Vài tia nắng luồn qua chấn song cửa sổ nhỏ trên mái và tan trong ánh sáng trắng của chiếc đèn nê ông. Trước mặt hắn, một gã đàn ông ngồi trên giường của hắn đang nhìn hắn, kê trên gối là khay đồ ăn và đang nhai một mẩu bánh mì. Ánh mắt gã lạnh lùng và nặng nề. Cơ bắp cuồn cuộn đáng chú ý của gã cho thấy gã có sức mạnh của loài vật, nó có thể xung lên bất cứ lúc nào để nhảy vào con mồi. Khuôn mặt gã nặng trịch, các đường nét như thể được đúc ra từ nhiều cú đấm.
- Sao mày nhìn tao dữ thế? Gã đàn ông hỏi, giọng khản đặc rề rà.
Jeremy không trả lời. Hắn không tính đến rắc rối này khi lập ra kế hoạch ngắn gọn và sáng suốt đưa hắn vào đây. Cảm giác hài lòng khi thức giấc giờ đã nhường chỗ cho sự chán ngán.
- Tao đang nói mày đấy, gã đàn ông gào lên.
Jeremy vẫn đắm chìm trong dòng suy nghĩ, mặc kệ câu nói đầy đe dọa. Vẫn là những suy nghĩ giống nhau như lần trước hắn tỉnh: Bây giờ là năm nào? Hắn đã làm gì? Victoria và các con hắn giờ ra sao? Kịch bản ác mộng nào đang chờ đợi hắn nữa đây?
Đây là lần đầu tiên hắn không ngạc nhiên về nơi mình đang ở.
Gã đàn ông bất ngờ đứng dậy, Jeremy cứ nghĩ gã sẽ nhảy bổ vào mình. Nhưng gã lại đi ra phía cửa và để khay đồ ăn vào chiếc bàn nhỏ được treo ở đó.
- Ôi chó thật! Ra mà soi gương. Trông mày rõ là kỳ quái. Bọn chúng nó nói đúng. Mày bị khùng. Mày làm chuyện gì cũng khác người. Nhìn khay của mày mà xem! Ở đây ai cũng khổ vì đói, sẵn sàng giết nhau vì một miếng bánh phết bơ, còn mày thì không động đến bữa. Mày ngủ như thể đang đi nghỉ hè bên bờ biển ấy, lại còn cười như một thằng đần nữa.
Jeremy ngồi dậy, nhìn bữa sáng của mình và một lần nữa lại thấy cơn đói đang hành hạ dạ dày hắn. Hắn đứng lên, lưỡng lự tiến một bước về phía lavabo, rửa tay và rửa mặt. Hắn ngồi vào bàn. Gã kia nằm ra giường, gối tay sau gáy nhìn hắn dửng dưng. Cốc cà phê nguội ngắt nhưng Jeremy vẫn uống một cách sung sướng. Hắn ăn hai lát bánh mì, chúng mỏng tèo, chả thấm vào đâu. Vừa nhai hắn vừa nghĩ đến tình cảnh hiện tại. Làm sao tiếp tục tìm hiểu khi vẫn bị giam ở trong phòng này? Trong khi hắn chỉ có vài giờ đồng hồ. Không phải hắn nghĩ xem mình có thể làm gì đối với câu chuyện này ngày hôm nay, mà hắn hy vọng chí ít có thể khám phá ra phần đầu lời giải thích cho phép hắn rốt cuộc thực hiện tiến trình xá tội, biện bạch cho thái độ của hắn với Victoria và có thể, có thể rằng…
Hắn giờ như một tử tù mà người ta vừa tìm được: cam chịu trước sức mạnh của cái máy đã sẵn sàng kết liễu hắn, nhưng vẫn còn hy vọng vào một sự can thiệp vào đúng phút chót để cứu vớt hắn. Hắn còn một vài hướng để theo, còn vài con tốt để đẩy lên. Và hắn phải tìm được cách nào đó, ngay ở đây, để tiến hành.
- Sao, chương trình là gì đây? Gã đàn ông hỏi hắn.
Jeremy gần như đã quên mất tên này. Hắn biết trả lời sao đây? Hắn phải chờ đợi, để cho gã kia tự bộc lộ những mong đợi của gã.
- Thế ý mày thế nào? Hắn phó thác cho sự may rủi.
Theo ý tao? Theo ý tao? Từ khi nào mày hỏi ý kiến tao thế? Gã nhổm dậy chống khuỷu tay phản ứng với hắn. Tao không phải người phải suy nghĩ ở đây! Nhưng nếu mày muốn biết ý kiến của tao, thì phải kết thúc với nó thôi.
