Mùng ba tháng ba, trong điện Văn Hoa, quan giám khảo quỳ bái, cung nghênh hoàng thượng và thái tử giá lâm.
Ý xuân đương nồng, tóc bên thái dương của lão hoàng thượng lại hệt như cỏ thu phủ sương, thưa thớt khô héo, mí mắt nhăn nheo xệ xuống, chỉ để lại một được rãnh hẹp, mơ hồ nhìn học sĩ duyệt đọc Hàn Lâm cùng với quan viên lễ bộ, khàn giọng nói: “Đứng lên đi.”
Nói rồi, thái giám và thái tử đứng cạnh liền dìu lão, run run ngồi xuống ghế, dựa trên chiếc bàn chạm khắc rồng, năm ngón tay gầy gò nghịch một đôi hạch đào đồ chơi bằng gỗ, vờ như không thấy thái tử đích thân dâng trà, chỉ yếu ớt nói: “Bắt đầu đi.”
Thấy phụ hoàng không thèm nhìn mình một mắt, Chu Văn Lễ chỉ đành đem trà nóng khẽ đặt xuống chiếc bàn trước long ỷ, lập tức lui sang một bên, cúi đầu đứng đó.
Giờ tỵ, ánh xuân rực rỡ, quan duyệt đọc bắt đầu chấm bài.
Lần này các bài thi được chọn ra, đều do tất cả đại học sĩ bàn bạc, chắt lọc ra bài xuất sắc nhất, chính là ba bài đứng đầu ba hạng, cuối cùng ai hạng nhất, ai hạng nhì, là do hoàng thượng tự mình định đoạt. Việc này trước đây đều giao cho hoàng hậu cùng thái tử giải quyết, nhưng năm nay không biết tại sao hoàng thượng dường như rất để tâm đến thi đình, đích thân đến điện Văn Hoa nghe bài thi.
Như thế, quan đọc duyệt càng cẩn thận hơn, nghiêm túc cầm lấy bài đầu tiên, đọc dõng dạc, to rõ.
Đây là bài thi được mọi người công nhận là bài hay nhất, giải thích sắc bén độc đáo, ngôn từ cẩn thận lưu loát, tựa như nước chảy mây trôi, khiến mọi người tấm tắc khen ngợi, đến cả thái tử nghe xong cũng phải gật đầu khen hay...Cho nên quan đọc duyệt đọc rất nghiêm túc, hi vọng nhân tài này có thể lọt vào mắt xanh của thánh thượng.
Nào ngờ đọc được một nửa, hoàng đế vừa rồi còn nhắm mắt vờ ngủ lẳng lặng mở mắt, mở miệng nói: “Trình lên cho trẫm xem.”
Quan đọc duyệt cho rằng hoàng thượng bị tài học của thí sinh này làm dao động, vội đứng dậy, hai tay dâng bài viết đã che tên lên, đi qua bên người lão thái giám chuyển trình đưa cho hoàng thượng. Lão thái giám cầm phất trần lên hông, hai tay dâng bài viết quỳ bái, dùng thân làm bàn, mở ra bài thi có nét chữ phiêu dật cho hoàng thượng xem.
Chu Văn Lễ đứng sau lưng hoàng thượng, thời điểm rũ mắt nhìn thấy đến bài sách văn khí thế ngời ngợi kia, trong lòng thoáng động.
Chữ Hành Khải sạch sẽ ngay ngắn như thế, hắn chỉ gặp qua hai lần, nhưng mỗi lần đều có ấn tượng sâu sắc...Ngoại trừ nàng, ai còn có thể viết ra con chữ phiêu dật như thế, làm ra bài văn châm biếm thời sự như vậy?
Nhưng lúc này lộ ra sự sắc bén như thế, có lẽ không phải là chuyện tốt.
Chu Văn Lễ lặng lẽ quan sát vẻ mặt của thiên tử, trong lòng thầm vì Khương Nhan mà đổ mồ hôi.
