Chiến Dịch Trái Tim

Chương 14



“CÓ MỘT LÝ DO khiến nghệ thuật nhiếp ảnh lâu nay vẫn được biết đến như là một trong những loại hình nghệ thuật hắc ám.” Venetia buông mình xuống chiếc ghế trước lò sưởi và chậm rãi tuột găng tay ra. “Đúng ra là những hai lý do.”

“Sử dụng xyanua là một trong hai lý do đó chăng?” Gabriel quẳng áo choàng qua góc bàn. Chàng không cởi bỏ áo khoác dạ tiệc mà chỉ nới lỏng nơ cổ và kéo cổ áo sơ mi hở ra.

Venetia trông rất bình tĩnh, nếu đem so với vụ việc gay go mà nàng vừa phải trải qua, nhưng chàng có thể nhìn thấy nỗi lo âu căng thẳng làm hai vai nàng cứng lại.

“Đúng vậy,” nàng đáp. “Bao nhiêu năm nay các tập san về nhiếp ảnh đã liên tục đả kích việc sử dụng kali xyanua làm chất điều chế.” Nàng đặt đôi găng tay da dê mềm màu đen, thật gọn gàng, thật chính xác xuống chiếc bàn nhỏ. “Mà có phải là đã có sẵn một phương pháp thay thế thật sự an toàn và chấp nhận được đâu cơ chứ.”

“Còn loại hóa chất nàng đã sử dụng tại trụ sở Hội Arcane thì sao? Ta tin rằng nàng đã gọi tên hóa chất ấy là hypo.”

“Natri hyposunfit. Chất này đã có mặt ngay từ những ngày đầu của ngành nhiếp ảnh nhưng lại luôn có những kẻ cứ khăng khăng cho rằng xyanua thích hợp với việc này hơn. Với lại, trước khi có mặt các loại tấm kính ảnh khô vài năm trước đây thì xyanua rất hữu dụng trong việc tẩy đi những vết đen dính trên thảm, trên tay hay trên bất cứ thứ gì khác do bạc nitratt nhểu xuống.”

“Vấn đề dính bẩn là lý do còn lại khiến nhiếp ảnh được biết đến như là một nghệ thuật hắn ám à?”

Venetia buồn rầu gật đầu. “Mãi cho đến gần đây người ta vẫn còn bảo rằng ta có thể nhận biết một người là nhiếp ảnh gia chỉ bằng cách nhìn vào các ngón tay của người ấy. Các ngón tay thường xuyên bị ám đen do sử dụng bạc nitrat để chuẩn bị tấm kính ảnh ướt colodion. Cho đến khi các loại tấm kính ảnh khô được tung ra thị trường thì tôi mới bắt đầu sự nghiệp, nên tôi không phải đương đầu với vấn đề ám bẩn do bạc nitrat.”

“Còn có những người thường xuyên sử dụng xyanua đấy chứ?”

“Thật không may là vẫn còn. Chất này vẫn còn là nguyên liệu chủ yếu trong các phòng tối. Chắc chắn không ai lấy làm lạ nếu thấy chất này có sẵn trong cơ sở của ông Farley tối hôm nay.”

Gabriel ngồi xổm xuống trước lò sưởi khơi lên một ngọn lửa nhỏ. “Ta từng để ý thấy thỉnh thoảng có những bài báo đưa tin về cái chết của các nhiếp ảnh gia do xyanua.”

“Không chỉ có nhiếp ảnh gia thôi đâu. Có rất nhiều nạn nhân là người sống trong nhà. Ví dụ như, một đứa bé tò mò uống phải, hay một cô hầu trẻ thối chí vì tình tàn. Đôi khi lại là con chó trong gia đình bị giết chết. Không có cách nào biết hết được đã có bao nhiêu người do vô tình hay cố ý phải bỏ mạng vì chất độc này.”

Gabriel đứng lên đi đến chiếc bàn đặt một bình brandy. “Người ta sẽ nghĩ rằng nếu Burton muốn tìm một lối thoát nhanh gọn thì hẳn hắn đã uống thẳng xyanua. Đằng này hắn lại uống thứ ấy pha với rượu mạnh.”

