Tâm tính Tân vương Dư Trạm không phải ngu dốt, chỉ là suy cho cùng vẫn còn nhỏ tuổi, 12 tuổi vẫn là độ tuổi ham chơi. Mắt thấy nước láng giềng ngày càng cường thịnh, Chung Dật cùng các quần thần khác đều gấp trong lòng, nhưng không cách nào truyền đạt phần khẩn thiết này với Tân vương 12 tuổi.
Chung Dật chiêng trống rùm beng giảng dạy cho Tân vương, lão thừa tướng và Nhiếp đại nhân cũng tận tâm phụ tá, giúp đỡ triều đình vững chắc. Nhưng thời gian không chờ người, Tề quốc càng không chờ người. Tân vương kế vị đến năm thứ ba, Tề quốc lợi dụng lúc người gặp khó cử 20 vạn tinh binh qua xâm lược, thanh thế hùng vĩ, thế như chẻ tre. Chỉ trong 3 tháng ngắn ngủi đã san bằng biên cảnh, càn quét quốc thổ, vào thẳng Đô thành.
Ngô tướng quân trấn thủ Đô thành dựa vào địa thế hiểm trở kháng cự lại, chịu đựng kham khổ hơn 20 ngày, Đô thành vẫn bị công phá. Tề quân tràn vào hoàng cung, một đao chém xuống đầu ấu vương cùng người đệ đệ mới 11 tuổi, trong cung ngoài cung, phàm là mang huyết thống hoàng thất, không phân nam nữ đều khó thoát khỏi cái chết.
Dần quốc trải qua hơn 200 năm, tề tụ bách quan bách tướng tâm huyết, cuối cùng triều đại cũng bị lật đổ.
——————————
Ngoài thành tiếng kêu than dậy đất trời, dân chúng trong thành đều không dám ra ngoài, sớm đã không còn phồn hoa của ngày xưa, giữa gió thu hiu quạnh, cửa lớn Chung phủ đóng chặt, bỗng nhiên có hơn trăm tướng sĩ vác theo gỗ lớn trực tiếp đập vào cửa lớn Chung phủ, kéo Chung Dật một thân bạch y từ trong linh đường ra. Hỉ Nguyệt ôm gậy đuổi theo, những ngày qua nàng nghe được không ít Tề quân hành hạ bách tính tàn độc thế nào, nên không dám nói lời nhục mạ, chỉ có thể đỏ ửng vành mắt khóc đứng một bên.
Chung Dật bị kéo lê đến hậu điện nghị sự trong cung, rồi chúng vứt y xuống đất. Chung Dật quay đầu lại nhìn, cửa điện đang mở, lực lượng hùng hậu canh gác bên ngoài, Hỉ Nguyệt chẳng biết đã đi đâu, không biết bị chặn lại ở đâu rồi. Thoạt đầu y vẫn còn chút bận tâm, nhưng ngẫm lại Hỉ Nguyệt luôn biết đúng mực, nên sẽ không đến nỗi có chuyện, y thoáng an lòng.
Không có gậy chống, y chỉ đành đỡ lấy chân bàn trà cao cao bên cạnh miễn cưỡng đứng dậy, từ lúc tự mình đi đứng đến nay, động tác đứng dậy này y luôn làm rất vất vả, chờ đến khi đứng dậy được đầu đã đổ đầy mồ hôi, y thở phào, nhưng phát hiện có một người vẫn luôn ngồi trên ghế giữa hậu điện, đôi mắt đen kịt đánh giá mình từ trên xuống dưới.
Năm năm rồi chưa gặp mặt, tướng mạo đã có sự cương nghị của người trưởng thành, mà khuôn mặt ấy quá mức sâu sắc và thành thục so với người cùng lứa, Chung Dật không khó nhận ra đối phương.
Cách biệt nhiều năm, hôm nay gặp lại, tâm tình đều đã không còn thuần túy của năm đó, ngay cả lời nói cũng không biết bắt đầu từ đâu. Chung Dật chống bàn trà đứng đấy, trông có chút yếu thế nhưng vẫn tận lực thẳng tắp sống lưng, y không muốn mình yếu thế.
Không biết bao lâu sau, thanh niên ấy mới nhếch khóe môi, cười lạnh.
“Thái phó đại nhân, ngài có hối hận không?”