Hoàng đế không bộc lộ cảm xúc, quét mắt nhìn nét chữ trên bài thi, tiếp tục dùng giọng già nua vẩn đục nói: “Bài này không được, tiếp đi.”
Bài viết này bất kể là chữ viết hay văn chương, kiến thức đều rất tuyệt vời, nhưng không biết tại sao hoàng đế trước giờ không quan tâm thế tục hồng trần lần này lại dứt khoát nói bỏ liền bỏ!
“Cái này...” Quan đọc duyệt và các đại học sĩ có chút khó xử, theo bản năng nhìn thái tử một cái.
Chu Văn Lễ vội tiến lên một bước, bước ra ngoài hàng, hành lễ: “Phụ hoàng, nhân tài trụ cột như mệnh mạch của quốc gia, người vẫn là xem hết các bài khác hẳn quyết định có bỏ hay không!”
Học sĩ hàn lâm cũng bước ra khỏi hàng, chần chừ hỏi: “Bệ hạ, thần ngu đần, không biết bài thi này có chỗ nào không ổn? Vẫn xin bệ hạ chỉ điểm. Ngày yết bảng, vi thần cũng có thể cho các sĩ tử một đáp án.”
Chúng quan đều tán thành.
Hoàng thượng chỉ là chuyển động tay nghịch đôi hạch đào, đầu không khống chế được mà hơi run rẩy, trông như có dấu hiệu trúng gió.
Mặt trời lên cao, ánh nắng rụt rè từ ngoài điện chiếu vào, mà lạnh rét nghìn năm như một trong điện vẫn không tan đi. Không biết chờ bao lâu sau, chỉ biết chim tước trên thềm đá ngoài điện đến rồi đi, bóng mặt trời dần dần thay đổi, trên trán mọi người chi chít mồ hôi lạnh. Mới nghe thấy hoàng đế trên long ỷ nặng nề ho một tiếng, trong lồng ngực phát ra tạp âm ‘khụ khụ’, cực chậm nói: “Thân phận của người làm bài thi này không phù hợp.”
Nghe xong, chúng quan đều khó hiểu, trong điện nhất thời vang lên tiếng bàn luận xì xào.
Chỉ có Chu Văn Lễ đoán được: Phụ hoàng nhất định nhận ra nét chữ của Khương Nhan, cố ý áp đảo. Dù sao đi nữa, ông vẫn cảm thấy, Khương Nhan có bản lĩnh hơn thì trạng nguyên Đại Minh cũng không thể nào là một nữ nhân...
Học sĩ hàn lâm lại bái lạy thiên tử, hỏi: “Bệ hạ, tất cả bài thi của thí sinh đều đã dùng hồ để dán tên lại, chúng thần đều không biết được chủ nhân bài viết này họ tên là gì, không biết bệ hạ tại sao lại chắc chắn thân phận kẻ này không phù hợp? Nếu thật sự không phù hợp, hẳn nên giao cho Nguyễn thượng thư điều tra ba đời của thí sinh có gian phạm hay không rồi hẳn định đoạt, thần khẩn mong bệ hạ tam tư, đừng vội vàng vì một suy nghĩ mà mất đi nhân tài trụ cột.”
Hoàng đế đương nhiên không thể nói ra nguyên nhân thật sự.
Chuyện Lộc Minh yến lần trước, lão tuy ngầm cho phép Khương Nhan nhập sĩ, nhưng chỉ cho phép Khương Nhan với thân phận nam tử tham gia thi cử, lệnh cho trên dưới trong triều nói chuyện cẩn thận. Thi đình kiểm tra đối chiếu với thân phận của thí sinh, sự tồn tại của Khương Nhan trở thành bí mật công khai, lại không ai dám ra mặt nói chuyện này, bao gồm cả bản thân hoàng đế.
Cũng có lẽ trên Lộc Minh yến lần trước, Khương Nhan chẳng qua là cố tình giấu tài, cho nên lần này bộc lộ tài năng, khiến cho hoàng thượng trở tay không kịp.
