BỘ XƯƠNG NGƯỜI nằm trên chiếc giường mạ vàng được chạm trổ tinh xảo đặt ngay chính giữa phòng luyện kim cổ xưa nay là hầm mộ của nhà giả kim.
Đống xương hai trăm năm tuổi vẫn còn được vấn trong mớ quần áo tơi tả chắc chắn từng có thời là những loại nhung gấm lụa là cao giá nhất. Bao tay và dép mềm được thêu viền chỉ vàng chỉ bạc bao lấy phần xương của hai bàn tay bàn chân, tạo nên vẻ ngoài rờn rợn của da của thịt.
“Tay thợ may của ông này hẳn là yêu ông ta lắm nhỉ,” Gabriel Jones lên tiếng.
“Cho dù có là một nhà giả kim thì khách hàng của anh ta vẫn được quyền có gu thời trang tinh tế chứ,” Caleb Jones nhận xét.
Gabriel liếc sang quần áo của cậu em họ rồi xem xét phục trang trên người mình. Quần âu và áo sơ mi vải lanh họ đang mặc phủ đầy bụi bẩn và cáu ghét nhưng cả quần áo lẫn đôi ủng của họ đều được làm thủ công, vừa vặn như in.
“Có vẻ như là nét biểu trưng của dòng họ nhỉ,” Gabriel bảo.
“Thêm một nét duyên cho huyền thoại dòng họ nhà Jones đây mà,” Caleb đồng tình.
Gabriel tiến đến gần giường và giơ đèn lên cao hơn. Dưới ánh sáng chập chờn, chàng có thể nhìn ra những ký hiệu giả kim thuật bí ẩn dành cho thủy ngân, bạc kim loại và vàng viền thành hoa văn trang trí trên vạt áo rộng của bộ xương khô. Những họa tiết tương tự cũng được chạm khắc trên đầu giường bằng gỗ.
Trên sàn nhà cạnh giường là một chiếc hòm sắt nặng trịch. Hai thế kỷ gỉ sét đóng thành lớp trên bốn thành hòm, trong khi nắp hòm được phủ một tấm kim loại gì đấy mỏng tang nhưng lại không bị ăn mòn. Vàng, Gabriel tự nhủ.
Chàng cúi xuống, dùng một mảnh khăn tay sạch tinh lau lớp bụi phủ trên nắp hòm. Ánh sáng phản chiếu lên họa tiết trang trí hình lá và vài ký tự Latin khó hiểu được khắc chìm bằng a xít vào trong tấm vàng mỏng.
“Thật đáng ngạc nhiên làm sao, cả hai trăm năm qua nơi này chưa từng được phát hiện hay bị cướp phá gì cả,” chàng nói. “Theo như người ta đồn đại, nhà giả kim này cũng có kha khá đối thủ và kẻ thù. Đấy là còn chưa kể đến những thành viên của Hội Arcane và người nhà Jones đã truy tìm nơi đây cả hàng bao thập kỷ nay rồi.”
“Nhà giả kim này đã nổi danh vì trí thông minh và tính bí hiểm cơ mà,” Caleb nhắc nhở chàng.
“Lại là một nét biểu trưng của dòng họ nữa.”
“Quả thế thật,” Caleb tán thành. Giọng anh rõ ràng mang hơi hướm tàn nhẫn.
Chàng và người em họ khác biệt nhau trong nhiều mặt, Gabriel nghĩ lại. Caleb thường thiên về suy tư nghiền ngẫm và chìm đắm vào trong những quãng im lặng triền miên. Cậu ta thích dành thời gian ở phòng luyện kim của mình trong cô độc. Không thừa hơi cho khách khứa đến tham quan thăm hỏi hay bất cứ ai khác trông chờ nhận được chút ít phép lịch sự và đôi ba thói xã giao từ mình.
Trong hai người thì Gabriel trước nay tính khí vẫn luôn cởi mở và ít thất thường hơn, nhưng dạo gần đây chàng tự thấy mình liên tục dai dẳng vùi mình trong thư viện riêng. Chàng biết rằng mình không chỉ đang tìm kiếm kiến thức mà còn cả thú tiêu khiển, có lẽ thậm chí là lối thoát, trong những nghiên cứu của mình.
Cả hai người đều đang trốn chạy, mỗi người một kiểu riêng, khỏi những khía cạnh chỉ có thể được xếp vào hạng không bình thường trong bản chất của chính họ. Gabriel thầm nghĩ. Chàng ngờ rằng dù họ đang lùng sục điều gì thì cả hai cũng sẽ chẳng thể tìm thấy nó ở trong phòng luyện kim hay trong thư viện.
Caleb săm soi một trong những quyển sách cổ. “Chúng ta cần được trợ giúp mới có thể chuyển những cổ vật này đi được.”
“Ta có thể thuê người trong làng,” Gabriel đáp.
Một cách máy móc, chàng bắt đầu vạch ra kế hoạch hành động để đóng kiện và chuyên chở mọi thứ đồ trong phòng luyện kim kiêm lăng mộ của nhà giả kim. Phác thảo kế hoạch hành động là việc chàng rất thạo. Không ít lần cha chàng từng bảo rằng khả năng hoạch định chiến lược của chàng có liên quan mật thiết đến năng lực tâm linh bất thường của chàng. Tuy nhiên, Gabriel lại thích nghĩ rằng khả năng đó của mình là sự biểu hiện của một phần bình thường trong chàng chứ chẳng phải siêu thường gì. Chàng khao khát muốn tin rằng mình thực sự là một người đàn ông hiện đại có lý trí logic, chứ không phải một thứ man di mọi rợ chưa kịp tiến hóa.
Gabriel gạt những suy nghĩ khó chịu ấy sang một bên để tập trung vào kế hoạch vận chuyển các cổ vật. Ngôi làng gần nhất cách đây cũng cả vài dặm. Ngôi làng bé xíu và chắc chắn tồn tại được qua bao thế kỷ nay nhờ vào việc chuyên chở hàng lậu. Đấy là một cộng đồng dân cư biết giữ bí mật, nhất là khi có dính dáng đến tiền. Hội Arcane thừa khả năng bỏ tiền ra mua lấy sự kín tiếng của cả ngôi làng này ấy chứ, Gabriel thầm nghĩ.
Khu vực hẻo lánh vùng duyên hải mà nhà giả kim đã chọn làm nơi đặt pháo đài luyện kim của ông ta cho đến tận ngày nay vẫn là một nơi hoang vắng. Hẳn hai trăm năm trước nơi đây còn hoang sơ và vắng lặng hơn nhiều, chàng tự nhủ. Phòng luyện kim kiêm lăng mộ này được xây cất ẩn mình trong lòng đất bên dưới những tàn tích của một tòa lâu đài cổ xưa đổ nát.
Mới lúc nãy khi chàng và Caleb rốt cuộc cũng mở được cửa vào phòng luyện kim thì một làn gió xú uế mang mùi tử khí đã ùa ra đón hai người. Cơn gió này khiến cả hai phải thối lui ra sau mà há hốc miệng ho sặc sụa.