Gã nói giọng kiên quyết. Jeremy nhíu mày. Hắn không dám tìm hiểu ý nghĩa của lời tâm sự đó là gì. Hắn còn cần thu được nhiều thông tin khác nữa.
- Thế mày thấy mọi việc thế nào?
- Tao thấy mọi việc thế nào ấy hả? Gã nhắc lại, ngạc nhiên vì lại được hỏi nữa. Mày định kiểm tra xem tao có thuộc bài không đấy à? Thì bọn mình cứ ra phòng tập rồi táng nó luôn, nhưng phải làm như kiểu một tai nạn. Tao sẽ tìm cách làm rơi vào đầu nó một quả tạ 150 cân. Một quả tạ lên đầu! Để nghiến bẹp luôn nó, gã cười ha hả nói thêm vào.
Gã nhìn Jeremy để kiểm tra xem hắn có thích câu đùa đó không. Kinh hoàng trước những gì gã bạn tù nói, rồi bị bắt quả tang thái độ đó Jeremy giả đò cười phá lên vụng về. Chắc chắn nhân vật này không phải kiểu có thể chấp nhận được sự từ chối giúp đỡ dù nhỏ nhất.
“Mình đang ở tù và đồng lõa với một vụ ám sát! Thật điên rồ! Tên này điên rồi. Nhưng thật may là hắn có vẻ tôn trọng mình, thậm chí sợ mình. Đó là tin tốt duy nhất. Điều đó có nghĩa là Jeremy khác kia đã biết làm cho kẻ khác phải kính trọng mình ở đây. Ít ra là trong buồng giam này. Bởi lẽ, trong nhà tù này có nhiều kẻ thù và trong đó có một đứa mà hắn muốn thủ tiêu. Không thể tin được!"
Jerymy thử dò hỏi.
- Nghe này, tao không biết nữa. Có khi mình phải làm cách khác. Tao còn chút e ngại.
Gã kia bật dậy và ngồi trên giường, vẻ hăm dọa. Jeremy bị ấn tượng bởi động tác nhanh như một con mèo mà cả đống cơ bắp lẫn mỡ này đều có thể làm được.
- Cái gì? Sao mày không biết? Thế mày định đợi nó đến hạ mày? Bởi vì thể nào cũng là như thế đấy! Tao nhắc cho mày nhớ, mày đã bị bắt vì số ma túy của cả nhà nó đấy. Cả đống tiền ấy chứ. Rồi mày đụng độ với em thằng Stako. Mày e ngại à? Bọn nó thì không e dè gì đâu. Kiểu gì chúng nó cũng thủ tiêu mày. Mày nói thế nghĩa là thế nào? Mẹ kiếp, tao tôn trọng mày vì mày là đứa sừng sỏ nhất, quyết tâm nhất trong số tất cả những thằng ngu bị bắt và đang chết gí ở cái nhà tù này đây. Nên mày đừng làm tao thất vọng!
Rồi gã đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, tay nắm chặt, gân bắp nổi lên và không rời mắt khỏi Jeremy. Nỗi tức giận khiến hắn trông thật đáng sợ. Jeremy thấy kính nể sự thông minh của kẻ khác trong con người hắn đã biết liên kết với một tên to lớn như thế. Hắn cũng hiểu rằng hắn cần phải có thái độ của con người mà đáng ra hắn phải là.
Hắn vẫn ngồi, nhìn vào mắt thằng bạn tù, nghiến răng với hy vọng khiến giọng nói của mình đanh thép hơn.
- Đừng có nói với tao cái giọng đấy! Không có chuyện bỏ qua vụ này! Phải hạ luôn thằng khốn nạn ấy! Cái mà tao chưa biết là liệu mình có nên ra tay hôm nay và theo cách đó không! Tao phải suy nghĩ đã, có khi lại có cách khác thì sao.
Jeremy ngạc nhiên về chính những điều hắn vừa nói. Sụ cấp bách và mối nguy hiểm đã buộc hắn phải lao vào trò chơi giả danh thực sự này.
- Ví dụ như thế nào? Gã khổng lồ hỏi hắn với một giọng mang tính giảng hòa hơn.
- Tao chưa biết. Tao đã bảo là cần phải suy nghĩ cái đã cơ mà.
- Ừ…
Gã nọ giờ tỏ ra nghi ngờ.
- Mày nghi ngờ tao à? Jeremy hỏi.
Giọng hắn chắc nịch, lời đe dọa rõ ràng.
- Không… Thực ra… Tại những gì mày nói với tao hôm qua.