Hoàng đế chỉ cho rằng Khương Nhan là một kẻ có tài học nhỏ nhoi, lại không biết được ý trêu ngươi của trời cao đất dày, chờ nàng thi đình trở thành trò cười cho thiên hạ, liền sẵn tiện mượn cớ này để tặng một cái tát thật vang dội cho hoàng hậu đi quá giới hạn chuyên quyền...Nào ngờ, Khương Nhan một bước lên trời, dù che tên cũng có thể thành bài thi được quan đọc duyệt cùng các đại học sĩ tấm tắc khen ngợi, nâng làm quán quân.
Thấy chúng quan không muốn bỏ đi bài thi của Khương Nhan, lão hoàng đế thở dài, đôi môi vàng nến không có huyết sắc nhếch lên, cười như không cười hỏi: “Trẫm cầu tiên vấn dược mười năm, vẫn chưa thoái vị, nhưng sao, lời nói càng lúc càng không có tác dụng nhỉ?”
Dứt lời, chúng quan sợ hãi, vội quỳ xuống khấu đầu nói: “Hoàng thượng thứ tội! Chúng thần bộc lộ lòng trung thành, đều là hết lòng hết dạ vì mạng lưới hiền tài của Đại Minh ta!”
Hoàng đế im lặng không đáp.
……
Mà bấy giờ, Khương Nhan không hề biết gì về giông bão nổi lên giữa các quan.
Liễu rũ như tơ, muôn hoa trăm nở, lúc này ánh dương rực rỡ, nàng đứng dưới gốc đào trong tiểu viện yên tĩnh, vươn eo một cái thật dài, sau đó liền nhấc váy lụa gấp nếp đỏ rực bước xuống thềm đá, đôi mắt mang theo ý cười nhìn về hướng xích đu, nói với Phù Ly ôm đao ngồi ngay ngắn trên đó: “Sao đột nhiên muốn dẫn ta đi đạp thanh?”
Đỉnh đầu Phù Ly có vài nhánh đào xiên ngang, hoa trên cành đã dần tàn, ý xanh dày dần. Nắng xuân xuyên qua cành cây rơi trên người Phù Ly, loang lổ sáng tối, làm dịu gương mặt lành lạnh của hắn, hắn từ trên xích đu đứng dậy, nói: “Ngày mai ta phải ra ngoài tra án, không thể ở trong phủ Ứng Thiên với nàng.”
Lại phải ra ngoài ư?
Ý cười của Khương Nhan thoáng khựng lại, một lúc sau mới khôi phục lại bình thường, hỏi: “Cần đi bao lâu?”
Phù Ly đáp: “Nếu vụ án thuận lời, chắc tầm năm sáu ngày; nếu có nhiều khúc mắt, chắc hơn nửa tháng cũng không chừng.”
Khương Nhan thở dài nói: “Không dễ gì ta mới có thể rảnh rỗi một chút, chàng lại phải bận công vụ rồi. Được rồi, nếu cần phải xa nhau vài ngày, ta liền đi đạp thanh với chàng, thực hiện mong ước của chàng vậy.” Dừng chút, nàng hỏi, “Có cần hẹn với Tiểu Cảnh và Ngụy Kinh Hồng đi cùng không? Còn có A Ngọc và A Tuyết...”
Lời nói chợt khựng lại. Cành cây trụi hoa theo gió rơi xuống, rơi xuống liền thành bùn. Nàng chợt nhớ ra A Ngọc trọng thương chưa tỉnh, mà A Tuyết cuối năm ngoái cũng về Thương Châu rồi.
Thời niên thiếu thanh xuân từng có, các thiếu niên thiếu nữ từng vô vàn rực rỡ, cuối cùng lại như cánh hoa rơi này, có lẽ là bắt đầu cũng có thể là kết thúc, mỗi người một nơi.