Venetia ngập ngừng. “Có lẽ người ta sẽ đoán rằng chắc hắn nghĩ pha vào như thế sẽ dễ nuốt hơn.”

“Đúng thật.” Gabriel thoáng nhớ lại vẻ dữ tợn đến ghê người của luồng sát khí vẫn còn bám vào tay nắm cửa bằng thủy tinh trên cánh cửa phòng tối của ông Farley. “Nhưng như đã nói lúc nãy, ta hoàn toàn đồng ý với kết luận của nàng về những sự kiện tối nay. Burton đã bị sát hại.”

“Hắn chỉ cần nuốt mỗi một ngụm thôi,” nàng lặng lẽ nói. “Một liều xyanua đậm đặc là xong ngay ấy mà.”

Gabriel cầm bình brandy lên rót ra hai ly. Rót xong, chàng trầm ngâm nhìn ly rượu trong giây lát.

“Suy nghĩ ấy đúng là làm ta phải chùn bước và thận trọng hơn, nhỉ?” chàng vừa hỏi vừa cầm hai ly rượu lên.

Nàng nhìn ly brandy mà chàng chìa ra cho mình. “Phải, đúng thế thật.”

Nàng mở tay ra đón nhận ly brandy từ chàng. Chàng có thể thấy những ngón tay nàng run rẩy rất khẽ.

Gabriel ngồi xuống chiếc ghế bành khác và uống một ít rượu trong ly. Venetia hít một hơi sâu, chun mũi nuốt chút rượu, vẻ hơi kiểu cách.

Chàng thấy vui vui. “Không cần phải sinh ra chứng ám ảnh sợ rượu ngon đấy chứ.”

“Trời ạ, không hề.”

“Đôi khi lại là thần dược đấy.”

“Hẳn là thế rồi.”

Hai người họ ngồi cùng nhau một lúc, trầm ngâm nhìn lò sưởi. Gabriel lắng nghe sự im lặng của ngôi nhà. Lúc này đã quá nửa đêm. Vừa nãy về đến nhà, chàng và Venetia thấy mọi người đã đi ngủ hết, kể cả bác Trench. Như thế lại càng hay. Đến sáng sẽ có đủ thời gian mà giải thích.

Chàng ngả đầu ra lưng ghế để nghĩ đến cuộc nói chuyện với cảnh sát.

“Ta có cảm giác rằng tay thanh tra cảnh sát có khuynh hướng tin vào giả thuyết Burton đã tự sát,” chàng lên tiếng.

“Chắc chắn đấy là lời lý giải đơn giản nhất rồi. Nhưng như thế thì không giải thích được ai là kẻ tôi đã trông thấy đi ra khỏi căn phòng ngay trước khi tôi phát hiện ra xác chết.”

“Không,” chàng bảo. “Không giải thích được thật.”

Viên thanh tra đã thẩm vấn Venetia rất cặn kẽ về bóng người mà nàng đã nhìn thấy nơi cầu thang, nhưng chỉ dựa vào mô tả thuần túy thì nàng chẳng thể cung cấp cho ông ta được điều gì hữu ích.

Còn về phần mình, Gabriel tự nhủ, làm sao chàng có thể bảo rằng mình đã cảm nhận được sát khí toát ra từ tay nắm cửa. Viên thanh tra hẳn sẽ cho rằng chàng bị điên. Vả lại, sử dụng cảm giác để nhận diện là vô ích. Những cảm giác ấy mãnh liệt thật đấy nhưng chúng có thể thuộc về bất kỳ ai từng đi vào trong căn phòng ấy với chủ ý sát nhân.

Chàng nhìn sang Venetia. “Nàng bảo tối nay nàng đi theo Burton ra khỏi phòng triển lãm và vì muốn đối mặt với hắn hỏi cho rõ chuyện những bức ảnh ghê gớm mà nàng tin là hắn đã gửi cho nàng ư?”