- Nghĩa là sao?
- Thì mày bảo vào ngày sinh nhật mày sẽ rất kỳ lạ, rằng tao phải canh chừng mày, với lại…
Gã ngừng lời và nhìn Jeremy như thể gã vừa mới phát hiện ra hắn ở trong phòng giam của mình.
- Sao, mày không nhớ đã nói gì với tao hôm qua à?
Jeremy nghĩ nhanh. Gã kia đang trừng trừng nhìn hắn và chờ đợi một câu trả lời hợp lý.
Tên bạn tù vừa hé mở cho hắn một số điều mà hắn phải nhanh chóng xử lý. Jeremy kia đã đảm bảo cho tương lai của mình bằng cách giao cho thằng khổng lồ này việc phải để ý đến suy nghĩ của hắn. Hắn đã giao cho gã kia một án mạng vào đúng ngày sinh nhật hắn và cảnh báo với gã về con người mà hắn sẽ trở thành. Việc này được tổ chức một cách có chiến lược nhưng cách làm thật vụng về, bởi thằng bạn tù của hắn không đủ mánh khóe để khiến hắn lo lắng.
- Tốt. Tốt. Tuyệt lắm. Tao thấy mày đã nắm rõ những gì mà tao đã nói với mày về những cơn hoang tưởng vào ngày sinh nhật của tao. Tao có thể trông cậy vào mày. Nhưng chưa phải sinh nhật năm nay. Nếu tao lên cơn thì mày đã nhận ra rồi.
Gã kia làu bàu. Cho đến lúc này, những gì hắn hiểu được đủ để hắn bình tĩnh lại. Jeremy phải tranh thủ tình thế có lợi này. Hắn biết mình đang chơi ván khó nhất.
- Rồi, đây là điều tao muốn nói đây. Tao thấy bảo rằng phòng tập sẽ có người đến thăm vào mấy ngày tới. Bọn cai ngục nghĩ có thể xuống để kiếm chỗ giấu hàng. Việc đó phải diễn ra vào lúc…
- Sao mày biết chuyện đó? Mày có bao giờ ra khỏi phòng giam đâu!
Jeremy phải tiếp tục tiến lên trên mảnh đất mà kẻ khác trong chính hắn đã rải mìn lên đó.
- Mày thấy chưa rõ à?
- Bọn cai ngục à? Đúng là bọn này ưu ái mày thật. Thế kế hoạch của mày thế nào?
- Bọn mình sẽ đợi. Xem xem mọi việc tiến triển thế nào, tính đến cả những giải pháp đề phòng khác. Sau đó sẽ ra tay.
- Ừ… Nhưng mày có biết sẽ có nguy cơ không. Bọn chúng đứng ngay gần mày. Bọn chúng sẽ không đợi đâu.
- Tao chấp nhận rủi ro.
- Thế còn cái kế hoạch khác của mày là gì?
- Tao sẽ nói với mày khi nào tất cả sẵn sàng. Tao cần suy nghĩ thêm nữa.
- Mày sẽ làm được. Giờ tao làm việc cái đã. Nhưng mình phải nói lại chuyện này khi tao về đấy.
Jeremy thấy nhẹ nhóm vì được giải thoát khỏi sự có mặt đầy đe dọa này. Cuối cùng thì hắn cũng sắp được ở một mình, không cần ngẫu hứng đóng vai một nhân vật mà lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác. Đi vào cái cốt lõi thôi.
Khi gã đàn ông đã đi khỏi phòng giam, Jeremy đứng dậy, hít thở thật sâu và bắt đầu đi tới đi lui trong không gian chật hẹp. Hắn làm gì bây giờ? Hắn phải xoay xở thế nào để tiếp tục tìm kiếm đây?
Nếu cái bẫy mà hắn giăng ra cũng đã nhốt lại cả phần tốt nhất trong con người hắn thì hắn không thể hối tiếc. Hắn đã cài bẫy được phần xấu xa nhất để Victoria và các con của hắn được yên thân.
Khi hắn đang nghiền ngẫm những suy nghĩ trước bốn bức tường trắng toát của buồng giam thì cánh cửa mở ra, một tên cai ngục cao gầy đứng đó. Trên gương mặt xám ngoét, hốc hác, hai hố mắt thâm sâu hoắm và bộ râu đen sì tạo thành một mặt nạ người chết.
- Nào, Jeremy, hôm nay thế nào rồi?
- Khỏe.
- Có xem trận Paris hôm qua không? Ghi hai bàn trước Marseille ngay trên sân khách nữa chứ! Nhục thật!