Ngầm cùng nhau thỏa thuận, cả hai quyết định chờ cho đến khi không khí trong gian phòng được cơn gió hanh khô từ đại dương thổi vào làm thoáng đãng hơn rồi mới bước vào.
Vào được bên trong, họ phát hiện ra một căn phòng sắp xếp bàn ghế theo kiểu phòng nghiên cứu hàn lâm. Những bộ sách cổ bọc bìa da, gáy sách đã nứt nẻ sờn mòn, được sắp dọc dài trên kệ sách. Hai cây chân nến sẵn sàng đứng đó, chỉ đợi được găm nến vào và châm ngọn.
Các dụng cụ hai trăm năm tuổi đã được nhà giả kim sử dụng để theo đuổi các thí nghiệm của mình nằm ngăn nắp trên chiếc bàn thao tác dài. Những bình đựng bằng thủy tinh bị bụi bám ken dày. Các món đồ dùng bằng kim loại, mỏ đèn và ống thổi nghẹt cứng gỉ sét.
“Nếu trong này có thứ gì giá trị thì chắc chắn nó ở trong chiếc hòm kia thôi,” Caleb bảo. “Tôi không thấy chiếc chìa khóa nào cả. Chúng ta nên phá khóa ngay tại đây hay phải chờ cho đến khi ta mang nó trở lại trụ sở của Hội Arcane nhỉ?”
“Tốt hơn là chúng ta nên tìm hiểu xem mình đang xử lý thứ gì đây.” Gabriel đáp. Chàng ngồi thụp xuống bên cạnh chiếc hòm nặng nề để coi xét ổ khóa bằng sắt. “Nếu trong hòm này mà có cả một kho báu đầy vàng hay đá quý, thì nhất thiết ta phải bảo vệ những thứ bên trong cẩn trọng hơn trên chuyến trở vể.”
“Ta phải tìm dụng cụ để nạy mở nắp này ra.”
Gabriel nhìn sang bộ xương khô. Một vật bằng kim loại lấp ló dưới một bàn tay bọc trong găng.
Chàng với tay xuống cẩn thận nhấc những ngón tay bọc găng lên để lấy chìa khóa ra. Có tiếng răng rắc khe khẽ. Bàn tay tách lìa khỏi cổ tay. Gabriel thấy mình đang cầm một chiếc găng tay đầy những mảnh xương.
“Quỷ thật,” Caleb lẩm bẩm. “Đúng là lạnh cả sống lưng. Tôi cứ tưởng loại chuyện này chỉ xảy ra trong mấy cuốn tiểu thuyết giật gân thôi chứ.”
“Chỉ là một bộ xương thôi mà,” Gabriel vừa bảo vừa đặt chiếc găng tay cùng những thứ chết chóc trong ấy xuống chiếc giường cổ. “Một bộ xương hai trăm năm tuổi.”
“À, nhưng tình cờ đây lại là bộ xương của ngài Sylvester Jones, nhà giả kim, tổ tiên của dòng họ chúng ta đồng thời là người sáng lập nên Hội Arcane,” Caleb than. “Theo như đồn đại thì người đàn ông này vừa giảo hoạt vừa nguy hiểm. Biết đâu ông ta lại không muốn phòng luyện kim của mình bị phát hiện ra sau từng ấy năm.”
Gabriel lại thụp xuống bên cạnh chiếc hòm sắt. “Nếu coi trọng sự riêng tư của mình đến thế thì lẽ ra ông ta không nên để lại manh mối dẫn đến chỗ này trong hàng loạt thư từ viết trước khi chết chứ.”
Những bức thư ấy đã nằm mục ruỗng ra trong kho lưu trữ văn kiện của Hội cho đến khi chàng tìm thấy chúng mấy tháng trước và giải được những mã riêng của nhà giả kim.
Chàng tra thử chiếc chìa vào ổ khóa và biết ngay là sẽ chẳng có tác dụng gì.
“Gỉ sét quá rồi,” chàng thông báo. “Đem dụng cụ lại đây nào.”
Mười phút sau, cùng nhau hiệp sức, hai người họ đã cạy mở được hòm. Cái nắp chần chừ nâng lên. Tiếng bản lề kẽo kẹt rên rỉ. Nhưng chẳng có vụ nổ nào, chẳng có lửa phụt ra hay bất cứ điều ngạc nhiên đáng sợ nào khác.
Gabriel và Caleb nhìn vào trong hòm.
“Vậy là đi tong cái ý nghĩ tìm được một kho vàng bạc đá quý rồi nhé,” Caleb lên tiếng.
“Cũng may là chúng ta không tiến hành chuyến thám hiểm này với hy vọng tìm được kho báu,” Gabriel tán đồng.
Vật duy nhất chứa trong chiếc hòm sắt là một cuốn sổ ghi chép nho nhỏ bìa da.
Chàng nhặt cuốn sổ lên và hết sức thận trọng mở ra. “Có lẽ trong này sẽ chứa phương thuốc mà nhà giả kim đã ám chỉ trong các văn bản và thư từ của mình. Hẳn là ông ta coi cuốn sổ này quan trọng hơn hẳn vàng bạc và đá quý.”
Những trang giấy ố vàng chi chít nét chữ viết tay ngay ngắn của nhà giả kim, tất cả đều bằng tiếng Latin khó hiểu.
Caleb rướn người tới trước để nhìn kỹ hơn mớ chữ cái, con số và ký hiệu dường như là vô nghĩa phủ đầy trên trang đầu tiên.
“Lại được viết bằng một loại mã riêng chết tiệt khác của ông ta rồi,” Caleb vừa nói vừa lắc đầu.
Gabriel lật qua một trang, “Tình yêu dành cho điều bí ẩn và các mật mã là một truyền thống mà những thành viên của Hội Arcane đã hăng hái duy trì trong suốt hai thế kỷ qua.”
“Cả đời này tôi chưa từng gặp đám người nào lập dị như những thành viên của Hội Arcane, vừa mê muội vừa thích sống ẩn dật.”
Gabriel cẩn thận gấp sổ lại và nhìn vào mắt Caleb, “Có những người sẽ bảo rằng cậu và tôi cũng lập dị không kém nếu không muốn nói là kỳ quặc hơn bất cứ người nào trong Hội đấy.”
“Lập dị chắc chắn không phải là từ chính xác để mô tả chúng ta đâu.” Quai hàm Caleb nghiến lại. “Nhưng rồi tôi sẽ chóng tìm ra từ nào đó thích hợp hơn thôi mà.”
Gabriel không bàn cãi gì. Thời trẻ họ từng say sưa với thói lập dị của chính mình, coi tính nhạy cảm cá biệt của mình là điều rất đỗi bình thường. Nhưng sự trưởng thành và chín chắn đã khiến họ có cái nhìn khác, thận trọng hơn nhiều.
