nhướn đôi mày cong cong của mình lên. “Vậy thì ở đâu?”

Câu hỏi hay đấy.

“Hồ nước chỗ anh trai em.” Vì Jason còn mải đưa Cô Nàng Da Màu Bé Nhỏ về, nên anh ấy sẽ không ở đó. “Anh sẽ theo em” anh nói ngắn gọn, và chúng tôi tách ra người nào về xe người nấy.

Căn nhà tôi đã sống trong mấy năm đầu đời nằm ở phía Tây Bon Temps. Tôi rẽ vào con đường rải sỏi quen thuộc và đỗ xe trước nhà, một nông trại khiêm tốn được Jason chăm sóc khá tốt. Khi tôi chui ra khỏi xe thì Bill cũng bước xuống đường, và tôi ra hiệu cho anh đi theo mình. Chúng tôi đi vòng qua căn nhà, leo xuống dốc và lần theo con đường được lát bằng những phiến đá lớn. Chỉ một phút sau, chúng tôi đã đứng bên cái hồ nhân tạo mà bố tôi đã xây ở sân sau với hy vọng đó sẽ là nơi ông được cùng con trai câu cá hằng năm.

Có một hành lang lộ thiên nhìn ra mặt hồ, và trên một trong những cái ghế sắt đặt ở đó, có một tấm chăn được gấp lại cẩn thận. Chẳng cần hỏi ý kiến tôi, Bill cầm chăn lên giũ mạnh, rồi trải nó trên thảm cỏ dốc xuống từ phía hành lang. Tôi miễn cưỡng ngồi lên, thầm nghĩ tấm chăn này chẳng hề an toàn chút nào, bởi cùng những lý do khiến việc gặp gỡ hoặc ở nhà anh hoặc ở nhà tôi trở nên không an toàn. Khi ở gần Bill, tôi chỉ nghĩ đến việc được ở gần anh hơn nữa.

Tôi ngồi bó gối, nhìn chăm chăm ra mặt nước. Người ta đã lắp một chiếc đèn bảo vệ phía bên kia hồ, và tôi có thể nhìn thấy hình phản chiếu của nó trên mặt nước phẳng lặng. Bill ngả lưng xuống cạnh tôi. Tôi có thể cảm nhận được ánh mắt anh trên khuôn mặt mình. Anh đan tay trước ngực, tỏ rõ anh sẽ giữ tay mình ở nguyên chỗ.

“Tối hôm trước đã làm em sợ,” anh nhận xét với vẻ khách quan.

“Anh không sợ chút nào sao?” tôi hỏi bằng giọng nhỏ hơn mình tưởng.

“Sợ cho em. Và hơi sợ cho bản thân.”

Tôi muốn nằm sấp xuống, nhưng lại e như thế sẽ gần anh quá. Làn da lấp lánh dưới ánh trăng của anh khiến tôi khao khát được chạm vào anh.

“Em sợ Eric có thể điều khiển cuộc sống của chúng ta khi chúng ta ở bên nhau.”

“Em không muốn chúng ta ở bên nhau nữa sao?”

Ngực tôi nhói đau đến nỗi tôi phải chặn tay lên, ép vào vùng da phía trên hai bầu ngực.

“Sookie?” Anh quỳ xuống bên cạnh rồi vòng tay ôm tôi.

Tôi không thể trả lời được. Tôi chẳng còn thở nổi nữa.

“Em có yêu anh không?” anh hỏi.

Tôi gật đầu.

“Tại sao em lại nói đến chuyện rời xa anh?”

Cơn đau giờ đã chạy lên trên mắt tôi, hiện hình trong những giọt lệ.

“Em quá sợ những ma cà rồng khác và lối sống của chúng. Hắn sẽ yêu cầu em làm gì nữa đây? Hắn sẽ cố gắng bắt em phải làm chuyện gì đó nữa. Hắn sẽ dọa giết anh. Hoặc đe dọa Jason. Và hắn có thể làm chuyện đó.”

Giọng Bill khẽ khàng như tiếng một chú dế trong bãi cỏ. Một tháng trước, có lẽ tôi đã không thể nghe rõ được. “Đừng khóc,” anh thì thầm với tôi. “Sookie, anh phải nói với em một chuyện hơi khó chịu đây.”

Điều dễ chịu duy nhất mà anh có thể kể với tôi trong thời điểm này là Eric đã chết.