Jeremy bằng lòng với cái gật đầu đủ vô nghĩa khiến người ta muốn hiểu thế nào thì hiểu.
Quan hệ giữa hắn với tên cai ngục này thế nào nhỉ? Liệu hắn có tranh thủ được sự thân thiện mà tên cai ngục này thể hiện không?
- Mày muốn tao để lại tờ thể thao L’Equipe không?
Jeremy cầm tờ báo và liếc nhanh. Ngày 8 tháng Năm năm 2018! Sáu năm! Hắn đã ở đây được sáu năm rồi! Hắn quyết không để lộ cảm xúc. Hắn phải tỏ ra thanh thản nhất có thể để suy nghĩ và hành động.
Hắn bỗng có một sáng kiến.
- Tao nhờ mày một việc được không?
Hắn bắt chước người đối diện cũng xưng hô tao mày. Nhưng tên cai ngục không phản ứng gì.
- Nếu mà không hỏi tao chìa khóa…
Hắn định nở một nụ cười, bắt chuyện, nhưng ngừng bặt khi thấy vẻ mặt nghiêm trọng của Jeremy.
- Tao muốn biết ở đây có… một vị giáo sĩ, một tu sĩ Do Thái nào không?
-Một giáo sĩ? Mày quan tâm đến Chúa từ bao giờ thế? Mày nghiêm túc không đấy? Hắn mỉm cười hỏi.
- Có.
- Mẹ kiếp, mày làm tao sợ đấy. Không ai đoán được ý mày bao giờ. Mày muốn gì ở lão thầy tu? Tại tao không thể tin được là mày muốn thú tội hay mấy trò vớ vẩn kiểu ấy đâu.
- Tao chỉ muốn hỏi vài câu thôi.
- Hừm. Có đấy, nếu mày đã nói thế. Mày đúng là kỳ quặc! Một giáo sĩ Do Thái… Sáng thứ Sáu ông ta đến. Mai tao sẽ đăng ký cho mày.
- Ngày mai ư? Không, tao muốn gặp ông ta hôm nay cơ, Jeremy phản ứng gay gắt.
- Ê, Jeremy, bình tĩnh nào? Có thể mày đã trở thành một người quan trọng ở cái nhà tù này, nhưng có có quy định, giờ giấc chứ…
- Không có cách nào khác mời ông ta đến đây hôm nay sao? Jeremy hỏi một cách cầu thân.
- Không. Không có cách nào.
Jeremy thất vọng. Hắn phải gặp một giáo sĩ trước tối nay kia.
- Thế vị giáo sĩ khác thì sao? Tao có thể gặp một giáo sĩ khác hôm nay được không?
- Mày có đăng ký vào chương trình gặp gỡ đâu. Hơn nữa mày có bao giờ làm thế đâu.
- Mày ghi tên cho tao được chứ?
Hỏi câu đó thì hắn có mất gì đâu?
- Tất nhiên, tên cai ngục trả lời. Nhưng… thực lòng tao không hiểu nổi. Khốn thật, mày làm sao thế? Trước đây bao giờ mày cũng từ chối gặp tu sĩ, còn bây giờ lại không thể đợi được hai mươi tư tiếng hay sao? Mày quả là đặc biệt Jeremy ạ. Rất đặc biệt.
- Thì thế nên tao mới hấp dẫn! Jeremy vừa trả lời vừa cười và tên cai ngục nhanh chóng cười nối theo ngay.
Tên cai ngục đã mắc mưu, Jeremy tiếp tục gí thêm những quân bài khác.
- Tao muốn mày gọi điện cho một giáo sĩ mà tao biết rồi bảo ông ta đến đây.
- Cái gì? Mày đùa à? Thế mày có muốn tao đánh xe mời lão ấy đến đây nữa không? Ê, Jeremy đừng có được đằng chân lân đằng đầu nhé! Tao có phải đầy tớ của mày đâu! Trong hội… của bọn mình tao đã giúp mày khá nhiều rồi đấy!
Jeremy tấn công lại.
- Đưa cho tao tờ L’Equipe mà là giúp à! Đây là tao nhờ mày giúp một việc thật sự đấy.
Tên cai ngục bối rối và suy nghĩ giây lát.
- Thôi được, mày có số không? Hắn thở dài chấp nhận.
- Không. Mày phải gọi đến nhà thờ phố Pa quận 4 và xin gặp thư ký của ông ấy. Tao không biết tên ông ta. Bảo rằng tao là kẻ đã đến gặp ông ta hôm… mồng 8 tháng Năm năm 2012 và bị cảnh sát tóm. Nói với ông ta rằng tao muốn gặp ông ta ngay hôm nay, tao cần nói chuyện, việc này rất gấp.
