Cổ Đại Khó Kiếm Cơm

Chương 21



*Note: Khuyến cáo ai đang ăn thì ăn tiếp mấy miếng cho nốt hoặc dừng lại, đoạn sau có cảnh...

Thẩm Hi chạy lung tung trên đường, gặp ai liền hỏi người ta xem có thấy một người đàn ông bị mù, trên mặt buộc mảnh vải che mắt hay không, nhưng ai cũng đã trơ lặng với cái chết, chỉ lạnh lùng lắc đầu, khiến nàng như bị đẩy vào vực sâu tuyệt vọng.

Thời gian trôi qua, rốt cuộc Thẩm Hi khóc không nổi nữa, nước mắt nàng đã chảy khô, cổ họng khàn rát, đôi mắt cũng sưng vù, mới có người hảo tâm nói cho nàng một câu, đi ra bãi tha ma ngoài thành bên cạnh trấn xem thử xem, xác chết đều bị kéo ra chỗ đó.

Thẩm Hi ngơ ngác gật đầu, theo chỉ dẫn của người nọ mà đi ra khỏi trấn.

Còn chưa đến bãi tha ma, nàng đứng ở nơi xa đã ngửi thấy một mùi hôi thối phả vào mặt. Nàngđau buồn chết lặng mà bước chậm đến bãi tha ma, chỉ mới nhìn qua đã cong người nôn đến quặn ruột.

Trên bãi tha ma là vô số thi thể, ruồi nhặng bay vù vù, giòi bọ bò đầy đất, các loại sâu giòi chui nhủi trong hốc mắt thi thể, có cái xác đã thối nát không nhìn ra hình thù, có xác máu me nhầy nhụa, có cái xác bụng căng trướng tròn vo, cảm tưởng nó sẽ nổ tung ngay lập tức... Thẩm Hi chưa từng nhìn qua cảnh tượng khủng khiếp như địa ngục trần gian như vậy, lại bị mùi hôi thối xông đầy mũi, suýt nữa ngất đi.

Nghĩ đến Người mù, nhớ đến khoảng thời gian giữa hai người, Thẩm Hi lại dũng cảm lên, nàng bắt mình nhìn lại xung quanh, từ một đống một đống thi thể cố tìm ra được hình bóng quen thuộc kia. Nàng đi một đoạn, phát hiện ra càng đi vào trong các xác chết càng phân hủy nặng, mà đống xác bên ngoài thì vẫn khá nguyên vẹn, chứng tỏ những người chết trước bị ném ở bên trong, càng đi ra ngoài là những xác chết mới được đưa đến, vì vậy Thẩm Hi lại đi vòng ra ngoài tìm kiếm, mỗi lần thấy bóng dáng áo lam nàng lại tuyệt vọng một lần.

Thẩm Hi đi quanh bãi tha ma tìm khắp một lần, cũng không thấy được thi thể Người mù, lại thấy không ít hàng xóm cùng khách quen đến ăn cháo mỗi sáng. Quách thẩm đã gầy sọp như que củi, cũng bỏ mạng trong tràng nhân họa này, khuôn mặt nàng vẫn hằn rõ nét thống khổ trước khi chết; có đứa bé đã từng đến chúc tết nhà Thẩm Hi, vẻ mặt ngơ ngác như đang muốn hỏi tại sao chuyện này lại xảy ra, sao không cho nó có cơ hội được trưởng thành; còn có chàng thư sinh Thanh Hiên, đã từng hăng hái chỉ điểm câu đối trước cửa nhà nàng hôm mùng một tết, hắn không bị đói chết, nhưng trên cổ hắn là một vết đao sâu hoắm, khuôn mặt trẻ tuổi tuấn tú đã mất đi sinh khí...

Mạng người yếu ớt, con người mấy hôm trước trông thấy còn vui vẻ cười nói, đi lại, hôm nay đã biến thành một xác chết lạnh băng, không có người chôn cất khóc than, chỉ dư lại một cái xác dần mục ruỗng...vì cái gì, vì cái gì họ phải chết như vậy?