Giờ đây, còn khó sống hơn, Gabriel thầm nghĩ, chàng thấy mình lại phải đối phó với một người cha có suy nghĩ cấp tiến đang ngày càng nhiệt tình ủng hộ cho các học thuyết của Darwin. Ông Hippolyte Jones dứt khoát muốn người thừa kế của mình kết hôn càng nhanh càng tốt. Gabriel biết chắc cha mình đang âm thầm muốn khám phá xem liệu khả năng siêu linh bất thường mà con trai ông đang sở hữu có mang tính di truyền hay không.
Còn lâu chàng mới để cho mình bị ép phải dự phần vào công cuộc thí nghiệm của phép tiến hóa, Gabriel thầm nghĩ. Nói đến việc tìm vợ thì chàng thích tự mình tiến hành cuộc săn hơn.
Chàng nhìn sang Caleb. “Có khi nào cậu thấy rằng chúng ta là thành viên của một hội rặt những kẻ lập dị sống ẩn dật thích giấu giếm và luôn bị ám ảnh bởi những điều bí ẩn và lạ kỳ không?”
“Nào phải lỗi của chúng ta cơ chứ,” Caleb thốt lên, khom người xuống săm soi một trong những dụng cụ xưa cổ đặt trên bàn thao tác. “Khi chúng ta chấp nhận vào hội, ấy là chúng ta chỉ thực hiện nghĩa vụ làm con mà thôi. Anh cũng như tôi đều biết rõ, mấy ông già của chúng ta hẳn sẽ rất phẫn nộ nếu chúng ta không chịu tham gia cái hội quý báu của hai ông ấy. Vả lại, anh thì có gì mà phải phàn nàn cơ chứ. Chính anh đã thuyết phục tôi đồng ý tham gia từ đầu đến cuối cái nghi lễ quỷ quái ấy cơ mà.”
Gabriel liếc xuống chiếc nhẫn mã não màu vàng đen trên tay phải mình. Mặt nhẫn được khắc nổi ký hiệu của lửa trong thuật giả kim.
“Tôi biết rõ lắm chứ,” chàng bảo.
Caleb thở hắt ra. “Tôi nhận thấy hồi ấy anh đã phải chịu áp lực rất lớn phải gia nhập hội.”
“Phải.” Gabriel đậy nắp hòm nặng nề lại và nghiên cứu những con chữ bí ẩn được khắc chìm vào trong lớp vàng. “Hiển nhiên tôi hy vọng đây không phải là một câu trù yếm nào của thuật giả kim. Kẻ nào to gan mở chiếc hòm này ra sẽ phải hứng lấy một cái chết kinh hoàng ngay khi mặt trời ló dạng, hay là đại loại thế.”
“Chắc chắn đây là một lời nguyền hay cảnh báo gì đấy rồi.” Caleb nhún vai. “Những nhà giả kim thời xưa nổi tiếng về những chuyện này lắm. Nhưng anh và tôi là con người thời hiện đại, phải không nào? Chúng ta đâu có tin vào những điều nhảm nhí như thế.”
NGƯỜI ĐẦU TIÊN BỎ MẠNG chỉ ba ngày sau đó.
Tên hắn là Riggs. Hắn là một trong những người làng mà Gabriel và Caleb đã mướn để thu gom cổ vật trong khu mộ của nhà giả kim và bảo đảm cho những kiện hàng được an toàn chất lên toa xe vận chuyển.
Xác chết được phát hiện trong một con hẻm cũ gần bến tàu. Riggs bị đâm hai nhát. Nhát đầu tiên xuyên qua ngực. Nhát thứ hai cứa đứt cổ. Một lượng máu lớn đọng thành vũng khô quánh lại trên mặt đá cũ. Hắn ta bị giết chết bằng chính con dao của mình. Con dao nằm bên cạnh xác, lưỡi dao đọng vệt máu khô đen.
“Theo tôi biết, Riggs là kẻ không gia đình chỉ thích nhậu nhẹt, chơi gái và mắc mớ vào những cuộc ẩu đả trong quán rượu,” Caleb thông báo. “Theo lời dân địa phương thì Riggs chẳng chóng thì chấy rồi sẽ gặp kết cục đen đủi mà thôi. Người ta cho là rốt cuộc hắn đã vướng vào một trận ẩu đả mà đối thủ của hắn hoặc nhanh nhẹn hoặc là may mắn hơn.”
Anh nhìn sang Gabriel; vẫn đang chờ đợi mà chẳng nói năng gì.
Chấp nhận chuyện có muốn tránh cũng không được, Gabriel ngồi xổm xuống bên cạnh xác chết. Chàng ngần ngại nắm đằng chuôi nhặt con dao lên, tập trung chú ý vào món hung khí giết người và chuẩn bị tinh thần đón nhận cơn chấn động từ nhận thức lạnh băng mà chàng biết rõ hẳn đang đón chờ mình.
Trên chuôi dao vẫn còn sót lại luồng năng lượng mạnh mẽ. Dù gì thì vụ sát hại mới chỉ xảy ra cách đấy vài giờ. Những cảm giác bạo liệt vẫn còn bám lấy lưỡi dao, đủ mạnh để khơi nguồn cho một luồng chấn động đen tối tận thẳm sâu trong chàng.
Mọi giác quan của chàng nhạy bén hẳn ra. Như thể chàng đột nhiên trở nên cảnh giác hơn theo một kiểu siêu hình mơ hồ nào đó. Phần đáng ngại là khát khao săn mồi mãnh liệt đã làm máu chàng sôi sục.
Gabriel vội thả tay ra, con dao rơi loảng xoảng xuống nền đá, chàng đứng dậy.
Caleb chăm chú quan sát chàng. “Sao hả?”
“Riggs không phải bị giết bởi một kẻ xa lạ đang trong cơn nóng giận hay hoảng loạn đột ngột,” Gabriel bảo. Chàng lơ đễnh co bàn tay vừa nắm lấy con dao lại thành nắm đấm. Đây là một cử chỉ vô thức, một cố gắng vô ích để trút bỏ dấu vết tội ác còn vương lại lẫn thôi thúc săn lùng đang vây lấy chàng. “Kẻ gặp hắn trong con hẻm này, dù là ai, đã đến đây với ý định dứt khoát là phải giết hắn. Đúng là máu lạnh.”
“Có lẽ là một anh chồng bị cắm sừng hay một kẻ thù xa xưa nào đấy.”
“Chắc đây là lời giải thích khả dĩ nhất.” Gabriel đồng ý. Nhưng chàng có thể cảm thấy được những mũi châm nhận thức đang làm cho tóc gáy mình dựng đứng cả lên. Cái chết này không phải là một sự kiện lẻ loi. “Căn cứ vào tiếng tăm của Riggs, chắc chắn chính quyền địa phương sẽ kết luận là vậy. Tuy nhiên, tôi lại nghĩ chúng ta nên kiểm qua ruột các kiện hàng.”
Caleb nhướng mày. “Anh tin là có lẽ Riggs đã đánh cắp một trong những món đồ khảo cổ và cố bán nó cho kẻ đã sát hại hắn sao?”
“Chắc là vậy.”
“Tôi cứ tưởng chúng ta đã đồng ý rằng trong phòng luyện kim của nhà giả kim ấy chẳng có thứ gì đáng tiền lắm, nói gì đến đáng một mạng người chứ.”
