Cổ Đại Khó Kiếm Cơm

Chương 73



Ở trong rừng rậm, không có lịch ngày linh tinh để ghi nhớ, thời gian cứ trôi mà không biết hôm nay là ngày nào, vì thế mà Tết âm lịch năm nay bị bỏ lỡ. Tất nhiên một phần cũng bởi vì chuyện của An Tu Cẩn với Cù Minh Tuyết nên mọi người ai cũng không có tâm trạng tết nhất gì, cho nên đến khi mọi người nhớ ra thì Tết âm lịch đã qua.

Thẩm Hi nghĩ ăn tết không đi tế bái sư phụ của Hoắc Trung Khê được, thanh minh không nên lại bỏ lỡ, bèn xem xem thời gian, chọn một ngày lành trời trong nắng ấm, bảo Hoắc Trung Khê dẫn nàng với Hoắc Hiệp đi tảo mộ. Nhưng nghĩ lại người lớn không ở nhà, ba đứa bé ở nhà không an toàn, chỉ phải dẫn theo tất cả, coi như là một nhà sáu người đi chơi xuân.

Dọc theo đường đi, Hoắc Trung Khê luôn banh mặt, Thẩm Hi hỏi hắn vì sao, hắn nói việc ngộ kiếm ý luôn không đột phá nổi, cảm thấy cô phụ công sức dạy dỗ của sư phụ nên không dám đến gặp ông.

Một người đã đứng trên đỉnh cao võ thuật, thế nhưng còn nghĩ được như vậy, Thẩm Hi cảm thấy Hoắc Trung Khê còn có thể tiến rất xa trong con đường võ học. Đôi khi, thành tựu mà một người có thể đạt được quyết định bởi hắn có tâm cảnh như thế nào. Nếu thành Võ Thần rồi liền cảm thấy mình thiên hạ vô địch, vậy loại người này ít có khả năng tiến thêm một bước tới đỉnh cao võ học thượng thừa nữa.

Thẩm Hi không tìm chuyện xưa tới khích lệ Hoắc Trung Khê, nàng biết có thể đi đến mức này, tâm chí của hắn đã kiên định vượt qua người thường.

Nàng chỉ thử kể cho hắn nghe một ít tư tưởng khác trong truyện võ hiệp, mong Hoắc Trung Khê có thể tìm được một chút linh cảm, cho dù chỉ ngộ được một ý thôi cũng được.

Mọi người đi được mấy dặm, đến một chỗ đất cao trống trải không một cây gỗ, chỉ có cỏ dại mọc thành bụi, Hoắc Trung Khê bỗng nói: “Đến rồi, phía trước chính là nơi chôn cốt của sư phụ.”

Thẩm Hi nhìn nhìn, chung quanh toàn là cỏ dại, không có đến một gò đất nhô lên.

Hoắc Trung Khê đi qua, dùng tay nhổ cỏ dại, dây leo linh tinh bò đầy trên mặt đất, Thẩm Hi nghĩ nếu tính bối phận, nàng cũng phải gọi lão nhân gia ông ấy một tiếng sư phụ, còn nhìn làm gì nữa, xuống tay làm việc thôi.

Thẩm Hi bắt tay vào làm việc, bọn nhỏ cũng làm theo, chốc lát sau đã dọn sạch hết mấy bụi rậm chung quanh.

“Chàng còn nhớ mộ ở chỗ nào không? Chỗ chính xác ấy.” Thẩm Hi nhìn nhìn mặt đất bằng phẳng, ngay cả một vật mốc đánh dấu cũng không có.

Hoắc Trung Khê thì bình thản hơn, nói với Thẩm Hi: “Không có chỗ cụ thể. Người cũng đã chết, còn để ý chuyện này làm gì.”

Thẩm Hi mặc kệ hắn, tìm một hướng tốt, bày nguyên bảo với tiền giấy ra hóa, quỳ trên mặt đất chắp tay trước ngực lẩm bẩm khấn: “Sư phụ, con là thê tử của đồ đệ ngài Hoắc Trung Khê, trước đây con không biết nơi an nghỉ của lão nhân gia ngài, cũng không tới sớm hóa vàng, mong ngài chớ trách. Biết ngài thích uống rượu, con có mang cho ngài theo một lọ rượu để hiếu kính, mong ngài có thể nhất túy phương hưu. Đồ đệ của ngài gần đây gặp chút khó khăn trong khi luyện võ, nếu ngài trên trời có linh, hãy thác mộng gì đó để chỉ dẫn cho hắn một chút, A di đà phật, A di đà phật.”