Mỗi lần nhìn thấy một khuôn mặt quen thuộc, Thẩm Hi lại đau lòng một lần, dần dần, nàng đã đau đến chết lặng, không biết cái gì là đau đớn nữa. Dòng lệ tưởng chừng như đã cạn khô lại chảy xuống. Đến lúc đi đến chỗ sâu trong bãi tha ma, nàng mới thấy có mấy người xanh xao vàng vọt đang mệt mỏi cầm xẻng đào từng xẻng đất đem các thi thể kia chôn cất.

Thẩm Hi vội vàng chạy tới, nhưng chưa kịp đến gần đã nghe tiếng quát: “Tiểu nương tử kia đừng đến đây, cẩn thận trúng thi khí!” Nàng vội dừng bước, khàn khàn giọng hỏi: “Các ngươi đang làm gì vậy?” Người quát nàng lúc nãy trả lời: “Thời tiết nóng nực, nếu không chôn những thi thể này sợ rằng sẽ bùng phát ôn dịch. Tiểu nương tử, ngươi đến nơi này làm gì?” Thẩm Hi nức nở: “Hôm qua nhà ta bị người ta xông vào, trượng phu của ta không thấy...”

Người kia thương tình nhìn nàng: “Tiểu nương tử, không phải ta muốn ngươi từ bỏ, nhưng ta nói thật, tôn phu chỉ sợ đã dữ nhiều lành ít. Ngươi cũng đừng tìm tiếp nữa, chỗ này trở lên bọn ta đã chôn hết rồi, có muốn tìm cũng không tìm được đâu.” Nghe hắn nói, Thẩm Hi như sét đánh ngang tai, nàng xây xẩm mặt mày, ngồi bệt xuống đất, khiến ruồi muỗi chung quanh bay vù vù.

Nàng ngồi một lúc, mới chống tay đứng dậy, miễn cưỡng nói cảm ơn, mới tập tễnh rời đi. Không biết bao lâu, đến lúc nàng lấy lại tinh thần đã ngồi ngây ngẩn ở nhà, ngôi nhà đã không còn là tổ ấm như trước nữa.

Cửa hỏng, nghiêng ở một bên, cửa sổ bị chém làm hai nửa, kháng bị người đào lên, gạch đá với đệm chăn lẫn lộn một chỗ. Quần áo trong tủ không bị cướp mất, nhưng bị ném hết ra khỏi tủ, vương vãi trên nền nhà. Phòng bếp đã trống trơn, cả mấy cái bình rỗng cũng bị đập vỡ, khế ước mua bán nhà mà nàng giấu đi cũng mất, chỉ còn bản hộ tịch ghi tên Giả Như Chân và Giả Thẩm thị Tây bị ném xuống đất. Hơn mười cân gạo Thẩm Hi mới mua cùng dầu muối... đều bị cướp hết sạch, ngay cả mấy luống ra ngoài vườn cũng bị nhổ sạch.

Nhìn ngôi nhà chính tay mình gầy dựng bị phá thành như vậy, Thẩm Hi đau lòng đến không thở nổi. Nàng đứng ngơ ngác trong sân một hồi, đến lúc mệt đến đứng không vững mới đi vào nhà, cửa cũng không đóng, nằm co vào góc tường mà nửa tỉnh nửa mê.

Không biết nàng đã nằm đó bao lâu, bị tiếng động làm tỉnh lại, thấy hai bóng người gầy tóp đang lật tủ. Nàng không ra tiếng, cũng không đứng dậy đuổi người, chỉ hờ hững mà nhìn, đôi mắt tối tăm không chút ánh sáng. Hai người kia tìm thêm một lát, không có đồ nào có thể dùng bèn liếc Thẩm Hi một cái rồi bỏ đi.

Người mù đã chết, Thẩm Hi cũng như chết theo. Nàng không biết mình còn sống thêm để làm gì, ở nơi loạn thế này đã không có người nào khiến nàng để tâm nữa, nàng cũng không cần sống trong cảm xúc sợ hãi luôn bủa vây. Chẳng bằng cứ như vậy, có lẽ đến lúc mở mắt ra nàng sẽ thấy mình vẫn đang nằm trên chiếc giường Simmons êm ấm, thở ra một hơi mà nhớ về cơn ác mộng đêm qua. Thẩm Hi nghĩ như vậy, cũng nhắm mắt lại.