“Phải.”

“Có biết vì sao hắn lại làm chuyện như thế không?”

Venetia thở dài. “Tôi cho là vì hắn ghen tức thôi.”

“Hắn đố kỵ với thành công của nàng à?”

“Đấy là động cơ duy nhất mà tôi có thể nghĩ đến.” Nàng nhấp thêm chút brandy. “Burton là một tay bất mãn với đời. Tài năng nhiếp ảnh của hắn chưa khi nào được thừa nhận hay đánh giá cao. Đây là một ngành kinh doanh có tính cạnh tranh rất cao, ngài hiểu mà.”

“Tối nay đúng là ta có cảm tưởng như thế.”

“Khả năng chụp ảnh đẹp chỉ là một phần đòi hỏi để tạo dựng nên một tên tuổi thu hút khách hàng thời thượng. Giới thượng lưu thường thay đổi như chong chóng. Một nhiếp ảnh gia thành công phải tạo ra một phong cách nhất định và một cảm giác độc nhất vô nhị. Người ấy phải đem đến ấn tượng rằng mình thực sự không phải đang mua bán, dù thực ra là thế, mà đang cung cấp cho khách hàng của mình những ích lợi từ tư chất nghệ thuật của mình.”

“Ta mạnh dạn đoán thử nhé,” Gabriel bảo. “Burton đã không tạo được hình ảnh như thế.”

“Đúng vậy.”

“Hẳn phải có rất nhiều nhiếp ảnh gia thành công khác đang hành nghề tốt hơn hắn chứ. Tại sao hắn chỉ chăm chăm đố kỵ với mỗi mình nàng?”

“Tôi nghĩ vì tôi là phụ nữ,” nàng lẳng lặng đáp. “Trong tư tưởng hắn thì việc bị đàn ông qua mặt đã khổ sở rồi. Một phụ nữ mới chân ướt chân ráo vào nghề đã gặt hái được thành công ngay lập tức khiến hắn phẫn nộ. Hắn đã đối mặt với tôi một hai lần để tuyên bố thẳng thừng rằng nghề này không dành cho đàn bà.”

“Những bức ảnh khó chịu kia gửi tới đây khi nào thế?”

“Bức ảnh đầu tiên được bỏ lại trước cửa nhà tôi đầu tuần này. Bức thứ hai được gửi đến hai ngày sau đấy. Tôi nghi ngờ Burton ngay lập tức. Tôi biết hắn sẽ có mặt trong buổi triển lãm tối nay. Tôi định sẽ kiên quyết đòi hắn giải thích.” Nàng nhắm mắt lại xoa xoa thái dương. “Giờ thì, tôi chẳng còn biết phải nghĩ gì nữa. Rõ ràng hắn có dính dáng đến những phi vụ xấu xa nào đó với kẻ đã sát hại hắn.”

Gabriel duỗi chân về phía lò sưởi. “Nàng có ý niệm nào về kẻ muốn giết hắn không?”

Venetia mở bừng mắt ra nhăn nhó. “Ý ngài là, ngoài tôi ra chứ gì? Không. Tôi chỉ có thể nói được cho ngài rằng Burton không phải là người được quý mến cho lắm. Hắn là một tên thâm hiểm, vô đạo đức, thường giao du với tầng lớp thấp kém hơn trong giới nhiếp ảnh. Hắn có một hiệu ảnh nhỏ ở khu vực xập xệ trong thành phố nhưng tôi không rõ hắn kiếm sống bằng cách nào, thú thật là thế.”

Gabriel đan tay bưng ly rượu. “Ta rất muốn được xem những tấm ảnh mà hắn đã gửi cho nàng.”

“Ở ngăn kéo dưới cùng bàn viết của tôi đấy. Để tôi lấy cho.”

Nàng đặt ly brandy qua bên, đứng dậy đi qua tấm thảm để đến bên bàn viết.