“Eric giờ bị em hớp hồn rồi. Hắn biết chắc em có những năng lực trí tuệ mà hầu hết con người không có, hoặc nếu có thì cũng chối bỏ việc sở hữu nó. Hắn đoán rằng máu của em sẽ ngọt ngào và ngon lành hết sức.” Giọng Bill khàn đi khi nói điều đó, và tôi rùng mình. “Mà em còn xinh đẹp nữa. Bây giờ thậm chí em còn xinh đẹp hơn nhiều. Hắn không nhận ra em đã uống máu của bọn anh ba lần rồi.”

“Anh biết máu của Long Shadow đã chảy vào người em?”

“Phải. Anh đã thấy.”

“Ba lần thì có gì thần kỳ không?”

Anh cười thành tiếng, một điệu cười trầm khàn khùng khục. “Không. Nhưng em uống càng nhiều máu ma cà rồng thì em càng trở nên quyến rũ hơn đối với giống loài của anh, và thực ra là, quyến rũ hơn đối với bất kỳ ai. Thế mà cô ả Desiree nghĩ mình là người hấp dẫn đấy! Anh chẳng hiểu thằng cha ma cà rồng nào nói thế với cô ả nữa.”

“Gã nào đó muốn chui vào quần ả,” tôi nhận xét thẳng thừng, và anh lại cười. Tôi yêu điệu cười của anh quá. “Với toàn bộ câu chuyện về sự xinh đẹp này của em, có phải anh định nói là Eric, kiểu như, thèm khát em?”

“Phải”

“Vậy thì điều gì có thể ngăn cản hắn chiếm đoạt em? Anh bảo hắn khỏe hơn anh mà.”

“Trên hết là phong tục tập quán và phép xã giao.”

Tôi suýt nữa thì đã khịt mũi.

“Đừng xem nhẹ chuyện đó. Tất cả ma cà rồng bọn anh đều tuân thủ phong tục tập quán. Bọn anh phải sống cùng nhau suốt nhiều thế kỷ mà.”

“Còn gì khác không?”

“Anh không khỏe bằng Eric, nhưng anh cũng không phải ma cà rồng tập sự. Hắn có thể bị thương nặng khi chiến đấu với anh, hoặc anh thậm chí có thể thắng nếu may mắn.”

“Còn gì nữa?”

“Có lẽ,” Bill cẩn thận ướm lời, “bản thân em nữa.”

“Làm sao thế được?”

“Mặt khác nếu em có thể trở thành người quan trọng với hắn, hắn có thể sẽ để em yên nếu biết đó là mong muốn thành tâm của em.”

“Nhưng em không muốn thành người quan trọng với hắn! Em không muốn gặp lại hắn một lần nào nữa!”

“Em đã hứa với Eric rằng sẽ lại giúp đỡ hắn,” Bill nhắc tôi.

“Nếu hắn nộp kẻ phạm tội cho cảnh sát,” tôi nói. “Và Eric đã làm gì nào? Hắn giết Long Shadow luôn!”

“Có lẽ việc đó đã cứu mạng em.”

“Vậy đấy, em đã tìm ra kẻ trộm cho hắn!”

“Sookie, em vẫn chưa biết nhiều về thế giới này đâu.”

Tôi nhìn anh chăm chăm, ngạc nhiên. “Em cũng cho là thế.”

“Mọi thứ không thể lúc nào cũng... công bằng.” Mắt Bill dán vào bóng tối. “Thậm chí anh nghĩ, có những lúc chính anh cũng không hiểu nhiều lắm.” Thêm một khoảng lặng ảm đạm nữa. “Trước đây, anh chỉ một lần nhìn thấy ma cà rồng đóng cọc giết lẫn nhau thôi. Eric đã vượt quá giới hạn của giống loài anh rồi.”

“Vậy thì chưa chắc hắn sẽ quá chú ý đến cái phong tục tập quán và phép xã giao mà anh vừa mới đề cập đến đâu.”

“Pam có thể giữ hắn tuân theo lề thói cũ.”

“Cô ta là gì với Eric?”

“Hắn đã biến đổi cô ta. Nghĩa là hắn đã biến cô ta thành ma cà rồng, hàng thế kỷ trước. Cô ta quay lại bên hắn hết lần này đến lần khác, giúp đỡ bất kể việc gì hắn đang làm vào thời điểm đó. Eric luôn là kẻ đểu giả lừa lọc, và càng già hắn càng ngang ngạnh hơn.” Với tôi, gọi Eric là kẻ ngang ngạnh thì có vẻ là nói nhẹ đi quá nhiều rồi.

“Vậy chẳng phải chúng ta không có lối thoát nào sao?” tôi hỏi.