Thấy nàng thẫn thờ, ý cười trong đáy mắt cũng nhạt đi rất nhiều, Phù Ly liền giơ cánh tay buộc bao cổ tay bằng da bò lên, nhẹ nhàng búng lên trán nàng, kéo suy nghĩ của nàng về: “Chỉ có ta và nàng đi, không có người khác.” Dừng chút, hắn lại nhẹ tênh bổ sung một câu, “Nhiều người rách việc.”
Trên trán truyền đến chút đau khẽ, Khương Nhan đưa tay che trán, phiền muộn trong lòng tan sạch, ánh mắt lại trở về với dáng vẻ thông tuệ nhìn thấu tất thảy, nhíu mày nhìn hắn hỏi: “Tiểu Phù đại nhân, chàng không phải lại đang lén lút bày trò gì chứ?”
Bị đoán trúng tâm sự, Phù Ly tùy ý kéo nàng ra ngoài, vờ vịt nói: “Nàng ra ngoài liền biết.”
“Ôi chàng chờ chút, ta thay quần áo đã.” Khương Nhan giãy khỏi tay hắn, hứng thú bừng bừng nói, “Mặc váy đạp thanh rất bất tiện, ta thay đồ cưỡi bắn, cùng chàng cưỡi ngựa trước đã.”
Nói rồi, nàng xoay người bước vào sương phòng, giữa đường nghĩ ra gì đó, nàng lại chạy bước nhỏ quay về ôm lấy thắt lưng dẻo dai, mạnh mẽ của Phù Ly, cười vỗ lưng hắn, “Một chút sẽ xong, Tiểu Phù đại nhân chớ có nóng vội.”
Phù Ly bị nàng dùng lời dỗ con nít trêu cười, rõ ràng khóe môi cong lên, lại còn vờ ra dáng vẻ vân đạm phong khinh, điềm đạm nói: “Đừng dong dài, mau đi đi.”
Đổi thành quần áo cưỡi bắn màu xanh nhạt, hai người chậm rãi cưỡi ngựa đi về núi non phía xanh.
Dưới nền trời xanh, trong tay Khương Nhan cầm một nhành liễu xanh, đưa lên trán che đi ánh mặt trời chói mắt, cười sáng lạnh nói: “Vẫn may trong Quốc Tử Giám học cưỡi ngựa, bắn cung, tương lai thật sự đậu tiến sĩ nhất giáp, cung phong Hàn Lâm, không sợ sẽ không biết cưỡi ngựa dạo phố nữa!”
Phù Ly một tay cầm vững dây ngựa, một tay cầm bội đao, dáng người ngồi trên lưng ngựa vẫn thẳng tắp như tùng, sẵn miệng hỏi: “Dù vào Hàn Lâm rồi, chẳng qua cũng chỉ làm một quan nhỏ thất phẩm, lục phẩm, nàng biết phải hành động như thế nào mới có thể nghiêm trị được Tiết Duệ không?” Chưa đợi Khương Nhan trả lời, ánh mắt hắn trầm xuống, cảnh cáo: “Đã nói trước là, không thể lấy cứng trọi cứng, mọi chuyện đều phải lấy việc bảo vệ mạng sống của nàng trước tiên.”
“Ta đương nhiên sẽ không ngốc đến mức lấy trứng chọi đá.” Khương Nhan nói, “Nếu ta có thể trúng trạng nguyên, cầm được kim bài ngự ban, lần nữa giải án oan thì đơn giản hơn nhiều rồi.”
“Với tích cách đa nghi tránh thế của thiên tử ngày nay mà nói, e rằng sẽ không để một nữ nhân giành được thủ khoa của thi đình đâu.” Nhìn sắc mặt Khương Nhan, Phù Ly lại chậm rãi an ủi, “Ta không phải là muốn đả kích nàng, chỉ là lo...”
Khương Nhan lại sớm đoán được mọi chuyện, trên mặt không hề có tia thất vọng ủ rũ nào, vẫn không tim không phổi cười: “Ta biết chứ. Nếu ta thật sự rớt bảng cũng không sao cả, ta đã cố gắng hết sức rồi. Chuyện của A Ngọc, đã là không thẹn với lòng. Chuyện của A Ngọc, cũng chỉ là tốn thêm ít sức ‘vây Ngụy cứu Triệu’* mà thôi.”