Gabriel quan sát nàng lấy một chiếc chìa khóa be bé từ chiếc xà tích xinh xắn đong đưa bên eo váy. Nàng dùng chìa này mở ngăn tủ lấy ra hai bức ảnh.

Lẳng lặng không nói một lời, nàng quay ngược trở lại, ngồi xuống đoạn trao cho chàng bức ảnh.

Trong vài giây chàng giữ bức ảnh úp ngược xuống, cảm lấy bức ảnh bằng cái phần trong mình có thể nhận thấu điều mà những giác quan khác không cảm được. Có loáng tháng hơi hớm tức giận và căm phẫn nhưng chàng hầu như biết chắc đấy là từ phía Venetia. Trong hơi hớm ấy toát ra cảm thức tự chủ.

Bên dưới những hơi hớm ấy là các vết tích thậm chí còn mờ nhạt hơn của một loại cảm xúc hung tợn khác, loại chỉ có thể được mô tả là cuồng nộ ám ảnh. Chàng hầu như biết chắc loại cảm xúc này được vương lại từ kẻ đã thu xếp cho bức ảnh được bỏ lại trước cửa nhà Venetia.

Chàng lật bức ảnh lên xem xét dưới ánh lửa.

“Đây là bức gửi đến đầu tiên à?” chàng hỏi.

“Vâng.”

Bức ảnh thoạt nhìn nhợt nhạt, nếu không muốn nói là hết sức bệnh hoạn. Quang cảnh ảm đạm, một đám tang đi đầu là chiếc xe tang màu đen được buộc vào đàn ngựa đen. Cỗ xe đứng trước cánh cổng sắt của nghĩa trang. Một dãy những đền đài, lăng mộ, bia đá u ám lẩn khuất bên kia những song sắt cao cao của hàng rào bao quanh bãi tha ma.

Chỉ đến khi nhìn thật kỹ vào bức ảnh thì người ta mới để ý thấy một cô gái vận chiếc váy đen hợp thời và đội chiếc mũ đen rộng vành đang đứng nép một bên khung cảnh.

Một cảm giác ớn lạnh quặn lên trong bụng Gabriel.

“Là nàng đấy ư?” chàng lặng lẽ hỏi.

“Phải. Nghĩa trang trong ảnh nằm cách con phố này một quãng ngắn. Ngày nào tôi chẳng đi ngang qua đấy để tới hiệu ảnh.” Nàng chìa tấm ảnh thứ hai ra.

Chàng đón lấy, một lần nữa thoáng ngưng lại để xem mình có thể phát giác được cảm xúc mãnh liệt nào không. Những tàn dư từ cơn tức giận và căm phẫn của Venetia lăn tăn gợn qua các giác quan của chàng, nhưng lần này còn có thêm điều gì đó khác nữa. Sợ.

Bên dưới tầng cảm xúc đó lại là cùng một nỗi ám ảnh bệnh hoạn đã bám lấy bức ảnh thứ nhất kia.

Chàng lật tấm ảnh lên. Lần này chàng trông thấy bức ảnh chụp một lăng mộ trang hoàng cầu kỳ. Trong vài giây chàng chẳng thể hiểu được ý nghĩa của cảnh này. Nhưng rồi chàng nhìn thấy tên người khắc trên bia mộ. Cơn ớn lạnh trong lòng chàng biến thành băng giá.

“Để tưởng nhớ Venetia Jones,” chàng đọc lớn.

Venetia nhăn mặt. “Một minh chứng tuyệt hảo cho thấy nó chỉ có thể được phóng tác bởi một kẻ cao tay trong nghệ thuật chỉnh sửa hình ảnh. Sau khi bức ảnh gửi đến đây, tôi và Amelia đã đến nghĩa trang xem thử lăng mộ ấy có nằm đó không.”

“Nàng tìm thấy chứ?”

“Có.” Nàng siết chặt các ngón tay vào nhau. “Tuy nhiên, tên được khắc vào bia là Robert Adamson.”

“Dù là gì đi nữa, tên Harold Burton này vẫn là một thằng con hoang khốn nạn.”