Bill có vẻ đang cân nhắc câu trả lời. “Phải,” anh thừa nhận, giọng nhuốm chút nuối tiếc. “Em không thích giao du với ma cà rồng nào khác ngoài anh, nhưng chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác.”

“Vậy còn chuyện Desiree là sao?”

“Hắn sai người thả cô ta trước cửa nhà anh, hy vọng anh sẽ thấy hài lòng với món quà khá khẩm đó. Nó cũng như một bài kiểm tra sự chung thủy của anh đối với em, để xem anh có uống máu cô ta không. Có thể hắn đã đầu độc máu cô ả bằng cách nào đó, và nó sẽ làm anh yếu đi. Mà cũng có thể anh đã suy luận nhầm lẫn.” Anh nhún vai. “Em nghĩ anh hẹn hò với người khác à?”

“Phải.” Tôi cảm thấy mặt mình đanh lại, khi nghĩ đến cảnh Bill bước vào cùng cô gái đó.

“Em không có ở nhà. Anh phải đi tìm em.” Giọng anh không có vẻ buộc tội, nhưng cũng chẳng hề vui vẻ.

“Em đang cố giúp Jason bằng cách lắng nghe. Thêm vào đó em vẫn còn hơi khó chịu chuyện hôm trước.”

“Bây giờ thì chúng ta ổn cả rồi chứ?”

“Chưa đâu, nhưng ít ra cũng là ổn hết mức rồi,” tôi đáp. “Có lẽ cho dù em để tâm đến người nào đi chăng nữa thì chuyện cũng chẳng bao giờ suôn sẻ cả. Nhưng em chẳng bao giờ ngờ được những trở ngại lại dữ dội đến mức này. Không có cách nào để anh vượt lên cấp cao hơn Eric, phải không, vì tuổi tác là tiêu chuẩn?”

“Không,” Bill đáp. “Không vượt lên cấp cao hơn...” Và đột nhiên trông anh có vẻ trầm ngâm. “Tuy nhiên có lẽ anh có thể làm được điều gì đó dựa theo các quy tắc ấy. Anh không muốn vậy - nó đi ngược lại bản tính của anh - nhưng chúng ta sẽ được an toàn hơn.”

Tôi để anh suy nghĩ.

“Được,” anh kết luận, kết thúc quá trình nghiền ngẫm của mình. Anh không giải thích gì cả, và tôi cũng chẳng hỏi.

“Anh yêu em,” anh nói, như thể đó là điểm mấu chốt cho kế hoạch mà anh đang cân nhắc. Khuôn mặt anh hiện ra trên đầu tôi, tỏa sáng và đẹp đẽ trong cảnh tranh tối tranh sáng.

“Em cũng vậy,” tôi đáp, rồi đặt tay lên ngực anh để anh khỏi quyến rũ mình. “Nhưng hiện giờ, chúng ta gặp quá nhiều khó khăn. Nếu chúng ta thoát khỏi Eric được thì đỡ quá. Thêm vào đó, chúng ta phải chấm dứt được cuộc điều tra án mạng này. Đó sẽ là gánh nặng lớn thứ hai được cất khỏi lưng chúng ta. Kẻ sát nhân này đã gây ra cái chết của bạn anh, của Maudette và Dawn.” Tôi dừng lại một chút, hít thở thật sâu. “Và cả cái chết của bà em nữa.” Tôi cố nuốt nước mắt. Tôi đã thích ứng được với việc thiếu vắng bà mỗi khi tôi về nhà, đã dần quen với việc không nói chuyện, không chia sẻ cả ngày dài của tôi với bà, nhưng thỉnh thoảng, nỗi đau buồn vẫn buốt nhói, làm tôi không thở nổi.

“Sao em nghĩ tên giết người này cũng chính là kẻ đã thiêu các ma cà rồng ở Monroe?”

“Em nghĩ chính kẻ sát nhân ấy đã gieo rắc ý nghĩ này, cái tư tưởng trừng phạt này, vào đầu óc đám đàn ông ở quán bar tối đó. Em nghĩ chính tên sát nhân đã đi từ bàn này đến bàn khác, xúi giục mọi người.

Em đã sống ở đây từ bé đến giờ nhưng chưa bao giờ thấy mọi người xung quanh hành xử theo kiểu đó. Chắc hẳn phải có lý do nào đó.”

“Hắn kích động họ? Xúi giục họ đốt phá?”

“Phải.”

“Việc nghe ngóng tâm trí của em chưa thu được kết quả gì sao?”

“Chưa,” tôi rầu rĩ thú nhận. “Nhưng như thế không có nghĩa là ngày mai cũng vậy.”

“Em đúng là người lạc quan, Sookie.”