Hoắc Hiệp thấy mẫu thân quỳ, cũng quỳ xuống phịch một tiếng, chắp đôi tay nhỏ ngắn tủn trước ngực, bắt chước đúng kiểu mà nói theo: “Sư phụ ơi sư phụ...” Thằng bé chư nói xong, đã bị Thẩm Hi gõ đầu một cái: “Con gọi sư phụ gì đấy, phải gọi là sư gia...”

Hoắc Trung Khê đặt tay lên vai nàng, quay ra nói với Hoắc Hiệp và Trịnh Gia Thanh: “Tiểu Hiệp và Gia Thanh phải gọi sư tổ mới đúng.”

Thẩm Hi vô tri nên gọi nhầm, để đỡ ngượng, nàng vẫy tay gọi Trịnh Gia Thanh: “Gia Thanh qua đây dập đầu bái sư tổ đi.”

Trịnh Gia Thanh ngoan ngoãn đi đến bên người Thẩm Hi, nghe lời quỳ xuống, hướng về khối đất trống kia mà nghiêm túc dập đầu lạy ba cái.

Tế bái xong, Thẩm Hi đứng dậy tưới lọ rượu xuống đất, nghi thức tế bái đã hoàn thành.

Thẩm Hi biết Hoắc Trung Khê nhiều năm chưa trở về, chắc chắn sẽ có nhiều điều muốn tâm sự với người nuôi dưỡng dạy dỗ mình từ nhỏ đến lớn nên nàng săn sóc dẫn bọn nhỏ sang chỗ khác, để Hoắc Trung Khê ở lại một mình.

Mọi người đi đã xa, chợt nghe thấy hướng ngôi mộ truyền ra một tiếng thét dài, sau đó đàn chim bay nháo nhác, kiếm khí xông tận trời cao.

Thẩm Hi biết, đây là phương thức hắn tế bái sư phụ.

Thời gian trôi mau, thấm thoát đã vào hè, mùa hè đúng là một mùa tràn đầy sức sống, dù là động vật hay thực vật đều phát triển bừng bừng. Ngay cả bọn nhỏ cũng cao lên không ít, khiến Thẩm Hi phải làm thêm quần áo mới cho từng đứa một.

Vải vóc trong nhà còn thừa không ít, nàng chọn mấy cuộn vải mỏng, mát làm quần áo mùa hạ cho bọn nhỏ, còn làm quần đùi áo ngắn cho Hoắc Hiệp với Trịnh Gia Thanh, Hoắc Hiệp mặc vào cảm giác rất mát mẻ, liền không muốn cởi ra, nhưng Trịnh Gia Thanh thì khác, nam hài mười một tuổi đã biết thẹn thùng, nói gì cũng không chịu mặc quần đùi, Thẩm Hi chỉ đành làm cái quần thụng cho thằng bé, mát mẻ lại rộng thùng thình, lúc luyện võ cũng tiện. Còn Hoắc Trung Khê, Thẩm Hi làm cho hắn làm hai bộ quần áo công phu màu trắng, bạch y phiêu phiêu, trông có vẻ phong cách cao nhân vô cùng.

Còn quần áo của hai tiểu cô nương, Thẩm Hi kỳ thật rất muốn làm đủ loại kiểu dáng váy cho hai tiểu cô mặc. Mùa hè quá nóng, không cần phải bọc kín mít như vậy. Mà khi Thẩm Hi làm một bộ công chúa váy cho hai cô bé mặc thử, tuy thích là thích, nhưng không ai dám mặc đi ra ngoài gặp người. Thẩm Hi tuy đã nhắc đi nhắc lại là trong rừng rậm không có người khác, không đáng ngại, nhưng hai nữ hài vẫn không dám mặc. Nhất là khi Trịnh Gia Thanh đi qua trước cửa sổ, tuy rằng màn cửa đã buông xuống nhưng hai nữ hài vẫn khẩn trương đến mức trốn vào trong chăn.

Thẩm Hi thầm nghĩ quả thực là xã hội phong kiến hại người rất nặng. Cuối cùng nàng chỉ phải thay đàn đổi dây, làm hai bộ áo váy dài tay cho hai cô bé, còn nàng thì làm một bộ quần áo ngắn, tiếc là nàng chỉ mặc trong phòng một lần, đã bị Hoắc Trung Khê trấn áp mạnh mẽ.