Trong luc mơ màng, nàng lại nghe thấy tiếng động lục đục, có lẽ là lại có người vào nhà lục lọi đồ đạc, nhìn thấy nàng đang nằm đó cũng mặc kệ, cho rằng nàng đang nằm chờ chết đói, thế nên may mắn mà không ai đụng phải nàng. Thẩm Hi cứ nằm như vậy, tỉnh rồi lại nhắm mắt lại, không ăn không uống ngày qua ngày, có lẽ qua rất lâu, hay chỉ qua mấy ngày, khi đó nàng đã sắp hôn mê, bỗng cảm giác được có người đỡ nàng dậy, mớm chút nước cho nàng.

Người mù trở lại sao?

Thẩm Hi cố hết sưc mở mắt ra nhìn, ánh vào mắt không phải khuôn mặt quen thuộc của Người mù mà là Lý lão tiên sinh đầu tóc bạc trắng. Ông thấy Thẩm Hi tỉnh, lại bưng bát đến bên miệng nàng, giọng hiền từ: “Thẩm nương tử, uống chút nước đi, chỗ ta còn có một nắm gạo, ngươi yên tâm đi không chết đói được.” Thẩm Hi lại cố sức ngoảnh đầu sang một bên, giọng thều thào: “Không,.. ta muốn đi... tìm tướng công... nhà ta...” Thời gian này Lý lão tiên sinh đã nhìn quen sinh tử, nghe nàng nói vậy cũng không ngừng lại, chỉ là khuyên tiếp: “Thẩm nương tử, ngươi đừng nghĩ vậy, thấy ngươi như bây giờ, chắc chắn tướng công nhà ngươi cũng không muốn ngươi đi tìm hắn.”

Thấy nàng vẫn nhắm mắt lại, Lý lão tiên sinh vội nói tiếp: “Chết có gì khó, nhưng ngươi đã chết, nhà tướng công ngươi cũng bị chặt đứt huyết mạch, nếu là tướng công của ngươi trên trời có linh, cũng không muốn nhà mình bị đứt hương khói.”

Huyết mạch?

Thẩm Hi giật mình, mở to mắt, nàng không dám tin: “Ta... mang thai rồi?” Lý lão tiên sinh vội đáp: “Ngươi đúng là ngốc, đang có thai mà cũng không biết, vừa nãy ta có bắt mạch qua, ngươi đã mang thai được hơn tháng rồi”.

Nàng thật có thai? Con của Người mù? Đứa bé mà mình mong đợi đã lâu đã lặng lẽ đến rồi sao?

Niềm vui đến bất ngờ, Thẩm Hi vừa vui vừa sợ, tim nàng đập thình thịch, bỗng nhiên đảo mắt, ngất đi.

Đến lúc nàng tỉnh lại trời đã tối rồi. Lý lão tiên sinh vẫn ngồi trông nàng, thấy nàng tỉnh liền đem sang một bát cháo, gọi là cháo nhưng thực chất là nước cơm, dưới đáy chỉ có một tầng gạo mỏng: “Thẩm nương tử, mau ăn cháo đi, ăn rồi mới khỏe lên được.” Thẩm Hi nghe lời, nhưng nàng đã đói lâu lắm, giờ kiệt sức, chỉ hơi nhúc nhích đã đầu váng mắt hoa. Lý lão tiên sinh thấy nàng không dậy nổi đành ngồi lại, đỡ nàng dậy rồi đưa bát đến bên miệng nàng. Lúc này Thẩm Hi như được quỳnh tương ngọc lộ, uống sạch bát cháo loãng.

Lý lão tiên sinh lại dìu nàng nằm xuống, lúc này mới nở nụ cười: “Vậy là được rồi, ngươi không muốn sống nhưng phải cố sống cho đứa nhỏ chứ. Đừng quá tuyệt vọng, không chừng qua mấy hôm sau triều đình sẽ đến đây cứu tế, ngươi cố đợi mấy ngày.” Thẩm Hi thở phào nhẹ nhõm, yếu ớt cảm tạ ông: “Lý tiên sinh, cảm ơn ngài...”