“Đúng vậy. Em phải thế thôi.” Tôi vỗ vỗ má anh, thầm nghĩ sự lạc quan của mình đã thay đổi thế nào từ khi có anh trong đời.

“Em cứ tiếp tục lắng nghe nhé, nếu em nghĩ việc đó có thể có ích,” anh nói. “Bây giờ anh sẽ phải giải quyết một số chuyện khác. Tối mai anh gặp em ở nhà em nhé, được chứ? Có lẽ anh sẽ... thôi, để đến lúc đó giải thích với em vậy.”

“Được thôi.” Tôi hơi tò mò, nhưng Bill rõ ràng chưa sẵn sàng tiết lộ gì cả.

Trên đường về nhà, trong lúc bám theo ánh đèn pha xe Bill, tôi thầm nghĩ mấy tuần vừa qua hẳn sẽ còn đáng sợ hơn biết bao nhiêu nếu không tôi không được che chở bởi sự hiện diện của Bill. Trong lúc cẩn thận lái xe trên lối vào nhà, tôi thầm mong Bill sẽ không phải về nhà để gọi vài cuộc điện thoại cần thiết nào đó. Trong một vài tối hiếm hoi chúng tôi không ở cạnh nhau, tất nhiên tôi không nói rằng mình co rúm lại vì sợ hãi, nhưng đúng là tôi rất bồn chồn lo lắng. Ở nhà một mình, tôi dành rất nhiều thời gian đi từ cánh cửa khóa kín này đến cánh cửa khóa kín khác, và tôi vẫn không quen được với cách sống này. Trái tim tôi chùng xuống khi nghĩ về những buổi tối phía trước.

Trước khi ra khỏi xe, tôi quét mắt khắp sân, lòng mừng thầm vì mình đã nhớ bật đèn bảo vệ trước khi đến quán. Mọi thứ vẫn ở nguyên vị trí. Thường thường Tina sẽ chạy đến khi tôi về, sốt ruột được vào nhà để kiếm ít thức ăn cho mèo, nhưng tối nay, chắc hẳn cô nàng đang bận đi săn trong rừng.

Tôi lựa chiếc chìa khóa nhà trong chùm chìa khóa của mình. Lao ra khỏi xe để tới cửa ra vào, tôi tra chìa vào ổ và xoay chìa trong một thời gian kỳ lục, rồi tôi vào nhà, sập cửa và khóa lại cẩn thận. Như thế này không gọi là sống, tôi thầm nghĩ, lắc đầu thất thần; và ngay khi tôi vừa nghĩ thế, có thứ gì đập vào cửa đánh sầm một cái. Tôi hét lên trước khi kịp ngăn mình lại.

Tôi chạy lại chỗ chiếc điện thoại không dây đặt cạnh trường kỷ. Vừa nhấn số Bill, tôi vừa đi quanh phòng để kéo các cửa chớp xuống. Nếu máy bận thì sao? Anh nói anh phải về nhà để gọi điện thoại mà!

Nhưng tôi gọi được cho anh đúng lúc anh vừa vào trong nhà. Anh gần như hụt hơi khi nhấc ống nghe. “Vâng?” anh hỏi. Giọng anh luôn có vẻ nghi ngờ.

“Bill,” tôi thở hổn hển, “có ai đó ở ngoài kia!”

Anh ném ống nghe xuống. Một ma cà rồng hành động.

Chưa đầy hai phút sau, anh đã đến. Đang liếc nhìn ra ngoài qua tấm rèm mở hé thì tôi thoáng thấy bóng anh từ ngoài rừng bước vào trong sân, di chuyển với tốc độ và sự im lặng mà không con người nào sánh được. Sự nhẹ nhõm khi nhìn thấy anh tràn ngập trong lòng. Trong một thoáng, tôi cảm thấy xấu hổ vì đã gọi điện nhờ Bill giải cứu: Đáng ra tôi phải tự mình giải quyết chứ. Rồi tôi lại nghĩ, Sao nào? Khi một người ta quen biết từng công khai thừa nhận yêu thương ta lại là người không thể bị đánh bại, một người gần như không thể bị giết, một người có sức khỏe siêu phàm, thì tất nhiên đó sẽ là người ta gọi rồi.

Bill kiểm tra sân và khu rừng, di chuyển một cách nhanh nhẹn, lặng lẽ và cẩn thận. Cuối cùng, anh khẽ khàng bước lên thềm. Anh cúi xuống một thứ gì đó đang nằm trên hiên nhà. Góc nhìn quá khuất, tôi không thể biết đó là cái gì. Khi đứng thẳng lên, anh đã ôm thứ đó trong tay, và vẻ mặt của anh hoàn toàn... không chút cảm xúc.