(*Kế vây Ngụy cứu Triệu là kế của Tôn Tẫn dùng trong cuộc chiến tranh Quế Lăng của Tề - Nguỵ. Nước Ngụy đánh nước Triệu bao vây thủ đô Hàm Dương của Triệu. Nước Triệu đang nguy cấp bèn cầu cứu nước Tề. Năm 353 trước công nguyên nước Tề sai Điền Ky làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư đem 8 vạn quân đi cứu Triệu. Ban đầu Điền Ky định trực tiếp quyết chiến với quân Nguỵ, Tôn Tẫn lại có cao kiến khác cho rằng muốn cởi một cái nút không thể ra sức kéo, phải tách hai bên đánh nhau ra, bản thân mình không được tham gia đánh nhau. Giải vây phải tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu của địch thì đánh vào chỗ mà địch phải đi cứu. Bao nhiêu quân tinh nhuệ của Ngụy đều đang vây đánh Triệu, chúng ta nên vây đánh kinh đô Đại Lương của Ngụy. Như vậy quân Ngụy phải quay về cứu thủ đô. Điền Ky tiếp thu mưu kế của Tôn Tẫn. Quân Ngụy nghe tin quân Tề vây đánh thủ đô vội vàng quay về cứu. Quân Tề mai phục sẵn ở Quế Lăng đánh cho quân Ngụy đang vội vàng từ xa về một trận tơi bời, cứu được nước Triệu. Đó là kế vây Ngụy cứu Triệu nổi tiếng trong binh pháp cổ Trung Quốc.)
Nghe giọng điệu nàng, dường như vẫn còn cách thứ hai. Phù Ly hỏi: “Nàng còn có kế hoạch gì nữa?”
“Kế hoạch có chút gập ghềnh, có chút khó khăn, có lẽ...” Có lẽ, còn có chút nguy hiểm.
Khương Nhan đổi ý, không muốn nói ra nữa. Nàng dùng một nhành liễu vỗ mông ngựa, giục ngựa chạy nhanh, rất nhanh sau đó liền ném Phù Ly ở đằng sau, trên đường núi, tiếng cười rạng rỡ xa xa truyền đến: “Chờ chàng đi công tác về, ta lại nói cho chàng biết ——”
Trời cao mây trắng, đường núi gập ghềnh, trong non xanh nước biếc, Phù Ly nhìn theo bóng nàng cưỡi ngựa, bất giác thấp giọng cười, dùng chuôi đao vỗ vào mông ngựa đuổi theo.
Đến trưa, đường núi càng lúc càng chật hẹp, Khương Nhan chỉ đành cùng Phù Ly xuống ngựa, đem ngựa buộc ở trong rừng, đi bộ đến một đoạn ngắn cuối cùng trên đường núi.
Lúc này, cây rừng rậm rạp, cành lá che trời, che lấp tất cả ánh sáng mặt trời, đến cả chim tước cũng yên lặng. Một rừng sâu u tĩnh vắng vẻ thế này, thật sự không phải là một địa điểm tốt để đạp thanh, nếu không phải có Phù Ly bên cạnh khiến nàng đỡ sợ, Khương Nhan nhất định sẽ quay về, không đi tiếp nữa.
“Phù Ly, chàng đưa ta đến rừng cây hẻo lánh này làm gì?” Bên tóc nàng ướt đẫm mồ hôi, thở hổn hển, bước chân như bay đi theo sau lưng Phù Ly, cố ý trêu hắn, “Không phải là muốn với ta...”
Nói rồi, nàng nhướng mày, làm ra dáng vẻ chỉ có thể hiểu, không thể nói ra.
Phù Ly không biết đang nghĩ gì, vành tai đỏ lên, gương mặt không dám tin trừng nàng, hồi lâu mới nói: “Nàng nghĩ lung tung gì chứ! Vài năm đọc sách thánh hiền, sao miệng vẫn toàn lời lẽ không đứng đắn như thế?”