“Thôi ta hãy đi báo cho các nhà chức trách rồi mở xem các kiện hàng nào.” Gabriel lặng lẽ bảo.
Chàng quay mình vội vã rảo bước về phía đầu hẻm, lòng những muốn hết sức gia tăng khoảng cách giữa mình và nơi mang dấu vết bạo lực kia. Lòng khát khao được săn lùng vẫn nằm trong tầm kiểm soát nhưng chàng đã có thể cảm nhận được nó đang thì thào nham hiểm, hối thúc chàng mở lòng đón nhận mặt tính cách kia của chàng, cái phần mà chàng e sợ rằng chẳng có chút nào văn minh hiện đại cả.
PHẢI MẤT MỘT HỒI LU để kiểm kê hết các cổ vật đã được gói ghém cẩn thận và chuẩn bị được chuyển đi dựa vào danh sách những cổ tác mà Gabriel và Caleb lập ra. Rốt cuộc chỉ thiếu mất một món.
“Hắn ta đã cuỗm cuốn sổ chết tiệt ấy rồi,” Caleb ghê tởm buột miệng.
“Giải trình việc thất thoát này cho hai ông bố của chúng ta chẳng dễ chịu chút nào đâu, chứ đừng nói gì đến việc giải trình cho Hội đồng Trị sự.”
Gabriel đăm chiêu nhìn chiếc hòm rỗng không. “Chúng ta đã tạo điều kiện dễ dàng hơn cho hắn vì chúng ta cạy mở nắp hòm lên sẵn rồi. Hắn chẳng phải nhọc công gì để thó được cuốn sổ. Nhưng kẻ nào lại muốn có được cuốn sổ ấy kia chứ? Chẳng qua đấy chỉ là một cố bút uyên thâm thú vị chép đầy những lời lan man ngơ ngẩn của một tay giả kim già nua điên loạn thôi mà. Vật ấy chỉ mang ý nghĩa lịch sử đối với những thành viên của Hội Arcane mà thôi, mà có là thế cũng chỉ vì Sylvester là người sáng lập ra Hội.”
Caleb lắc đầu. “Dường như vẫn còn có kẻ tin rằng phương thuốc ấy sẽ có tác dụng thật. Kẻ sẵn lòng ra tay giết người để đoạt cho được phương thuốc ấy.”
“À, có một điều quá rõ rồi đây. Chúng ta vừa mới chứng kiến sự khởi đầu của một phần bổ sung mới mẻ vào những huyền thoại của Hội Arcane.”
Caleb cau mày. “Lời nguyền của Sylvester – nhà giả kim chăng?”
“Nghe cũng kêu đấy chứ.”
Hai tháng sau…
CHÀNG LÀ NGƯỜI ĐÀN ÔNG mà nàng đã chờ đợi bao lâu nay, một người tình mang sứ mạng hủy hoại đời nàng. Nhưng trước hết nàng muốn chụp ảnh chàng đã.
“Không,” Gabriel Jones đáp. Chàng băng qua căn phòng đọc sách được bài trí phong phú, cầm lấy bình rượu mạnh rót kha khá vào hai ly. “Ta có mời cô đến trụ sở Hội Arcane để chụp ảnh ta đâu, thưa cô Milton. Ta thuê cô đến để chụp ảnh bộ sưu tập những cổ vật và tạo tác của Hội thôi mà. Chắc cô thấy ta có vẻ lẩm cẩm rồi, nhưng ta thì vẫn muốn nghĩ rằng mình chưa thật sẵn sàng để được xếp vào hàng đồ cổ đâu nhé.”
Gabriel nào phải là một món đồ cổ, Venetia thầm nghĩ. Thật ra, từ chàng nàng cảm nhận được sức mạnh và sự tự tin của một người đàn ông đương thì sung mãn. Diện mạo của chàng từng chút từng chút đều toát lên vẻ thanh xuân đủ khiến nàng như thiêu thân lao đầu vào ngọn lửa rần rật bao đam mê cấm kỵ.
Nàng đã mất quá đủ thời gian chờ đợi để tìm cho ra người đàn ông thích hợp với nhiệm vụ ấy rồi, Venetia tự nhủ. Theo những chuẩn mực của xã hội thượng lưu thì nàng đã quá tuổi mà một quý cô còn có thể mong được kết hôn. Rồi từ khi bố mẹ mất trong một vụ lật tàu một năm trước những nghĩa vụ dồn dập đã niêm kín số phận của nàng. Chẳng có được bao nhiêu quý ông khả kính chịu cưới một phụ nữ sắp đến tuổi băm, lại là người chu cấp duy nhất cho hai đứa em ruột và một bà dì chưa chồng. Vả lại, những hành vi của cha nàng còn làm cho nàng thêm vô cùng nghi ngại bản chất của hôn nhân.
Nhưng nàng không muốn sống nốt phần đời còn lại mà không được biết đến niềm đam mê thể xác thuần túy. Một cô gái trong tình cảnh của nàng ấy mà, Venetia thầm nhủ, có quyền được tự tay sắp đặt niềm sướng khoái cho mình.
Kế hoạch quyến rũ Gabriel là một thách thức lớn lao vì nàng không có kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực này. Ừ thì, mấy năm qua cũng có đôi ba lần tán tỉnh à ơi đây đó nhưng chẳng lần nào thu được kết quả gì to tát hơn vài cái hôn tập sự.
Sự thật là, Venetia chưa bao giờ gặp được người đàn ông đáng để nàng đánh liều dấn thân vào một chuyến phiêu lưu tình ái. Sau cái chết của bố mẹ nàng, nhu cầu tránh xa những bê bối tai hại đã trở nên khẩn thiết. Việc đảm bảo tài chính cho cả gia đình phụ thuộc hoàn toàn vào sự nghiệp nhiếp ảnh gia của nàng. Nàng không được phép gây ra điều gì có nguy cơ gây tổn hại cho sự nghiệp ấy.
Nhưng thời khắc kỳ diệu tại trụ sở Hội Arcane quả nhiên là cơ hội từ trên trời rơi xuống; là một món quà mà nàng chưa khi nào nàng mong được nhận.
Món quà ấy xuất hiện theo cách trần tục nhất, Venetia nhớ lại. Một thành viên của Hội Arcane bí ẩn đã bắt gặp những tác phẩm nhiếp ảnh của nàng ở thị trấn Bath và đã tiến cử nàng cho Hội đồng Trị sự của Hội. Hình như, Hội đồng trước đấy đã muốn tìm người chụp ảnh lưu trữ các hiện vật trong bảo tàng của họ.
Công việc sinh lời này đã mang đến cho nàng một cơ hội vô tiền khoáng hậu để hiện thực hóa những ước mơ ái tình thầm kín nhất của mình.
“Tôi sẽ không tính thêm tiền chụp chân dung cho ngài đâu,” Venetia vội đáp. “Món tiền trả trước đã bao gồm mọi chi phí rồi mà.”