Chuyện này thực sự tồi tệ rồi.

Tôi miễn cưỡng bước tới cửa trước và mở khóa. Tôi đẩy cửa lưới ra.

Bill đang ôm xác con mèo của tôi. “Tina?” Giọng tôi run run, nhưng tôi cũng không màng nữa. “Nó chết rồi sao?”

Bill gật đầu, đầu anh giật giật.

“Cái gì... như thế nào?”

“Bị bóp cổ, anh nghĩ vậy.”

Tôi có thể cảm nhận được khuôn mặt mình co rúm lại. Bill phải đứng đó, giữ xác con mèo, trong khi tôi khóc nức nở.

“Em vẫn chưa trồng cây sồi thường xuân đâu,” tôi nói sau khi đã trấn tĩnh lại được một chút. Giọng tôi vẫn còn run. “Chúng ta có thể chôn nó ở cái hố đó.” Vậy là chúng tôi đi vòng tới sân sau, Bill tội nghiệp ôm xác Tina, cố gắng tỏ ra không hề lo lắng, còn tôi thì cố gắng cầm nước mắt. Bill quỳ xuống, đặt cái cơ thể lông lá nhỏ bé màu đen ấy xuống đáy chiếc hố tôi đào hôm trước. Tôi lấy xẻng và bắt đầu đổ đất vào hố, nhưng khi nhìn thấy những cục đất đầu tiên rơi lên bộ lông của Tina, tôi lại chẳng thể cầm lòng được nữa. Một cách lặng lẽ, Bill lấy chiếc xẻng từ tay tôi. Tôi quay đi, và anh hoàn thành nốt công việc kinh khủng đó.

“Vào nhà thôi,” anh nói nhẹ nhàng khi mọi việc đã xong xuôi.

Chúng tôi đi vào nhà, phải đi vòng tới cửa trước vì tôi vẫn chưa mở khóa cửa sau.

Bill vỗ về tôi, cố gắng an ủi tôi, dù rằng tôi biết anh cũng chẳng yêu quý Tina nhiều lắm. “Chúa phù hộ anh, Bill à,” tôi thì thầm. Tôi siết chặt vòng tay quanh người anh, đột nhiên lo sợ rằng anh cũng sẽ bị tước mất khỏi tôi. Khi cơn nức nở đã dịu xuống thành những tiếng nấc, tôi ngước lên, mong rằng anh không cảm thấy khó chịu với dòng cảm xúc tuôn trào đó.

Bill đang giận dữ. Anh hướng ánh mắt qua vai tôi, nhìn chăm chăm vào bức tường, đôi mắt anh sáng rực.

Tôi chưa bao giờ thấy sợ hãi như khi nhìn anh lúc này.

“Anh tìm thấy gì trong sân à?” tôi hỏi. “Không. Anh thấy vài dấu vết của hắn. Vài dấu chân, mùi rơi rớt. Chẳng thứ gì có thể làm bằng chứng để em trình trước tòa đâu,” anh tiếp tục, đọc được suy nghĩ của tôi.

“Anh có thể ở lại đây với em cho đến khi anh phải đi... tránh ánh mặt trời không?”

“Tất nhiên rồi.” Anh nhìn tôi chăm chăm. Tôi dám chắc anh sẽ quyết tâm làm thế, kể cả tôi có đồng ý hay không.

“Nếu anh cần gọi điện, cứ gọi ở đây. Em không quan tâm đâu.” Ý tôi là nếu chúng được liệt kê trong hóa đơn điện thoại của tôi.

“Anh có thẻ điện thoại đây rồi,” anh nói, một lần nữa làm tôi ngạc nhiên. Ai mà ngờ được chứ?

Tôi rửa mặt rồi uống một viên thuốc an thần trước khi tròng bộ đồ ngủ vào người, cảm thấy buồn hơn bất kỳ lúc nào khác kể từ khi bà bị giết, và buồn hơn theo một cách khác. Cái chết của một con vật cưng lẽ đương nhiên làm sao có thể được xếp cùng phạm trù với cái chết của một người thân trong gia đình chứ, tôi tự trách mình, nhưng điều đó có vẻ chẳng làm nỗi đau khổ trong tôi vơi bớt được. Tôi lập luận đủ cách nhưng chẳng nghĩ ra được gì ngoài chuyện mình đã nuôi nấng, chăm sóc, và yêu thương Tina suốt bốn năm qua, và mình sẽ nhớ nó lắm.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.