Sự châm biếm trong lời nói của đối phương làm Chung Dật không cách nào đối mặt, y cúi đầu nhìn chân mình, lại nhìn ra bên ngoài điện tiêu điều không được như ngày trước, cuối cùng vẫn không nói gì.
Hối hận thì sao, mà không hối hận thì thế nào. Dần quốc đến ngày hôm nay là ý trời an bài, dùng hết vận may, tuy y có tội, nhưng cũng không phải chỉ do một mình tội lỗi của y.
“Nói đến mệnh trời thì thật đúng là thú vị.” Lý Hủ vỗ tay vịn của ghế dựa, ung dung đứng dậy, vừa nhẹ nhàng nói vừa đi đến gần Chung Dật, “Năm đó Thái phó được Dần vương yêu mến, triều đình khí thế quật khởi, rạng rỡ chói mắt như trăng sáng giữa trời đến nỗi tưởng chừng như các vì sao u tối đi, vạn vật đều phai màu.”
“Còn bản vương lại không khác gì một con chuột cống kéo dài hơi tàn trong cung, nhẫn nhục sống qua ngày. Thật hài hước, đổi lại năm đó, ai có thể nghĩ đến tình trạng hôm nay.”
Thấy đối phương đã áp đến trước mặt mình, Chung Dật rõ ràng không tránh đi được, chỉ đành mở miệng: “Tề vương bây giờ đã có thể thống nhất thiên hạ, nếu như còn nhớ đến năm đó thì hãy đối xử tử tế với cựu thần Dần quốc và bách tính.”
“Nhớ đến năm đó?” Lý Hủ lặp lại từng chữ tựa như nghe thấy câu gì đó rất buồn cười, hắn kéo căng khóe miệng, “Nhớ đến chút ít ân huệ năm đó của Thái phó à? Ra vẻ đạo mạo? Hay là nhớ đến năm đó Thái phó tâm địa sắt đá, muốn đưa bản vương vào chỗ chết?”
Chung Dật không biết nói gì tiếp, giương mắt nhìn bầu trời, chỉ có thể thở dài.
Nụ cười trên mặt Lý Hủ chứa chút bi ai cùng cay đắng, dạo một vòng quanh Chung Dật, như phải xem thấu y: “Đổi thành người bình thường, dù có là con chó con mèo nuôi 3 năm cũng không nỡ tùy tay vứt bỏ. Còn Thái phó ơi là Thái phó…Ngài cũng thật nhẫn tâm.”
“…Đối với Thái phó mà nói, bản vương e rằng còn không bằng cả con chó con mèo chứ gì?…” Đối phương đã thoáng cao hơn y, khi hắn hơi khom lưng ghé đến bên tai, uy thế có thể nói bức người.
“Chuyện đã qua không thể truy đuổi, hà tất nhắc lại chuyện xưa.” Tâm trạng Chung Dật hoàn toàn rối loạn, y không kịp nghĩ kĩ, chỉ có thể chật vật tránh né đề tài.
“Nhắc lại chuyện xưa không phải là Chung thái phó sao?” Lý Hủ không nhịn được bật cười to, “Thái phó sẽ không thật sự cảm thấy bản vương mến mộ một vài quyển sách cổ hủ ngài dạy đấy chứ?”
“Nếu Tề vương hận, cứ ban Chung mỗ cái chết. Chớ nên liên lụy người khác.”
Mấy ngày nay Tề quân vào thành, Chung Dật nghe không ít những tin đồn. Nghe nói Tề vương sau khi vào cung lập tức xử tử toàn bộ những người năm đó vô tình hay cố ý đắc tội hắn.
“Vậy sao được. Chung thái phó có nhẫn tâm đến đâu chăng nữa, thì dẫu sao cũng là người duy nhất ở Dần quốc từng đối đãi dễ chịu với bản vương.” Ý cười của Lý Hủ càng sâu, bỗng giơ tay bắt lấy bả vai Chung Dật, Chung Dật chấn kinh trở tay tránh thoát đi, dưới chân không vững suýt ngã xuống, nhưng vẫn không thể tránh thoát được. Tề vương cúi xuống ghé vào tai y, thầm thì xa xăm: “Thái phó từng nói, tích thủy chi ân, dũng tuyền tương báo. Những tích thủy chi ân này, bản vương đương nhiên phải báo đáp rồi.”
(*) Tích thủy chi ân, dũng tuyền tương báo: Được một chút ân huệ của người cũng báo đáp lại gấp bội.
“… …Ngươi muốn phải thế nào.”