Lão giáo sĩ có thể không còn giữ chức đó nữa. Nhưng Jeremy vẫn phải thử và tuân theo linh cảm của mình. Tung ra quân bài cuối cùng hắn có.
- Đấy là tất cả thông tin mày có à? Thôi được, để tao xem xem làm được gì nhé. Nếu tao không có tin gì tức là hỏng việc nhé.
Khi tên cai ngục đi khỏi, Jeremy đi tới đi lui trong phòng.
“Ba mươi bảy tuổi! Mình đã ba mươi bảy tuổi” hắn nhắc đi nhắc lại để thuyết phục chính mình.
Hắn đưa tay lên hai má, vuốt quanh mắt và nhận thấy da mình giờ đã yếu hơn trước. Rồi hắn xoa nhẹ thân người, vén áo lên và thấy những hình dáng mà hắn chưa từng được biết: bụng dưới hơi phệ xuống, hai bên hông tích mỡ. Lần đầu tiên hắn nhận thức được việc mình đã già đi. Ấy vậy mà hắn có cảm tưởng chỉ vừa qua tuổi hai mươi cách đây có vài ngày.
Hắn mở chiếc tủ nhỏ kê sát giường mà mất vài giây để kiểm tra ít đồ đạc nghèo nàn trong đó. Một vài bộ quần áo, một chai xà phòng, một đôi giày, hai cuốn tạp chí thể thao. Hắn tìm kiếm mối liên hệ với thế giới bên ngoài, với quá khứ, với cả hiện tại. Hắn bắt đầu quen với việc lục lọi, kiếm tìm những ý nghĩa đã mất.
Trong túi áo khoác treo ở cánh cửa hắn tìm thấy ba bức thư. Bức gần đây nhất đề ngày 12 tháng 3 năm 2017. Hắn tức tối khi không thấy bức thư nào của Victoria, nhưng rồi cuối cùng vui sướng vì việc đó: kế hoạch của hắn đã thành công, nàng đã thoát xa khỏi hắn để được yên thân một cách sốc nhất. Cả ba bức thư đều do Clotilde gửi. Clotilde mà hắn không quen biết, Clotilde mà hắn không hề yêu. Clotilde, bạn của Victoria. Clotilde, vợ người bạn thân nhất của hắn. Bồ của hắn.
Jeremy,
Cuối cùng em quyết định viết thư cho anh, sau khi đã suy nghĩ rất nhiều về những sự kiện gần đây. Thái độ của anh vào ngày sinh nhật anh… Em thực sự tức giận. Anh không là anh, đúng ra là không phải là người em biết và người em yêu. Đó là những gì em hiểu ra khi nghe người em yêu. Đó là những gì em hiểu khi nghe người ta kể anh tự thú tội tàng trữ ma túy. Sao anh lại làm thế? Đống ma túy ấy ở nhà anh để làm gì? Còn Piere thì ít ngạc nhiên hơn khi biết anh bị bắt. Anh ấy cho rằng đó là “kết cụ bình thường của một chuỗi những ngày buông thả”. Anh ấy vẫn nhớ về người bạn là anh trước kia, và là người mà anh ấy đã mất.
Anh ấy chăm sóc Victoria nhiều. Chị ấy không biết phải làm sao. Việc anh vào tù khiến chị ấy đau khổ. Chị kể rằng người cố tìm cách gặp chị hôm mồng 8 tháng 5 năm 2012 chính là Jeremy mà chị ấy đã yêu. Rằng anh ta đã đầu thú để giúp chị ấy giải thoát. Tất cả chuyện này thật kỳ lạ. Em yêu người mà chị ấy căm ghét. Chị ấy yêu người bị bệnh mất trí và chỉ tỉnh táo một cách bất ngờ. Một kiểu đàn ông trong sạch và đích thực cứ khoảng mười năm mới lộ diện một vài giờ bằng cách lột đi tấm khăn che đậy nhân cách đồi bại của mình. Đối với em, anh bị bệnh là khi anh đóng vai kẻ si tình điên loạn đến mức có thể tự thú tội!
Em không biết anh chuẩn bị cho việc hầu tòa thế nào. Pierre nói anh sẽ khó mà biện hộ với chứng bệnh điên của mình. Trong quá trình điều trị nội trú, anh đã chối là mình bị điên. Anh đã cung cấp nhiều bằng chứng để chứng minh cho trạng thái tinh thần của mình. Còn Victoria sẽ dùng chúng để chống lại anh.
