Từng giọt âm thanh nhỏ tí tách bên tai Trữ Kình Phong, công văn phức tạp chiếu vào mắt lại không xâu chuỗi nổi thành câu. Trữ Kình Phong không nhẫn nại nổi nữa, ném công văn trong tay, lạnh lùng nói với người trên nhuyễn tháp: “Đi ra ngoài.”
Khúc đồng dao ngọt ngào dừng lại, nàng luống cuống nằm trên giường, không biết làm sao cho phải.
Trữ Kình Phong sao không nhìn ra nàng bị giật mình, hít sâu một hơi, đang định gọi Tô Tú đứng ngoài cửa, thì nghe thấy âm thanh mềm ngọt mang theo nức nở: “Trữ ca ca vẫn đang tức giận sao, có phải mặt vẫn còn đau không, hay Nhược Ngu ngoan ngoãn cho ca hôn, đừng đuổi Nhược Ngu đi!”
Trữ Kình Phong mặt không đổi sắc nhìn thiếu nữ nằm trên nhuyễn tháp đang lã chã khóc, nghĩ: nếu nàng biết trong đầu mình đang diễn cảnh gì thì chắc sẽ bỏ trốn mất dạng.
Cô gái này vốn không thương hắn, chẳng qua trước kia nàng chọn không thèm để ý, mà bây giờ nữ thần bị đánh vào vực sâu không còn lựa chọn nào ngoài núp dưới cánh chim của ma thần là hắn. Giống như nàng từng nói “Nữ thần kia không phải rất đáng thương sao?”, cứ cho nguyên thần đã mất, nàng cũng chưa bao giờ muốn sống trong ngực hắn… Cái tát hôm nay của nàng, không phải đánh lên mặt hắn mà đánh vào tim hắn.
Hắn còn đang hờn dỗi, nhưng đối mặt với thiếu nữ chủ động làm hòa tâm lại mềm nhũn, chậm rãi đi tới trước mặt nàng, tiếng nói thanh nhã nhưng lạnh lẽo vang lên: “Không phải ta đáng ghét đến độ muốn đánh cho hả giận sao? Sao bây giờ lại tới cầu ta?”
Nhược Ngu lúc này thật tình hối hận đã nghe theo lời hai người bạn nhỏ của mình, nghĩ kỹ lại, những lần học thuộc thơ mình đều nhớ nhanh hơn hai người đó, có thể thấy hai bạn kia kém thông minh hơn so với mình, làm sao lại đi nghe theo ý kiến ngốc đó chứ?
Hai bạn nói Tư Mã không tôn trọng mình, thế nhưng, lúc Trữ ca ca hôn nàng thấy tê dại, ngột ngạt, thực ra rất thoải mái mà. Nếu trái lại lúc đó để ca ca hôn, hiện tại đã qua bữa tối, Trữ ca ca nếu rảnh còn có thể ôm mình vào lòng kể chuyện thần thoại.
Từ sau khi nghe được phu tử kể chuyện thần thoại, Nhược Ngu rất thích loại chuyện này cho nên mới vội vã lấy lòng hắn, mong muốn mọi chuyện quay lại được như lúc trước, tuy vậy cũng không thể bán đứng hai người bạn thân được, nên cúi đầu nói: “Là… Là thấy ca ca hay chiếm tiện nghi Nhược Ngu, không tôn trọng Nhược Ngu…”
Nhược Ngu vừa tới, các nàng liền vội hỏi: “Thế nào? Có nghiêm khắc cự tuyệt tên đó không?”
Nghe hai người bạn hỏi, Nhược Ngu nhớ tới lời Tô Tú dặn, ậm ờ gật đầu. Lúc này, hai người Tô Tiểu Hàn mới nhẹ nhõm hỏi tiếp: “Vậy hắn nói như thế nào?”
Nhớ tới Trữ ca ca, Nhược Ngu nhất thời có cảm giác như cha chết mẹ chết: “Hắn nói, sau này không bao giờ… Chiếm tiện nghi của ta nữa…” Nghĩ đến đây, tâm trạng rực rỡ của thiếu nữ bỗng u ám, nếu sau này ca ca mỗi ngày đều muốn mình chiếm tiện nghi thì sao đây? Cổ tay, môi đều ê ẩm, chả nhẽ sau này mình sẽ mệt đến chết?
Triệu Thanh Nhi cũng gật đầu: “Còn tuấn tú hơn Triệu ngũ lang trước phố nhà ta.”