“Chờ mọi chuyện ở đây yên ổn, bản vương sẽ dẫn Thái phó về Ung thành, xây mua một tòa phủ lớn, cử trăm gia bộc hầu hạ Chung thái phó an dưỡng tuổi thọ, để thiên hạ biết Tề vương ta ân oán rõ ràng, hoàng ân mênh mông.”
Chung Dật bỗng bật cười, không nhìn khuôn mặt Tề vương đang áp sát mình nữa, dời tầm mắt nhìn sang chỗ khác, nói: “Chuyện tốt như thế, Chung mỗ cảm ơn Tề vương không tính toán hiềm khích trước đây.”
Tề vương Lý Hủ cũng cười, chỉ là lần này nụ cười ấm áp hơn mấy phần, tay nắm bả vai Chung Dật lướt xuống đến khi nắm được tay y, thoáng nắm chặt thoáng buông lỏng ngón tay Chung Dật.
“Nếu hiềm khích lúc trước quá nhiều, cũng nên chậm rãi tính toán mới đúng chứ. Chung thái phó, có phải không?”
——————————
Chung Dật bị giam vài ngày trong cung, bị mấy người nhét vào một chiếc xe ngựa. Hỉ Nguyệt ôm gậy ngồi trên xe ngựa, thấy Chung Dật đến, vui mừng không kiềm chế được nước mắt tí tách rơi xuống, Chung Dật vội đến trấn an nàng.
Lên xe không bao lâu, bên ngoài liền bị xích sắt khóa lại, đẩy không ra, hai người đành an ổn lẳng lặng chờ trong xe ngựa, không lâu sau, từ ngoài truyền đến tiếng quát của người cưỡi ngựa, xe ngựa lập tức chậm rãi cất bước. Đi được một quãng, xe ngựa hội tụ với nhiều xe kéo khác.
Lúc xe ngựa rời khỏi Đô thành, từ xa xa bên vệ đường truyền đến tiếng nữ nhân và hài tử khóc lóc thảm thiết, cả tiếng quạ kêu xen lẫn vào đấy, vô cùng thê lương.
Chung Dật tựa đầu vào song cửa đóng kín, đến tận giờ phút này, lòng y mới xem như chân chính hiểu rõ. Dần quốc đã vong.
Dọc trên đường đi, chỉ có khi bưng trà đưa cơm mới mở cửa xe ra một lúc, Chung Dật cùng Hỉ Nguyệt ngồi trong xe ngựa tỉnh dậy rồi lại ngủ tiếp, không biết đã đi bao lâu, xe ngựa mới dừng lại, ánh sáng cường liệt đâm vào mắt làm Chung Dật không chịu được giơ tay cản tia sáng, sau đó dưới sự dìu đỡ của Hỉ Nguyệt cẩn thận leo xuống xe ngựa.
Quả nhiên như Tề vương hắn nói, hai chữ Chung Phủ trên tấm bảng hiệu của tòa nhà trước mắt thật sự rất khí thế. Chung Dật nhận lấy cây gậy Hỉ Nguyệt đưa, vừa đánh giá hai bên vừa bước vào ngưỡng cửa, vừa vào cửa, y lập tức nhìn thấy mười mấy cái rương lớn nhỏ được xếp ở trong.
Chung Dật tiến lên, chật vật khom lưng, dưới sự hỗ trợ của Hỉ Nguyệt mở từng cái, mới phát hiện bên trong là vật cũ của Chung phủ.
Hỉ Nguyệt thấy lão gia mình bỗng thả gậy xuống, bước đến một cái rương mở nó ra, lại tìm kiếm sang cái thứ ba, thứ tư. Cho đến khi mở cái thứ năm, lão gia rốt cục mới dừng lại, lộ ra nụ cười đầu tiên sau mấy ngày liền.
Trong rương xếp ngay ngắn mấy chục bài vị, Chung Dật ngồi xổm xuống, lấy một cái trong đó ra, dùng tay áo cẩn thận lau đi lau lại. Rồi cầm trong tay tường tận nhìn thật lâu, trên tấm gỗ đen hiện lên dòng chữ đỏ Chung ái thê Khâu thị, cuối cùng lão gia ôm bài vị vào trong lòng.
Phảng phất như đang chuyên tâm lẫn thâm tình ôm lấy thân thể thê tử.