Và còn là một khoản hời nữa chứ, nàng thầm nghĩ, cố gắng không để lộ vẻ hài lòng. Nàng vẫn còn choáng váng với món tiền hậu hĩ đến khó tin mà Hội Arcane đã thanh toán trước vào tài khoản ngân hàng của nàng. Nói trắng ra, vận may bất ngờ ấy sẽ thay đổi cả tương lai của nàng lẫn gia đình nhỏ bé của nàng. Nhưng nàng không cho rằng giải thích điều này cho Gabriel biết lại là việc khôn ngoan.
Trong chuyên môn của nàng hình ảnh là tất cả, dì Beatrice luôn không hề do dự mà nói rõ ra như vậy. Nàng phải tạo ấn tượng cho khách hàng của mình rằng tác phẩm của nàng xứng đáng với từng đồng trong mớ tiền khổng lồ họ đã trả.
Gabriel nở nụ cười lạnh lùng bí hiểm của riêng mình và trao cho nàng một trong hai ly rượu. Khẽ chạm phải những ngón tay chàng, một thoáng rạo rực râm ran lan dọc từng sợi thần kinh của Venetia. Mà đây không phải là lần đầu tiên nàng đón nhận được cảm giác ấy.
Venetia chưa từng gặp gỡ người đàn ông nào giống Gabriel Jones. Chàng mang đôi mắt của một thầy phù thủy xưa. Đôi mắt chất chứa bao điều bí mật thẳm sâu không tài nào dò thấu. Ánh lửa bập bùng trong lò sưởi bằng đá to tướng tỏa một lớp sáng vàng kim lên những bề mặt và góc cạnh của một khuôn mặt đã được những nguồn lực, mãnh liệt khắc tạo nên. Chàng bước đi với dáng vẻ uyển chuyển nguy hiểm của một dã thú săn mồi, và chàng trông hết sức nam tính lẫn lịch thiệp trong bộ quần áo dạ tiệc trắng đen được cắt may khéo léo.
Nói tóm lại, Venetia thầm nghĩ, chàng thật hoàn hảo cho những gì nàng đang dự tính.
“Chi phí không phải là vấn đề, thưa cô Milton, mà ta chắc rằng cô cũng đã biết rõ thế rồi,” chàng bảo.
Cả thẹn, nàng nuốt vội một ngụm brandy và lòng thầm cầu mong nền ánh sáng lấp lửng bóng tối kia sẽ che giấu khuôn mặt đỏ bừng của mình. Tất nhiên chi phí không phải là vấn đề rồi, nàng bực bội nghĩ. Căn cứ vào cách bày biện nội thất quanh nàng đây, thì Hội Arcane rõ ràng tồn tại nhờ vào một gia tài kha khá.
Sáu ngày trước nàng đã đến với một đống đá lổn nhổn được gọi là trụ sở Hội Arcane này, trong một cỗ xe tân thời, êm ái do Gabriel phái đến đón nàng tại trạm tàu hỏa trong làng.
Tay xà ích lực lưỡng thuộc kiểu người kém thân thiện, sau khi xác định danh tính của nàng rồi thì chẳng nói thêm gì. Anh ta nhấc hòm đựng quần áo rồi cả hòm đựng các tấm kính ảnh khô, chân máy ảnh lẫn hóa chất rửa ảnh thật dễ dàng như những chiếc hòm ấy chỉ chứa toàn lông vũ. Còn nàng nhất quyết muốn tự mình mang lấy máy ảnh.
Chuyến đi từ nhà ga kéo dài gần hai tiếng đồng hồ. Trời đêm buông xuống và Venetia bắt đầu thấy lo khi nhận ra mình đang bị dẫn đi mỗi lúc một sâu hơn vào chốn hoang vu, gần như chẳng có ai sinh sống.
Cho đến lúc tay xà ích lầm lì đánh xe đến trước một dinh thự cũ kỹ được xây dựng trên tàn tích một tu viện còn xa xưa hơn nữa, thì Venetia chỉ còn đủ sức che đậy cảm giác bồn chồn đang cuộn lên trong nàng. Thậm chí nàng đã bắt đầu thắc mắc liệu mình có phạm phải một sai lầm nghiêm trọng khi nhận lấy cái công việc được trả hậu hĩnh quá đáng này không nữa.
Mọi sự sắp xếp đã được tiến hành qua thư từ. Amelia, em gái nàng, đang đảm nhận vai trò trợ tá của nàng, đã lên kế hoạch sẽ theo tháp tùng nàng. Nhưng vào đúng phút cuối Amelia lại bị cảm nặng. Dì Beatrice đã rất lo cho nàng phải một mình đi làm việc nhưng cuối cùng thì nhu cầu tài chính cũng thắng thế. Khi món tiền kếch xù kia đã được bỏ vào nhà băng rồi thì Venetia chẳng bao giờ cân nhắc đến chuyện từ chối dự án này.
Địa điểm biệt lập của trụ sở Hội Arcane khiến nàng nghi ngại sâu sắc nhưng lần gặp mặt đầu tiên với Gabriel Jones đã dập tắt mọi nỗi lăn tăn trong lòng nàng.
Vào đêm đầu tiên được người quản gia gần như câm lặng dẫn đến gặp chàng, Venetia hầu như bị một luồng nhận thức kinh ngạc làm cho choáng ngợp. Cảm xúc ấy mãnh liệt đến nỗi khiến cho tất thảy các giác quan của nàng dựng lên kích động, bao gồm cả loại tơ tưởng hết sức đặc biệt mà nàng luôn giữ bí mật không cho ai biết ngoài những thành viên trong gia đình mình.
Chính lúc ấy cảm hứng cho kế hoạch quyến rũ vĩ đại của nàng lóe lên.
Đây là một người đàn ông thích hợp, một không gian và thời điểm thích hợp. Sau khi rời khỏi trụ sở Hội Arcane rồi thì sẽ rất hiếm có khả năng nàng gặp lại Gabriel Jones. Thậm chí trong tương lai nếu họ có run rủi chạm trán nhau, nàng vẫn có cảm giác chàng sẽ rất hào hiệp giữ kín bí mật cho nàng. Nàng nghi là chính chàng cũng có đôi ba bí mật của riêng mình ấy chứ.
Gia đình, khách hàng và hàng xóm láng giềng của nàng ở Bath sẽ chẳng khi nào biết được chuyện gì đã diễn ra ở đây, Venetia thầm nghĩ. Khi ở trong trụ sở của Hội Arcane thì nàng được tự do thoát khỏi những lề thói nghiêm ngặt của xã hội thượng lưu theo một cách mà nàng sẽ chẳng khi nào được hưởng thêm lần nữa.
Cho mãi đến hôm nay nàng vẫn mạnh dạn ôm hy vọng rằng, bất kể là nàng có thiếu kinh nghiệm thực tiễn đấy, nhưng công cuộc quyến rũ Gabriel vẫn đang suôn sẻ. Từ những tia nhìn sục sôi thi thoảng nàng bất ngờ nhận thấy trong mắt chàng lẫn quầng năng lượng bao bọc lấy hai người khi họ cùng ở trong một căn phòng, nàng biết mình đã hấp dẫn chàng.