Venetia uống thêm chút brandy. “Đấy hẳn nhiên cũng là ý của tôi.”

Chàng nhìn qua bức ảnh thứ nhất lần nữa. “Bức này cũng được chỉnh sửa à?”

“Không. Hôm đấy tôi đã đứng trước nghĩa trang, đang trên đường về sau chuyến tản bộ đến công viên như thường lệ. Tình cờ tôi đi qua cổng nghĩa trang đúng lúc đoàn xe tang trờ tới.” Nàng ngập ngừng. “Tôi biết, nghe có vẻ như tôi quá hoang tưởng nhưng tôi luôn có cảm giác dạo gần đây Burton bám gót tôi khắp nơi.”

Gabriel đặt tấm ảnh xuống bàn cạnh ghế ngồi. “Nàng đoán chắc rằng mấy tấm ảnh này là do hắn chụp à?”

Venetia liếc qua ảnh. “Chắc chắn hết mức dù không có chứng cứ rõ rệt. Có điều gì đó trong phong cách lẫn bố cục ảnh. Burton thực ra là một thợ ảnh rất khéo tay. Tôi đã từng nhìn thấy vài tác phẩm của hắn. Hắn có tài năng nhất định về chụp ảnh kiến trúc. Bức ảnh thứ nhất, về đoàn xe tang ấy, rõ ràng là được chụp ngẫu hứng. Lẽ ra tôi đã không thể nhận ra hắn là người chụp nếu chỉ căn cứ vào mỗi bức ấy. Nhưng tấm ảnh thứ hai lại được chăm sóc kỹ lưỡng.”

Gabriel săm soi bức ảnh chụp hình bia mộ. “Ta hiểu ý nàng rồi. Góc chụp của hắn mới khéo làm sao.”

“Cả ánh sáng cũng rất ấn tượng và rất giống phong cách của hắn. Còn về dòng chữ khắc, à, Burton là người chỉnh sửa ảnh rất nghề.” Venetia lắc đầu. “Tôi nghĩ rằng với tấm ảnh thứ hai ấy, hắn đã cố khiến tôi vừa khâm phục vừa sợ hãi. Hắn muốn chứng tỏ cho tôi thấy hắn sử dụng máy ảnh điêu luyện hơn tôi nhiều.”

“Nàng bảo Burton lúc ấy đang theo dõi nàng à?”

“Vào ngày chụp bức ảnh về đoàn xe tang thì tôi không nhìn thấy hắn, nhưng tôi có để ý thấy hắn vài lần trong nhiều ngày liên tiếp. Dường như hắn lẩn khuất đâu đó quanh quẩn gần tôi.”

“Hãy tả lại những lần nàng trông thấy hắn xem nào.”

“Tôi có thấy hắn ít nhất là hai lần trong công viên không xa đây lắm. Hắn luôn giữ khoảng cách và vờ như không thấy tôi. Rồi, buổi sáng nọ, Amelia và tôi đi mua sắm trên phố Oxford. Tôi rõ ràng là đã nhác thấy Burton cũng ở đó nữa. Hắn đang thơ thẩn ngay lối vào của một cửa hiệu. Khi tôi cố tiến đến gần hắn để hỏi xem hắn đang làm gì thì hắn lẩn mất vào đám đông. Thoạt tiên tôi cứ nghĩ bao lần như thế đều là tình cờ thôi. Nhưng mấy ngày vừa qua tôi thề là mình bắt đầu cảm thấy như một con nai đang bị tay thợ săn rình rập.” Miệng nàng mím lại. “Mọi chuyện bắt đầu trở nên thật đáng lo, phải thú thật là thế.”

Và có lẽ lại thêm một động cơ giết người nữa dưới con mắt của Sở cảnh sát Scotland Yard đây, Gabriel thầm nghĩ.

“Nếu cảnh sát lại hỏi han về cái chết của Burton, chúng ta sẽ không nhắc đến chuyện có thể hắn đang theo dõi nàng đâu nhé,” chàng nói lớn. “Rõ chưa nào?”