Chung phu nhân qua đời đã 6 năm, lão gia mỗi ngày đều thắp nhang tế điện, Hỉ Nguyệt đều nhìn thấy hết. Trong lòng Hỉ Nguyệt, trên đời này thật sự không có một nam tử nào nặng tình hơn lão gia của nàng.
Chung Dật dẫn theo Hỉ Nguyệt tự thân bố trí linh đường, sự tình còn lại giao cho gia nô Tề vương thu xếp, xong vào phòng ngủ nằm. Mấy ngày liền bôn ba cơ thể y đã sắp không chống đỡ nổi nữa, nằm xuống không lâu đã chìm vào giấc ngủ.
Khoảng thời gian ở Ung thành cũng thật thanh nhàn thảnh thơi, Chung Dật nghỉ ngơi vài ngày, bắt đầu dẫn theo Hỉ Nguyệt ra khỏi phủ thưởng lãm quang cảnh.
Y đặc biệt thích nhìn cảnh sắc Lê Sơn ngoài thành, thường lui tới Lâm Dục Tú, lưu luyến quên về. Không lâu sau, y sai người dựng một căn nhà trúc gần bờ hồ bên rừng trúc dưới ngọn núi, cùng với Hỉ Nguyệt sống lâu dài ở đấy.
Lý Hủ sự vụ nặng nề, chờ đến khi đăng cơ xưng đế, xong xuôi hết sự tình, hắn muốn nhanh chân đến gặp y, đi đến Chung phủ mới phát hiện người đi nhà trống. Tìm được căn nhà trúc bên dưới ngọn núi Lê Sơn, nhìn thấy Chung Dật trải tháng ngày thần tiên, hắn quả thực cảm khái người này da mặt dày, cũng thật không xem mình là người ngoài.
Chung Dật đang ngồi bên hồ rửa sạch cái đồ rửa bút bằng sứ, thấy Lý Hủ dẫn người từ đằng xa đi đến, lập tức phủi tay áo cuốn lên xuống, cầm lấy cây gậy nằm cạnh đứng dậy.
“Làm sao chạy đến chỗ này rồi, tòa nhà trong thành ở không quen?”
Chung Dật cúi đầu tự tại nhìn mặt đất, rồi nói: “Chỗ này thanh tịnh.” Dứt lời, liền quay về nhà trúc trước, vịn cầu thang đi vào phòng. Lý Hủ tất nhiên không khách khí với y, ra lệnh tùy tùng đứng chờ một bên, xong nhanh chóng nối bước vào theo.
Nhà trúc tuy không lớn, nhưng đúng thật phong nhã rất khác biệt, bước vào nhà là một căn phòng nhỏ. Lý Hủ vốn định đánh giá bài trí của căn phòng, ai ngờ hắn nhìn thấy một đứa bé khoảng chừng 10 tuổi đang vụng về tay chân thu dọn thư tịch trên chiếc bàn dài.
“Đây là?”
“…Chỉ là hài tử vùng phụ cận.” Chung Dật thuận miệng giải thích, nhân tiện nói, “Thế An, ngươi lui ra.”
“Vâng. Tiên sinh.” Đứa bé sợ hãi vâng một tiếng rồi đứng dậy, lui vào trong phòng.
Chung Dật vốc nước vỗ vỗ mặt, đang dựng gậy chuẩn bị ngồi xuống thì Lý Hủ chẳng biết từ lúc nào đã vòng tới sau lưng y, trầm giọng nói: “Trẫm làm sao lại thấy… đứa bé này có chút quen mặt vậy.”
Chung Dật khựng lại, cười lắc đầu: “Không phải.” Liền vòng qua Lý Hủ, tự bước đến ghế ngồi xuống.
Lý Hủ nửa cụp mắt, mặc dù nửa tin nửa ngờ nhưng không hỏi nhiều.
“Tề vương… à không… Hoàng thượng lần này đến đây có gì chỉ giáo?”
Lý Hủ cũng tự nhiên ngồi xuống một bên khác của ghế, chỉnh lý lại vạt áo: “Không có gì, đại điển đăng cơ có mấy tân quan viên đưa trẫm vài vò rượu ngon. Trầm nhớ Chung thái phó thích rượu, nên cầm theo một vò đến.”
Lý Hủ vào nhà đã thấy trên khay chỉ có ấm trà chứ không có chung rượu, đoán có lẽ Chung Dật cai rượu nhưng hắn không nói thẳng ra, gọi vọng ra bên ngoài, tùy tùng đứng chờ liền ôm một vò đi vào.