Mấy ngày qua họ đã cùng nhau dùng những bữa tối kéo dài thân mật hoặc đàm đạo vô số đề tài phấn khích bên lò sưởi. Họ lại cùng nhau dùng bữa điểm tâm được người quản gia kiệm lời dọn ra vào buổi sáng, rồi sau đấy bàn bạc cặn kẽ về các kế hoạch chụp ảnh trong ngày. Dường như Gabriel cũng thích thú được ở bên nàng như chính nàng vậy.
Duy chỉ có một vấn đề. Đây đã là đêm thứ sáu nàng ở lại trụ sở Hội Arcane này, ấy thế mà từ bấy đến nay Gabriel chưa một lần tỏ ra muốn ôm nàng trong tay, chứ đừng nói đến việc bồng nàng lên một trong những phòng ngủ trên lầu kia.
Phải, đã có những thoáng gần gũi ngắn ngủi nhưng lại kích thích đến khó tin: bàn tay mạnh mẽ ấm nóng của chàng đặt trên khuỷu tay nàng khi chàng dẫn nàng vào phòng; một lần lơ đễnh vuốt ve dường như không hề chủ ý; và một nụ cười gợi tình hứa hẹn nhiều điều hơn thế nữa.
Tất cả đều thật hàm ý, chắc chắn vậy, nhưng vẫn không phải là điều mà người ta có thể gọi là những biểu hiện rõ ràng cho thấy chàng khao khát nàng nhiều đến nỗi muốn ân ái cuồng nhiệt cùng nàng.
Venetia bắt đầu thấy lo rằng mình đã vụng về làm hỏng việc. Vài ngày nữa thôi là nàng sẽ rời khỏi trụ sở Hội Arcane vĩnh viễn. Nếu nàng không nhanh chóng hành động, những giấc mơ của nàng sẽ vẫn không được hóa thành hiện thực.
“Công việc của cô ở đây, đang tiến triển rất thuận lợi,” Gabriel lên tiếng. Chàng đi đến đứng trước dãy cửa sổ, trông ra ngoài trời đêm tràn ngập ánh trăng. “Cô có cho rằng mình sẽ hoàn tất đúng thời hạn không?”
“Chắc chắn là thế rồi,” nàng thừa nhận. Xui xẻo thay, nàng câm lặng thêm vào. Nếu có thể thì hẳn nàng đã vin vào đủ loại cớ để được nấn ná ở đây. “Với ánh mặt trời rực rỡ mà chúng ta có được trong những ngày qua thì tôi không gặp nhiều khó khăn với việc bố trí ánh sáng.”
“Ánh sáng luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhiếp ảnh gia, phải không nào?”
“Phải.”
“Người trong làng đồ rằng thời tiết này sẽ vẫn duy trì đấy.”
Lại thêm tin xấu nữa rồi, Venetia rầu rĩ. Thời tiết xấu là cái cớ duy nhất mà nàng có thể nghĩ ra để kéo dài thời gian ở lại đây.
“Thích thật,” nàng lịch sự đáp lời.
Thời gian đang cạn dần. Cảm giác tuyệt vọng bám lấy nàng. Có lẽ Gabriel cũng phần nào khao khát nàng, nhưng dường như chàng quá lịch thiệp nên không muốn manh động.
Các kế hoạch của nàng để có được ít nhất là một đêm đam mê ngoài luân cấm dường như đang bốc hơi ngay trước mắt. Nàng phải ra tay thôi.
Mạnh dạn, nàng uống cạn ly brandy. Chất rượu cay xé tận ruột gan nhưng ngọn lửa ấy cho nàng sự can đảm cần thiết để đứng dậy.
Venetia đặt ly sang bên bằng thái độ quả quyết đến nỗi chiếc ly vang lên đánh cách khi va vào mặt bàn.
Ngay bây giờ hoặc sẽ không bao giờ. Liệu chàng có thấy ghê tởm khi nàng cứ thế quăng mình vào trong vòng tay chàng chăng? Dám lắm chứ. Bất cứ người đàn ông tử tế đích thực nào cũng sẽ sững sờ choáng váng trước một hành vi không đứng đắn như thế. Ngay chính nàng nghĩ đến đấy còn thấy ghê tởm nữa là. Nhỡ chàng từ chối nàng thì sao nhỉ? Nỗi ê chề sẽ quá sức chịu đựng.
“Nhân nói đến thời tiết, trong này trở nên hơi quá ấm nhỉ?” Nàng lên tiếng, cố chỉnh giọng thật khẽ khàng. “Có lẽ tôi sẽ ra ngoài hưởng chút không khí trong lành trước khi lui về phòng. Ngài sẽ đi cùng chứ?”
Venetia tiến đến chân cánh cửa lắp kính dẫn ra ngoài hàng hiên bằng những bước chân mà nàng hy vọng là mang phong thái mời gọi, đầy nhục cảm hợp tình hợp cảnh.
“Tất nhiên rồi,” Gabriel đáp.
Tinh thần nàng phấn chấn hẳn lên. Có lẽ như thế này lại có kết quả đây.
Gabriel bước theo rồi mở cửa cho nàng. Nàng vừa bước chân ra đến hàng hiên đá thì một luồng khí đêm lạnh bất thần thổi bạt vào nàng. Niềm lạc quan của nàng đột ngột tiêu tan.
Vậy là đi tong cái mánh khóe hay hớm của mình rồi, nàng tự nhủ. Nhiệt độ căm căm thế này thì khó lòng khiến cho Gabriel thả mình vào trạng thái đam mê nóng bỏng được.
“Đáng lẽ tôi phải mang theo tấm chăn quấn chứ nhỉ,” nàng vừa bảo vừa khoanh hai tay vòng dưới ngực hòng giữ hơi ấm.
Gabriel gác một chân đi ủng lên bức tường đá thấp bao quanh hàng hiên rồi ngước mắt quan sát bầu trời cao.
“Thời tiết trong trẻo, hanh khô tối nay lại là một dấu hiệu nữa cho thấy đến mai chúng ta sẽ có một ngày tràn ngập ánh mặt trời, thật đấy,” chàng bảo.
“Tuyệt vời.”
Chàng liếc qua nàng. Dưới ánh trăng nàng có thể thấy được chàng đang mỉm cười bí hiểm.
Trời đất ạ, có phải là chàng đang thấy thích thú với nỗ lực quyến rũ quá kém cỏi của nàng đấy chăng? Thế còn đáng lo sợ hơn là việc chàng có thể từ chối nàng.
Venetia siết chặt hơn vòng tay đang ôm lấy cơ thể và tưởng tượng ra bức ảnh chân dung lẽ ra nàng đã có thể chụp được cho Gabriel nếu chàng cho nàng cơ hội. Bức ảnh chắc hẳn sẽ có những mảng tối bật lên gay gắt, nàng nghĩ, để phản ánh nguồn năng lượng thâm u không thể nhìn thấy được luôn toát ra từ con người chàng.