Đây sẽ là một phiên tòa kỳ quặc, mỗi bên sẽ bảo vệ quan điểm trái ngược với quan điểm của chính mình trong thời gian anh đi điều trị nội trú.
Anh có thể trông cậy vào em.
Em nhớ anh.
Clotilde
Lá thư này đề ngày 3 tháng 6 năm 2012. Bức thư thứ hai được viết hai năm sau đó.
Jeremy.
Chắc hẳn anh sẽ điên tiết lên khi nhận được thư em. Không sao, tại vì em cần phải viết thư cho anh. Việc không hiểu nổi tại sao anh lại từ chối mọi liên hệ với em thực sự là một nỗi đau.
Khi nghe anh bị kết án, em đã hoàn toàn suy sụp. Lần này, trước những kết luận của bác sĩ tâm lý, sự thông minh của anh không đủ để bào chữa nữa. Trái lại, nó khiến ông biện lý tức giận. Ông ấy hiểu ra rằng nó là một vũ khí đáng sợ giúp anh đóng kịch với những người xung quanh. Về điểm này em không nói khác đi được. Ông ta cho rằng những lời thú tội bất ngờ của anh nhằm đưa anh vào tù để tránh được một vụ thanh toán trước khi tự giải thoát cho mình bằng cách dựa vào hồ sơ bệnh án tâm thần.
Pierre bảo việc anh kháng an không có cơ may nào thành công. Em hy vọng anh biết nên làm điều gì.
Em đã không chia tay với Pierre. Lúc này thì chưa. Chưa thể chừng nào em vẫn thấy đau khổ. Chắc chắn anh sẽ cho rằng em làm thế là ích kỷ, thậm chí là thủ đoạn, anh có lý. Em không có can đảm ở một mình. Thỏa thuận giữa bọn em vẫn thế, sự có mặt của em để đổi lấy thoải mái cho anh ấy.
Pierre tiếp tục chăm sóc Victoria. Còn em gần như không gặp chị ấy nữa. Em lấy cớ là ghen tuông để tránh mặt. Đúng là em không biết liệu tình bạn mà Pierre dành cho chị Victoria là do lòng thương hại hơn hay là tình yêu hơn nữa. Chị ấy khá hơn nhiều. Chị ấy đã thoát được cơn trầm cảm và quay trở lại làm việc. Cách đây một tháng chị ấy có đem bọn trẻ đến nhà ăn trưa. Hai đứa rất yêu quý Pierre và thậm chí còn gọi là chú. Về phần em, em kiên quyết từ chối được gọi là dì Clotilde! Mà dù sao đi chăng nữa em tin chúng cũng không ưa gì em.
Thomas rất dè dặt. Nó đóng vai một người đàn ông nhỏ bé ấp ủ mẹ và em trai mình. Nó đã lớn lên nhiều và giống Victoria nhiều hơn. Simon thì sôi nổi hơn và là một người vui vẻ. Thật khó cho em phải nhìn nó, vì nó giống anh quá. Còn Victoria là một người mẹ tuyệt vời. Chị ấy sống vì con và nhờ con. Pierre từng định thuyết phục chị ấy đi bước nữa, đi chơi, gặp gỡ bạn bè, nhưng chị ấy không muốn nghe gì hết. Thực ra hai người đó sinh ra là để sống với nhau. Họ giống nhau nhiều lắm và rất khác với anh và em.
Ngày mai em sẽ tiếc vì đã viết bức thư này. Em biết anh vẫn ghê sợ những lời tâm tình yêu đương và có khi lại còn ghét em hơn nữa sau khi đã đọc nó. Nhưng anh phải biết rằng em không nói bất cứ điều gì về những gì mà em đã trải qua và đã cảm nhận được. Trong bức thư này chỉ có tình cảm nhất thời thôi. Đó là mong muốn gợi lại một số hình ảnh về em… trong tận sâu thẳm tâm hồn anh.
Em nghĩ về anh.
Clotilde.
Bức thư thứ ba được gửi tới cách đây hai tháng.
Jeremy,
Bức thư của anh khiến em vô cùng ngạc nhiên. Sau bao nhiêu năm tháng thờ ơ, giờ em mới trở lại là một trong những mối bận tâm hàng đầu của anh! Lý lẽ anh đưa ra rất thuyết phục: anh từng muốn cắt đứt quan hệ để tránh cho em phải chịu những sóng gió của vợ một người tù. Tâm hồn anh thật cao quý, anh Jeremy. Nhưng em thật lòng nghĩ rằng trí thông minh của anh đã mòn đi vì phải cọ xát quá nhiều với bốn bức tường phòng giam. Có đúng anh nghĩ em là một đứa khờ khạo? Anh tin em thực sự ngu ngốc thế ư?