Khương Nhan ha hả cười to: “Ta gì cũng chưa nói cả, e là trong lòng chàng có quỷ, trong đầu lại là thứ không đứng đắn đấy?”
“Về sẽ xử lý nàng sau!” Phù Ly nghiêng đầu hung hăng nói, cũng không biết là nóng hay sao, vành tai hắn còn đỏ hơn, xung quanh nhất thời chỉ có tiếng bước khe khẽ đi trên con đường nhỏ.
Thoáng cái, Phù Ly trầm giọng nói, “Ta dẫn nàng đến gặp một người.”
“Gặp một người??” Khương Nhan kinh ngạc: Ở nơi như thế này sao?!
Đang rùng mình, Phù Ly dừng bước, chỉ về đằng trước nói: “Đến rồi.”
Tùng bách rậm rạp, cổ thụ che trời, nơi cách đó khoảng mười dặm có dựng một mộ đá, trước mộ đá có lập một tấm bia dài, trên đó khắc vài chữ lớn ‘Mộ gia tộc Phù Thị’.
Mà sau bia đó cách vài trượng lại có một tòa mộ lẻ loi. Khương Nhan theo Phù Ly bước lên trước, lúc đứng trước mộ mới nhìn thấy chữ trên bia: Vong thê Phù Tô Thị chi mộ.
Gió nhẹ lướt qua, mang đi suy nghĩ hỗn tạp của Khương Nhan. Nàng im lặng một lúc mới ngẩn người nói: “Đây là...”
“Mẫu thân ta. Trước khi gặp nàng, bà là người phụ nữ đối xử tốt với ta nhất trên đời nàng.” Nói rồi, Phù Ly quỳ một gối xuống đất, cẩn thận phủi đi khói bụi và lá cây trên bia mộ lạnh lẽo, vẻ mặt nghiêm túc thành kính, rũ mắt trầm thấp nói, “Ta tạm thời không cách nào dẫn nàng về Phù gia gặp phụ thân, lại không muốn để nàng chịu uất ức, liền dẫn nàng đến đây gặp mẫu thân trước vậy.”
Tức thời, vô số cảm xúc cuộn trào trong lòng Khương Nhan, có cảm động, có đau lòng, còn có một tia xót xa...
Nhìn bóng lưng cô đơn hắn quỳ một gối bái lạy, nàng mới bừng tỉnh hiểu rõ: Hóa ra Phù Ly đao thương bất nhập thật ra không phải là không gì không làm được. Hắn cũng có vết thương và điểm yếu, chỉ là cố gắng che giấu thật sâu thật sâu, vô thức để lộ ra, càng khiến người khác đau lòng.
Thấy Khương Nhan im lặng, Phù Ly nâng mắt, nhẹ giọng nói: “Nàng đừng sợ. Ta tự mình làm chủ đưa nàng đến đây, nàng không cần để ý.”
Hắn rõ ràng hiểu lầm sự im lặng của nàng. Khương Nhan lắc đầu cười, gì cũng không nghe thấy, chỉ vén quần quỳ bái, trịnh trọng khấu đầu ba cái trước mộ Phù Tô Thị.
Một con chim trên cành bay qua, bay về hướng cung điện nguy nga trong phủ Ứng Thiên.
Giờ ngọ, sự tranh chấp trong điện Văn Hoa cuối cùng cũng kết thúc.
Phù thủ phụ được mời đến cầm bài thi bị che tên, trầm ngâm hồi lâu, mới gấp tờ giấy nói: “Theo ý kiến của thần, xóa tên thật sự có chút nặng, chi bằng để hạng nhất thành hạng ba, thành một thám hoa hữu danh vô thực, như thế không cần bận tâm bổn triều âm thịnh dương suy, cũng có thể giải đi khúc mắt trong lòng bệ hạ, cũng xem như xứng với tài học của người này.”