Mùa hè dài dằng dặc, lại không được làm quần áo tân thời, Thẩm Hi nhàn rỗi không có việc gì, cũng không biết làm gì mới tốt, về sau nghe Thanh Phù nói cô bé biết làm phấn mặt, vì thế mọi người lại bắt đầu chui lủi trong rừng rậm để tìm hoa có thể làm phấn được. Nhặt nhạnh được không ít cánh hoa, tách cánh hoa ra mài vụn, đãi bỏ những chỗ màu vàng màu tím linh tinh xong, còn lại màu đỏ chính là phấn mặt, cách làm tương đối đơn giản.

Có phấn mặt, Thẩm Hi bỗng nhiên nghĩ đến nàng đã lâu rồi chưa trang điểm, bèn đi vào phòng bếp nhặt mấy cục than củi, gọt thành thanh nhỏ, gọi hai tiểu cô nương vào phòng ngồi, dạy cho hai cô bé cách hoá trang đơn giản để giết thời gian.

Thuật hoá trang của các cô nương trong thời đại này tất nhiên không so được với đời sau, nhưng cơ sở của đời sau là dựa trên các loại đồ trang điểm phong phú. Bây giờ điều kiện không cho phép, Thẩm Hi chỉ đành tạm chấp nhận, giảng cho hai tiểu cô nương cái gì là trang điểm nhẹ, kiểu trang nào hấp dẫn nhất, dùng loại phấn nào khiến khuôn mặt càng lập thể, làm thế nào để che đậy khuyết điểm trên gương mặt... Dù sao nàng nghĩ đến đâu dạy đến đó, huấn luyện cho hai tiểu cô nương nắm rõ kĩ thuật trang điểm, nhưng sợ trang điểm sớm sẽ ảnh hưởng đến da, Thẩm Hi còn dặn đừng trang điểm quá sớm, chờ sau thành thân lại trang điểm cũng không muộn.

Thẩm Hi còn làm áo ngực quần lót, tiếc là hai tiểu cô nương chưa dậy thì, chưa dùng đến nịt ngực, nhưng quần lót thì cũng mặc quen dần.

Thẩm Hi mỗi ngày đều ở cùng hai tiểu cô nương, ngày nào cũng vui vẻ hạnh phúc, nhưng Hoắc Trung Khê bên kia lại không quá thuận lợi, hiển nhiên sư phụ hắn cũng không báo mộng cho hắn. Hắn bắt đầu thường xuyên đi vào trong rừng, hơn nữa một chuyến chính là cả ngày, có đôi khi đến nửa đêm mới trở về. Từ dược liệu hoặc con mồi mỗi lần hắn thuận tay mang về có thể nhìn ra được nơi hắn đi chắc chắn là chỗ hẻo lánh ít dấu chân người tới.

Thẩm Hi không biết võ, không biết rốt cuộc hắn muốn làm gì, thứ kiếm ý kia là cái gì, nhưng nàng biết, nếu tình trạng cứ tiếp tục như vậy, chắc chắn Hoắc Trung Khê sẽ ra chuyện.

Sự khác thường của Hoắc Trung Khê đã ảnh hưởng tới bọn trẻ, đặc biệt hai nữ hài tử vốn sợ hắn từ trước, đến bây giờ đã không dám hó hé gì trước mặt Hoắc Trung Khê, ngay cả lúc ăn cơm cũng rụt rè sợ sệt, sợ chọc giận hắn.

Thẩm Hi nhận thấy tình cảnh này, trong lòng cũng sốt ruột, để giúp Hoắc Trung Khê khôi phục bình thường, nàng trằn trọc suy nghĩ rất lâu.

Lại một đêm trăng sáng mênh mang, Hoắc Trung Khê lại về muộn.

Lúc vào sân hắn liền dừng bước, bởi vì hắn nhìn thấy Thẩm Hi đang đứng trong sân đợi mình.

Thấy hắn trở lại, Thẩm Hi đi lên đón, nàng không hỏi hắn có đói bụng không, cũng không bảo hắn đi tắm rửa mà là ôm lấy cánh tay hắn, dịu dàng nói: “Tướng công, đêm nay ánh trăng rất đẹp, cùng ta đi dạo một chuyến được không?”

Hoắc Trung Khê biết dạo này kiều thê bị hắn làm lơ, nên yêu cầu nhỏ này hắn không cự tuyệt.

Vì thế hai người tay dắt tay, chậm rãi dạo bước dưới dưới ánh trăng màu bạc.