Nàng trầm ngâm nhìn chàng. “Tôi hỏi một câu khí không phải nhé, ngài Jones?”

“Tất nhiên, còn tùy câu hỏi là gì.”

“Đúng là dường như có vài bằng chứng” – nàng ngưng lời giơ một ngón tay lên – “mà này, cũng không nhiều nhặn lắm đâu, chỉ là đôi ba điều nhỏ nhặt hình như đang chỉ ra rằng tôi là một nghi phạm tiềm năng trong tình huống này.”

“Ta có thấy thế.”

“Ngài biết là tôi đã biến đi nhiều phút trước khi ngài tìm thấy tôi bên xác Burton tối nay, quá đủ thời gian để rót một ly brandy rồi pha xyanua vào đó. Điều gì khiến ngài quả quyết rằng tôi đã không hạ sát hắn?”

Chàng suy nghĩ xem nên nói cho nàng biết đến chừng nào. Một hỗn hợp âm u gồm các dấu vết tâm linh mãnh liệt đã ám lên cánh cửa của phòng tối lẫn khoảng không gian bên trong. Chàng đã cảm nhận thấy sự ám ảnh, niềm phấn khích bệnh hoạn lẫn nỗi sợ hãi, tất cả quyện vào nhau trong một món hầm sôi sùng sục khó có thể tách rời từng thứ một. Chắc chắn Burton đã chạm ít nhất là một lần vào tay nắm cửa. Kẻ sát nhân cũng đã chạm vào. Venetia cũng thế. Cùng nhau, cả ba người họ đã để lại một món xúp cảm xúc ngổn ngang, hỗn độn.

Nhưng chàng biết chắc một điều: Venetia không phải là kẻ sát nhân. Chàng đã từng quá gần gũi nàng trong khoảng thời gian họ bên nhau tại trụ sở Hội, quá thân mật. Hẳn chàng đã biết được ngay nếu nàng có khả năng xuống tay độc ác, nhẫn tâm như thế.

“Nàng bảo với ta là có kẻ khác rời khỏi phòng trước khi nàng đến,” chàng đáp. “Ta tin nàng.”

“Cảm ơn. Tôi cảm kích lòng tín nhiệm của ngài. Nhưng cho phép tôi hỏi vì sao ngài đoan chắc là tôi đã nói ra sự thực cơ chứ?”

“Thôi thì hãy cứ nói rằng sau khoảng thời gian chúng ta bên nhau tại trụ sở Hội Arcane, ta nghĩ là ta đã biết nàng quá rõ để đặt niềm tin lớn lao vào lòng chính trực của nàng vậy.” Đây là lời hoàn toàn thực tâm.

“Tôi lấy làm vui mừng khi biết được mình đã gieo vào lòng ngài một ấn tượng đẹp đẽ về phẩm cách của mình như thế,” nàng đáp lại ráo hoảnh.

Nàng không tin mình, Gabriel ngộ ra. Được thôi, chàng biết nàng cũng đang che giấu bí mật mà.

“Thật vậy đấy, thưa phu nhân,” chàng bảo. “Trong khi đó ta chẳng khó khăn gì mà bám lấy lời khai chúng ta đã cung cấp cho cảnh sát về những sự việc tối nay, chắc chắn những lời ấy sẽ xuất hiện trên các tờ tin tức buổi sáng...”

“Các tờ tin tức. Tôi thậm chí còn chưa tính đến khía cạnh này của vấn đề đấy. Tay Otford của tờ Người đưa tin bay tối nay cũng có mặt tại buổi triển lãm. Không biết vụ này sẽ được khai thác thế nào trên mặt báo đây.”

“Để sau chúng ta hẵng tính đến chuyện ấy. Còn lúc này, ta lại quan tâm hơn nhiều đến việc tìm hiểu lý do vì sao tối nay nàng lại nói dối ta và cảnh sát rằng nàng không nhận ra người đàn ông mình nhìn thấy trên cầu thang ấy.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.