Anh cần em phải không? Em đã từng cần đến anh, Jeremy ạ. Em phát hiện ra mình yêu anh khi em tưởng mình chỉ là một kẻ đồng lõa. Em thích cách anh nhìn nhận về cuộc sống, xem nó như một thử thách mà thời gian mang đến trước sự thèm khát của con người. Em thích kiểu anh cho rằng bằng cách tự giải thoát khỏi mọi thành kiến đạo đức, anh được sống gấp gáp từng phút như thể nó khiến anh quên hết những phút trước đó mặc dù chúng cũng đã tuyệt diệu là thế.
Em là kẻ mà anh đã sử dụng để vượt qua gánh nặng của tình bạn, lòng chung thủy, quy tắc xã hội và đạo đức lề thói. Em đã thích khi được là người giúp anh sống với sự tự do nổi loạn. Nhưng em đã tự dối lòng. Em yêu anh. Yêu một cách cổ điển và tầm thường.
Anh đã hiểu được những điều đó, và nó khiến anh viết lá thư tội nghiệp trong đó anh sử dụng khá thành thục sự ủy mị giả tạo của tình yêu. Anh sẵn sàng lừa dối bản thân để phục vụ cho âm mưu của mình.
Em tin rằng điều khiến em đau khổ nhất là khi nhận ra mình yêu anh, em cũng giống như những kẻ khác chỉ được uống một thứ si rô tình yêu giả tạo, một thứ bùa bả để say rồi biến thành một công cụ mà thôi.
Vậy đấy, Jeremy, em không còn yêu anh nữa. Em thấy anh thật đáng thương khi ở đằng sau song sắt nhà tù vẫn đang cố gắng thêu dệt nên những lời lẽ để tung nó ra như một sợi dây thừng tết dối từ phía bức tường bên kia.
Bởi em không còn yêu anh nữa nên em sẽ giúp anh.
Khi yêu anh, em hài lòng khi biết anh bị giam cầm với một niềm vui duy nhất là nhớ lại những kỷ niệm đẹp nhất, và em không phải là kẻ quá kiêu ngạo khi cho mình đứng đầu bảng trong những ảo tưởng của anh, một người đàn ông luôn bị tình dục giày vò.
Nhưng hôm nay, em có thể bình tâm nghĩ đến ngày anh ra tù mà không nghĩ đến nỗi nhục anh sẽ ban phước cho em, cũng như không đếm xỉa đến những ả nào khác sẽ chiếm lấy vị trí ấy của em trong vòng tay anh.
Khi đã được tự do thì anh sẽ thỏa sức hành động như ý muốn. Cũng có thể em lại chấp nhận làm tình với anh. Hoặc em không hề muốn nữa. Nhưng đó sẽ là quyết định của em chứ không phải một câu trả lời cho những ham muốn của anh.
Và anh thấy đấy, thật ngược đời khi giờ đây em có thể giúp anh thoát ra khỏi nhà tù.
Tình thế của em giúp em có được những thông tin quý giá. Victoria và Pierre sẽ là bằng chứng chống lại anh trong phiên xét xử lần tới. Em biết những lý lẽ của họ. Em đã thân với Victoria hơn một chút kể từ lễ trưởng thành cho Thomas. Em đã giúp chị ấy chuẩn bị và việc đó đã giúp chúng em xích lại gần nhau. Chị ấy đã tâm sự với em và sẽ còn chia sẻ với em cả những “chuyện con gái” nữa. Em tiếp tục chịu đựng tất cả chuyện đó, đủ lâu để thấy mình có đủ sức mạnh để đi đến quyết định rằng sự thoải mái và sự lười biếng không thể biện minh cho tất cả. Đủ lâu để tin rằng hạnh phúc có thể tồn tại dưới một hình thức khác với em, ở một nơi khác.
Phản bội họ bằng cách cung cấp cho anh những thông tin giúp ích cho âm mưu của anh sẽ là cách tốt để đẩy nhanh các sự kiện. Hơn nữa em không hề ngần ngại khi làm việc đó. Em đã vứt những mảnh đạo đức vương vãi của con người mình đâu đó giữa những tấm ga trải giường của anh rồi.
Em sẽ suy nghĩ về lời đề nghị em đến thăm anh. Em sẽ quyết định xem có nên giúp anh hay không trên cơ sở những đòi hỏi và trông đợi của em thôi.
Clotilde.