Hoắc Trung Khê luôn yên lặng không nói một câu, Thẩm Hi ra tiếng đánh vỡ bầu không khí yên lặng giữa hai người: “Tướng công, ở nơi ta sống có một câu nói là nóng vội thì không thành công. Có nghĩa là, ngươi càng gấp gáp mau chóng thì lại càng không thể đạt tới mục đích. Tuy ta không không biết rốt cuộc chàng đang gặp phải vướng mắc gì trong khi luyện công, nhưng với trạng thái này, chàng không có khả năng đạt được thành tựu mong muốn.”

Hoắc Trung Khê nghe thê tử nói chuyện, nắm chặt lấy tay nàng, thở dài một hơi: “Đúng vậy, ta có chút lo lắng.”

Thẩm Hi chạm nhẹ ấn đường hắn, mềm giọng: “Không cần ngày nào cũng cau mày nghĩ mấy chuyện này, đôi khi, chàng chỉ cần bỏ qua nó, nghỉ mấy ngày sau rồi hẵng nghĩ lại, những chuyện khó khăn đã không còn khó khăn nữa.”

Hoắc Trung Khê chăm chú nghe Thẩm Hi nói, vẫn không mở miệng nói chuyện.

Thẩm Hi tiếp tục khuyên: “Ta đọc qua không ít sách, có nhiều sách đều nhắc tới một câu, ‘thuận theo tự nhiên’. Cho dù là chuyện gì, cũng phải tuần hoàn theo quy luật tự nhiên của nó, như vậy dù có làm cái gì cũng sẽ thuận lợi. Chàng biết cái gì gọi là tự nhiên sao? Tướng công, nhắm mắt lại đi.”

Hoắc Trung Khê nghe lời nhắm hai mắt lại, Thẩm Hi cũng nhắm mắt.

Nàng nhẹ giọng nói: “Tướng công, chàng cẩn thận lắng nghe xem, chàng nghe được âm thanh gì không?”

Hoắc Trung Khê tựa hồ bị sự nhẹ nhàng của Thẩm Hi ảnh hưởng, hắn không khỏi nhẹ giọng: “Rất nhiều thanh âm.”

“Có tiếng côn trùng kêu, có tiếng chim chóc ăn đêm, dã thú đang gầm rú, nhưng tướng công, chàng nghe được tiếng cây cối đang sinh trưởng không? Chàng có nghe thấy thanh âm cỏ dại vươn mầm không? Còn có thanh âm nụ hoa chớm nở, chàng nghe được sao?”

“Vạn sự vạn vật đều có quy luật sinh trưởng của riêng nó, chỉ cần nó tồn tại, tất sẽ có nó nguyên do nó xuất hiện. Kiếm của chàng là vậy, kiếm ý cũng như thế. Ta cảm thấy chàng đang đi vào ngõ cụt, việc chàng cần làm bây giờ không phải là mài kiếm, mà là lắng nghe thanh âm của kiếm, nghe nó đang nói cái gì, cảm giác kiếm ý, cảm giác phương hướng của nó. Chàng thuận theo phương hướng đó, mặc kệ là bình cảnh như thế nào, đều có thể đột phá.”

Thẩm Hi nói xong liền chậm rãi mở mắt, thấy Hoắc Trung Khê vẫn đang nhắm hai mắt cảm thụ mọi vật xung quanh, nàng vô thức mà ngẩng đầu nhìn không trung, sợ có sét đánh xuống, đánh chết nàng tên lừa đảo.

Nàng cố gắng nhớ lại những nội dung của canh gà cho tâm hồn đã đọc ở kiếp trước rồi chỉnh sửa thêm thắt lại mà khuyên nhủ Hoắc Trung Khê, nhưng không biết nó có tác dụng hay không, dù sao thì còn nước còn tát vậy, vạn nhất lại may mắn hoàn thành thì tốt, nỗi hoang mang trong lòng Hoắc Trung Khê sẽ được giải quyết, không thì đành tìm cách khác.

Thẩm Hi nói xong, liền lặng lẽ xuống sân khấu về nhà, chỉ để lại một mình Hoắc Trung Khê nhắm mắt đứng yên trong rừng.

Nàng không biết Hoắc Trung Khê đã ngộ được hay không, nhưng từ hôm sau, Hoắc Trung Khê rõ ràng đã nhẹ nhàng hơn, đôi mày nhíu chặt cũng giãn ra.

Thẩm Hi thở ra một hơi nhẹ nhõm, xem ra tràng phong ba từ cá nhân khiến gia đình lao đao cuối cùng đã đi qua.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.