Biết thế nhưng nàng vẫn chưa thấy cảnh giác. Nàng biết rằng quầng tối siêu hình đang tỏa ra quanh Gabriel là bằng chứng cho ý chí mạnh mẽ và khả năng tự chủ của chàng. Đấy không phải là loại năng lượng đáng lo ngại tỏa ra từ một kẻ cuồng điên hung tàn. Thi thoảng nàng đã được nhác thấy những sắc màu đáng sợ, kỳ quái từ vài người làm mẫu cho nàng chụp chân dung. Những kinh nghiệm lạnh sống lưng ấy chưa khi nào không khiến nàng cảm thấy kinh hoàng khiếp sợ đến phát ốm.
Gabriel Jones lại là người rất, rất khác.
Venetia trầm tư suy nghĩ về đêm nay, về nỗ lực quyến rũ đã thất bại của mình. Đứng ngoài này run lập cập cũng chẳng gặt hái được gì cả. Thôi thì nàng cứ thừa nhận thất bại mà rút lui vào trong không gian ấm áp như thư phòng kia cho rồi.
“Cô đang lạnh kìa,” Gabriel lên tiếng. “Mạn phép nhé.”
Ngạc nhiên làm sao, chàng mở nút chiếc áo khoác tinh tế của mình và cởi áo ra bằng một động tác nhanh gọn uyển chuyển đầy nam tính. Venetia chưa kịp hiểu thêm gì thì chàng đã choàng tấm áo dày nặng quanh vai nàng.
Lớp lông cừu mịn vẫn còn vương lại sức nóng từ cơ thể chàng, khiến nàng ấm lên ngay lập tức.Nàng hít vào một hơi sâu để bắt lấy dư vị mùi hương của chàng.
Chớ suy diễn quá nhiều từ chút cử chỉ lịch sự này đấy nhé, nàng thầm nhủ. Chỉ là chàng đang tỏ ra ga lăng thôi mà.
Cho dù là thế, tình huống gần gũi này sao mà hân hoan quá đỗi. Nàng chỉ muốn bấu chặt lấy tấm áo khoác mà không bao giờ buông tay ra nữa.
“Cũng phải thưa với ngài rằng tôi thấy công việc chụp ảnh lần này khá thú vị,” nàng vừa nói vừa nép mình sâu hơn vào trong chiếc áo của chàng. “Cả từ góc độ nghệ thuật lẫn ích lợi mở mang kiến thức. Trước khi đến nơi này tôi chẳng hề biết đến sự tồn tại của Hội Arcane cơ đấy.”
“Theo chính sách chung thì các thành viên của Hội tránh xa bất cứ hình thức thu hút sự chú ý rộng rãi nào.”
“Ngài đã thể hiện điều này rất rõ ràng,” nàng đáp. “Tôi biết đây không phải là chuyện của mình, nhưng tôi không thể không thắc mắc vì sao Hội lại quá chú tâm đến việc duy trì bức màn bí mật đến thế?”
“Do truyền thống mà thôi,” Gabriel lại mỉm cười. “Hội này được thành lập hai trăm năm trước đây bởi một nhà giả kim bị ám ảnh với việc giữ bí mật. Trải qua bao nhiêu năm, những thành viên trong Hội đều duy trì một quan điểm như thế.”
“Vâng, nhưng bây giờ là thời đại tân kỳ. Ngày nay chẳng còn ai tin vào thuật giả kim nữa. Thậm chí từ cuối thế kỷ 17 thuật giả kim đã được xem là một loại hình ma thuật hắc ám chứ không phải là khoa học đúng nghĩa nữa rồi.”
“Trước đây các lằn ranh của khoa học vẫn luôn mơ hồ mà cô Milton. Ít nhất thì ranh giới giữa những điều đã biết hay chưa biết là cực kỳ mập mờ. Ngày nay, những người đang tìm hiểu các yếu tố mơ hồ gọi công việc của mình là các nghiên cứu về tâm linh hay siêu linh. Nhưng sự thật thì, bọn họ chỉ là những nhà giả kim trong thời hiện đại đang tiến bước dưới tên gọi mới mà thôi.”
“Hội Arcane cũng nghiên cứu cả về tâm linh nữa à?” nàng giật mình hỏi lại.
Trong một thoáng nàng nghĩ Gabriel sẽ không trả lời. Nhưng rồi gần như ngay sau đó, chàng khẽ nghiêng đầu.
“Đúng vậy,” chàng đáp.
Venetia cau mày. “Xin ngài thứ lỗi cho tôi, nhưng như thế thì, nỗi ám ảnh muốn giữ kín mọi điều dường như khá là kỳ quặc, quả vậy. Dù gì thì, nghiên cứu các vấn đề tâm linh là một ngành học hoàn toàn được đề cao trong thời đại này cơ mà. Này nhé, họ bảo rằng ở Luân Đôn đêm nào người ta cũng có thể tham gia một buổi cầu hồn. Rồi còn thêm một lượng lớn các chuyên san uyên thâm dành cho những cuộc khảo cứu tâm linh được phát hành hằng tháng nữa chứ.”
“Những thành viên Hội Arcane coi đa số những ai tự cho rằng mình sở hữu năng lực tâm linh là những kẻ gian manh, lừa đảo và bịp bợm.”
“Tôi hiểu rồi.”
“Những nhà khảo cứu và điều tra của Hội Arcane rất nghiêm túc với công việc của mình,” Gabriel nói thêm. “Họ không muốn bị đánh đồng với những kẻ mạo danh hay phường lừa đảo.”
Âm giọng của chàng cho thấy rõ ràng chàng cũng mang quan điểm rạch ròi ấy, Venetia thầm nhủ. Chắc chắn đây không phải là lúc để nàng thông báo rằng mình có thể nhìn được thần khí của con người.
Venetia quấn mép áo choàng của chàng thêm chặt quanh người và thu mình vào trong vòng riêng tư an toàn các bí mật của riêng nàng. Nàng chẳng hề muốn người tình trong mộng của mình phải mang ấn tượng rằng nàng là một kẻ gian manh hay lừa đảo. Thế nhưng, nàng không thể buộc mình bỏ qua cái đề tài ấy mà không phản đối chút ít.
“Theo quan điểm cá nhân,” nàng bảo, “thì tôi thích cởi mở sẵn sàng tiếp thu điều mới lạ hơn. Dĩ nhiên tôi không tin rằng tất cả những ai tự cho rằng mình có các giác quan siêu linh đều là những kẻ dối trá hay bịp bợm.”
Gabriel quay đầu lại nhìn nàng. “Cô hiểu lầm ý ta rồi cô Milton ạ. Người trong Hội luôn luôn sẵn lòng cho phép vài cá nhân được sở hữu trực giác và năng lực siêu linh đấy chứ. Chính nhờ khả năng ấy mà Hội Arcane vẫn còn tồn tại đến nay.”
“Nếu như trọng tâm của Hội là các vấn đề tâm linh, thì tại sao Hội lại sưu tầm các cổ vật khá là kỳ lạ trong bảo tàng tại trụ sở này vậy?”