Chu phu tử mỉm cười giới thiệu với mọi người: “Vị phu tử này là Mạnh tiên sinh, chủ yếu truyền thụ chế tạo cơ quan nhỏ, bất kể làm đèn kéo quân hay đồ chơi đều làm được.”
Vị Mạnh tiên sinh nghe Chu phu tử giới thiệu xong thì hừ một tiếng, tựa hồ với bất mãn với lời này của nàng. Học sinh nghe xong lại cực kỳ hưng phấn, cảm thấy lớp học cơ quan này thật tuyệt, mỗi người đều nóng lòng muốn học.
Mạnh tiên sinh có vẻ không thích nói chuyện, chỉ nhìn các nàng một cái, rồi lấy từ ống tay áo ra một con chuột bằng gỗ, kéo kéo xoay xoay sau đó thả nó xuống đất, con chuột kia như có sinh mệnh, chạy băng băng trên nền phòng học, làm cho một đám nữ sinh kinh ngạc kêu lên, cười không ngừng.
Mạnh tiên sinh nhặt con chuột lên, nhanh tay tháo nó ra, cất lại vào người, sau đó rũ mắt nói: “Trên bàn mỗi người đều có một túi linh kiện, giờ theo các bước lúc này lắp ráp lại đi.”
Ở đây đều là thiếu nữ nhỏ tuổi, tính còn trẻ con, nghe tiên sinh nói vậy đều hoan hỉ đổ linh kiện ra lắp thử. Đến khi buổi học chính thức bắt đầu, các nữ sinh mới lần đầu hiểu câu ‘Đừng trông mặt mà bắt hình dong’.
“Ngươi bị ngu sao? Một con chuột đơn giản như vậy cũng không biết lắp. Nhà ai đưa đám phế vật này lên lớp vậy?”
Một học sinh hơi mập đỏ mắt giơ lên con chuột bị thiếu một chân, khóc rống lên. Trong lớp yên lặng, đây đã là học sinh thứ năm bị Mạnh tiên sinh mắng khóc. Đám học sinh chưa bị mắng còn lại cũng rơm rớm nước mắt. Rốt cục tiên sinh từ đâu mời tới, đầy miệng đều là những câu làm tổn thương trái tim.
Tô Tiểu Hàn liên tiếp nhìn đồng hồ nước (*) ngoài phòng, mong mỏi buổi học nhanh kết thúc, đáng tiếc chư vị thần tiên không nghe thấy lời thỉnh cầu, phu tử đã nhanh chóng đi tới gần chỗ tỉ muội Nhược Vũ. Tô Tiểu Hàn nhướn cổ nhìn, thầm kêu ‘không tốt’. Không giống với mọi người chiếu theo chỉ dẫn của tiên sinh, lắp được hơn nửa con chuột, linh kiện trên bàn Nhược Vũ lại y nguyên không nhúc nhích.
(*) đồng hồ nước: Có rất nhiều kiểu đồng hồ nước, thường là một thiết bị đựng nước có lỗ nhỏ được đục để dòng nước chảy xuống thật đều, trên vật dụng đánh dấu khoảng cách để đo thời gian. Plato – nhà triết học Hy Lạp cổ đại cũng là người phát minh ra đồng hồ nước. Đồng hồ nước của Plato còn có thể báo thức. Đồng hồ nước cũng xuất hiện tại Trung Quốc từ thời nhà Ân. Sau đó có nhiều loại đồng hồ nước được cải tiến vào đời Hán (202 TCN) và kéo dài đến tận thời Tùy – Đường.
Đồng hồ nước đơn giản nhất gồm một bình hình trụ có chia độ nối với một ống nhỏ. Một bình chứa nước có chỗ thoát bớt, giữ cho nước chảy vào ống nhỏ với một lưu lượng nhất định. Sau khi bình hình trụ đã đầy, nước tự động chảy ra ngoài qua một ống hình chữ U nhờ nguyên tắc bình thông đáy. Người ta căn cứ vào mực nước dâng lên trong bình hình trụ để biết thời gian. Thí dụ mực nước lên tới vạch thứ 7 thì vào lúc đó, đồng hồ nước chỉ 7 giờ.
Các đồng hồ nước được cải tiến dần dần: một chiếc phao nổi trên mặt nước mang thanh gỗ có gắn một kim chỉ thị và kim này di chuyển trước một bảng có ghi thời giờ. Về sau trục của phao nổi lại được mắc vào một bánh xe răng cưa làm chuyển động kim chỉ thị trước một mặt có chia độ.