Lý lão tiên sinh cười, khuôn mặt ông gầy yếu đến má hóp lại, nụ cười có hơi đáng sợ: “Cần gì cảm tạ, ai cũng có lúc gặp rủi ro mà. Giờ được rồi, ngươi mau nghỉ ngơi đi, ta phải đi rồi, cả nhà đang đợi ta về ăn cơm, ta phải đi nhặt chút củi.” Thẩm Hi vội hỏi: “Nhà ngài ở đâu... để ta có việc còn tìm ngài...?”

Lý lão tiên sinh đáp: “Ta ở Lý gia cựu trạch (nhà cũ Lý gia) chỗ cửa thành Nam, nếu có chuyện gì hay thân thể không thoải mái thì tới tìm ta. Một ít bệnh nhỏ ta vẫn chưa được.” Nói xong, ông tập tễnh đi rồi.

Nhà cũ Lý gia phía cửa nam, Thẩm Hi nhớ đinh ninh địa chỉ vào trong lòng, chờ lúc mình khỏe lại, nhất định phải trả ơn lão nhân gia.

Lý lão tiên sinh đi rồi, Thẩm Hi lại nằm trên mặt đất đến nửa đêm, có lẽ là có bát cháo loãng vào bụng nên nàng cũng khỏe dần, tay chân cũng có chút sức. Nàng đứng dậy, chậm rãi đi sửa lại cánh cửa, nhưng mỗi việc này cũng khiến nàng mệt đến bở hơi tai, phải ngồi nghỉ chốc lát.

Nàng nghỉ xong, mới đi nhặt mấy hòn đá chèn lại vào cổng, sợ ít đá người ta đẩy được cổng, vừa nghỉ vừa chèn thêm hơn mười hòn đá mới dừng lại. Nàng mệt đến nằm bệt xuống đất, cũng chưa vội đứng lên mà còn chú ý lắng nghe động tĩnh ngoài đường xem có ai qua lại không. Đợi đến ngoài kia thật sự đã yên tĩnh rồi nàng mới đi vào trong bếp, cầm lấy cái xẻng bị gãy cán, nghĩ nghĩ, nàng lại tìm thêm một con dao với cái chậu gỗ chưa bị vỡ. Mấy thứ đồ nhỏ nhặt này không ăn được, lấy lại không có tác dụng gì nên mới không bị người ta lấy đi.

Thẩm Hi mang mấy thứ này ra vườn, tìm đến chỗ chôn gạo, ngồi xổm xuống cẩn thận đào từng nhát, sợ tiếng động quá lớn dẫn đến chú ý nên nàng đào rất chậm, cũng xúc rất nhẹ. Nàng lại đang suy yếu nên đào mấy xẻng lại dừng lại, vừa nghỉ vừa nghe ngóng động tĩnh bên ngoài, không nghe thất gì nàng mới đào tiếp. Qua hơn nửa đêm Thẩm Hi mới đào được một bao gạo lên.

Nàng cầm dao cắt mở vải dầu và miệng túi, lặng lẽ đổ ra một chậu gạo, sau đó lại gói kĩ túi lại, kéo kĩ vải dầu rồi chôn lại bao gạo xuống. Vùi đất xong, Thẩm Hi cố hết sức đi cạnh giếng múc một thùng nước, xách ra chỗ chôn gạo rồi vẩy đều nước lên che dấu. Nhân lúc trời chưa sáng, Thẩm Hi vội trở vào phòng bếp nấu nửa nồi cháo.

Cháo mới nấu xong, nàng không kịp đợi nó nguội, vội vàng múc một bát ăn ngấu nghiến, nhưng sợ dạ dày bị đói lâu không tiêu hóa được nên Thẩm Hi cũng không dám ăn nhiều, bèn đặt bát xuống. Ăn xong, nàng cũng khỏe lại một chút, nàng đổ số gạo còn lại vào một túi vải, sau đó dập tắt lửa trong bếp, lại nhét túi gạo vào trong lòng cái lò chuyên để nấu cháo, để ngụy trang, nàng còn đem tro bụi rắc đầy lên túi.

Số cháo dư lại, Thẩm Hi đợi qua một lúc lại ăn tiếp hai bát, sau đó đậy kín vung nồi, nhét cả nồi vào trong lòng kháng đã bị đập phá.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.