“Tất cả các cổ vật trong bộ sưu tập này đều được cho là mang một tầm quan trọng siêu hình nào đó, dù đó là có thật hay là do tưởng tượng đi chăng nữa.” Gabriel nhún vai. “Mà ta nghĩ thật ra đa phần là do tưởng tượng thôi. Ngả nào cũng vậy, theo ý của Hội thì mỗi một di vật đều có ý nghĩa về khảo cứu hay về lịch sử.”
“Cũng phải thú thật với ngài rằng tôi thấy nhiều món cổ vật trong này trông quá khó nhìn, thậm chí theo cách nào đấy còn rất gớm ghiếc nữa.”
“Ôi tôi xin lỗi ngài, thưa ngài,” Venetia vội chữa. “Tôi không có ý xúc phạm đến sở thích của ngài hay của bất kỳ thành viên nào trong Hội đâu.”
Gabriel có vẻ thích thú. “Cô Milton, xin cô đừng sợ; ta không dễ tự ái đâu. Nói thế thì cô đúng là người phụ nữ rất am hiểu đấy. Những cổ vật tại trụ sở Hội Arcane này không được sưu tập theo quan điểm bảo tồn điều thanh cao hay mỹ thuật gì. Mỗi một món đều được mang đến đây cho mục đích nghiên cứu khoa học.”
“Tại sao Hội lại quyết định cho chụp ảnh lại bộ sưu tập thế?”
“Có rất nhiều hội viên trên khắp nước Anh và cả những vùng khác trên thế giới muốn được nghiên cứu các cổ vật nhưng lại không thể đi đến trụ sở Hội Arcane được. Ngài Hội trưởng chỉ thị cho thuê một nhiếp ảnh gia đến chụp lại những cổ vật để giúp cho những ai không thể đích thân đến xem xét vẫn có thể nghiên cứu qua ảnh được.”
“Thế Hội định phân phối cho hội viên những bức ảnh này dưới hình thức album sao?”
“Dự định thì đúng là như thế,” Gabriel đáp. “Nhưng Hội không muốn các bức ảnh ấy phát tán đến tay những kẻ tìm kiếm hiếu kỳ và quảng đại quần chúng. Bởi vậy, dựa theo các điều khoản trong hợp đồng của chúng ta, ta sẽ nắm giữ mọi bản phim âm bản. Làm thế để có thể kiểm soát sát sao số lượng các ảnh được phóng ra.”
“Ngài cũng biết là thỏa thuận giữa chúng ta thật bất thường hết mực. Trước khi nhận lấy công việc này, thường thì tôi luôn giữ lại mọi phim âm bản do tôi chụp.”
“Ta rất cảm kích khi thấy cô đành phải thay đổi thói quen điều hành công việc.” Mày chàng khẽ nhướng lên. “Nhưng ta tin rằng lần này Hội đã đền đáp xứng đáng cho sự thay đổi đó của cô đền đáp xứng đáng.”
Venetia đỏ ửng mặt. “Vâng.”
Gabriel hơi quay người sang phía bóng tối, nhấc chân khỏi bờ tường thấp. Cử chỉ thật hết sức bình thường này không hiểu sao đã thu hẹp khoảng cách giữa hai người, cảm giác gần gũi càng dâng cao khiến nhịp tim nàng dồn dập hơn.
Chàng vươn một tay ra khẽ nắm lấy ve chiếc áo choàng mà nàng đang vận. “Ta lấy làm vui vì cô đã được hài lòng với thỏa thuận tài chính của Hội.”
Nàng bỗng đứng đứng im phăng phắc, giật mình ý thức được những ngón tay mạnh mẽ của chàng thật trêu ngươi gần cổ mình. Đây dứt khoát không phải là một kiểu đụng chạm tình cờ gì cả, nàng thầm nghĩ.
“Tôi hy vọng ngài cũng được hài lòng như thế với công việc của tôi,” nàng bảo.
“Mấy ngày qua ta đã thấy rõ cô là một nhiếp ảnh gia xuất sắc đấy, thưa cô Milton. Những bức ảnh do cô chụp thật rõ nét và sắc sảo đến từng chi tiết.”
Nàng khó nhọc nuốt khan, cố tạo ấn tượng là một người phụ nữ dày dạn. “Ngài đã bảo rằng ngài muốn được nhìn được từng dòng từng câu khắc trên mỗi cổ vật đấy thôi.”
“Chi tiết và sự rõ nét là điều mấu chốt mà.”
Chàng tóm lấy cả hai bên ve áo khoác mà kéo nàng lại gần hơn. Nàng chẳng buồn bỏ sức chống cự. Đây là điều mình đã ao ước suốt mấy ngày mấy đêm vừa qua mà, Venetia tự nhắc mình. Nàng không được chùn bước trước thời cơ này.
“Tôi thấy công việc của mình ở nơi này thật là…kích thích,” nàng vừa thì thào vừa nhìn chăm chăm vào môi chàng.
“Vậy sao?”
“Ôi vâng.” Lúc này nàng chẳng thể nào thở được nữa.
Chàng kéo nàng vào sát hơn.
“Liệu ta có tự tin quá không khi kết luận rằng cô cũng thấy ta có chút thú vị nào đấy?” chàng hỏi. “Hay là ta đã nhìn nhận sai lệch về tình thế giữa hai chúng ta nhỉ?”
Cơn phấn khích cuộn lên trong nàng, còn chói lọi rực rỡ hơn cả ánh sáng của những dải bột ma giê mà nàng thỉnh thoảng dùng để chiếu sáng vật mẫu. Môi miệng nàng khô khốc.
“Tôi thấy ngài thật mê hoặc, ngài Jones ạ.”
Nàng tì người đến gần hơn, môi hé mở, mời gọi chàng hôn lấy mình.
Cuối cùng rồi chàng cũng đáp trả. Môi chàng choàng lên môi nàng, chậm rãi tìm kiếm. Nàng nghe thấy mình thốt lên âm thanh khe khẽ gấp gáp, và rồi, thật táo bạo, nàng quàng tay qua cổ chàng, bám lấy chàng như thể để mong thoát chết.
Chiếc áo khoác ấm áp đã tuột khỏi vai nhưng nàng nào để ý đến. Nàng chẳng cần đến tấm áo ấy nữa. Gabriel đang ôm chặt nàng trong vòng tay. Hơi nóng từ cơ thể chàng và luồng năng lượng vô hình từ thần khí chàng toát ra bao phủ lấy nàng.
Nụ hôn vượt quá bao niềm mơ mộng tơ tưởng hoang đường nhất của nàng. Gabriel có bao điều vẫn còn là bí ẩn đấy, nhưng nàng biết rốt cuộc thì nỗi lòng khao khát nàng của chàng là rất thật.
Kế hoạch quyến rũ của nàng đã thành công vang dội.
“Ta nghĩ là,” Gabriel ậm ừ trong cổ họng nàng, “đến lúc phải vào nhà rồi đấy.”
Chàng bế bổng nàng lên trong vòng tay như thể nàng vô trọng lượng rồi đưa nàng qua cánh cửa để mở dẫn vào trong khoảng không ấm áp gọi mời của thư phòng bập bùng lửa cháy.