Sau khi đã khám phá ra những chuyện tình cảm của hai người xa lạ, chỉ có ba thông tin là liên quan trực tiếp đến hắn.
Victoria đã không đi bước nữa. Nàng không muốn. Chưa muốn. Hắn không rõ liệu sự dễ chịu mà thông tin này đem lại cho hắn có đáng mừng hay không, nhưng đó là sự thật.
Việc Clotilde chấp thuận đồng lõa với hắn, sẵn sàng làm hại Victoria và các con hắn trở thành một vấn đề lớn mà hắn phải nghĩ đến ngay khi tìm lại hoàn toàn khả năng suy nghĩ của mình.
Tạm thời, khả năng suy nghĩ của hắn bị ảnh hưởng bởi một hình ảnh và ngôn từ đã xóa nhòa những thứ khác.
Thomas đã làm lễ trưởng thành. Nó đã bước sang tuổi mười ba, và theo quy tắc tôn giáo thì nó đã trưởng thành. Mặc dù hắn chưa từng theo một tôn giáo nào, nhưng hắn vẫn coi lễ trưởng thành là một nghi lễ quan trọng, một giây phút rất đặc biệt trong đời sống của một người con trai. Với hắn lễ rước lần đầu của chính mình thật quan trọng. Hắn nhớ lại cảm giác ngày hôm đó như được bước vào thế giới của người lớn. Hắn tưởng tượng Thomas đang quấn dải bùa quanh tay. Thằng bé nhìn ánh mắt tự hào của mẹ nó cũng như ánh mắt ganh tị đầy lo âu của em trai khi nghĩ đến lượt mình. Hắn nhìn thấy hết ngay cả khi trong những câu chuyện tưởng tượng ngắn ngủi ấy, Thomas vẫn mang gương mặt của một đứa trẻ lên bảy. Chỉ còn thiếu một chi tiết duy nhất nhưng đủ để làm mất đi vẻ đẹp và không cho những người thân của hắn tận hưởng hạnh phúc tuyệt đối: là hắn, người bố. Hắn đã không tham dự lễ trưởng thành của con trai hắn. Hắn không ở đó để chia sẻ với Victoria niềm hạnh phúc được bước sang một giai đoạn quyết định trong câu chuyện của hai người. Những thời khắc quan trọng ấy của hắn đã bị đánh cắp và giờ hắn cảm thấy rất đỗi khổ sở. Hắn nghĩ rằng giờ đây Simon cũng sắp bước sang tuổi mười ba. Đến lượt nó cũng sẵn sàng làm nghi lễ trưởng thành. Và hắn, bố nó, sẽ vắng mặt. Những cuộc hẹn lỡ làng đó đã loại hắn ra khỏi thực tại.
Hắn định để mặc cho nỗi đau khổ xâm chiếm, định khóc ngay trong xà lim. Định lao vào tường cho đến lúc không còn biết gì nữa. Hắn tìm kiếm những hình ảnh khác, những xúc cảm khác đủ để mở toang cổ họng và bật ra tiếng khóc. Nhưng hắn rã rời và không thể diễn tả được nỗi đớn đau trong lòng. Cuộc sống của hắn dần dần tắt lịm, và hắn không đủ sức lực cần thiết để nói lên nỗi thất vọng của mình.
Hắn ăn trưa cùng tên bạn tù trong phòng giam. Gã tên là Vladimir Bernikoff, người Nga. Về phòng gã đã báo cáo với hắn. Không có nơi nào khác ngoài phòng tập để hạ thủ tên Jeff, thằng em trai của Stako. Và ngày thuậnnhất là thứ Sáu. Ngày hôm đó Jeff chỉ có một thằng đồng bọn đi cùng, những thằng khác còn phải lo bán lại chỗ hàng mà chúng mang được theo vào đây.
Jeremy thấy hài lòng vì không phải chọn giữa việc đương đầu với kẻ thù và một lời giải thích khó khăn với thằng bạn tù. Hắn không hiểu làm thế nào Jeremy kia lại có thể đưa ra một quyết định ghê gớm thế. Dù gì thì ngày mai hắn cũng phải ra tay.
Tên cai ngục để râu bước vàng phòng giam lúc 16 giờ.
- Ra phòng khách, tên này nháy mắt nói với hắn.
Jeremy gật đầu cảm ơn. Vladimir ném cho hắn một cái nhìn thắc mắc, ngạc nhiên vì chuyến viếng thăm mà hắn không hề được nghe nói đến trước đó.
Khi tên cai ngục khóa cửa lại, gã nói với Jeremy.
- Phải nói thật là không đơn giản chút nào. Nhưng mày gặp may đấy, tao cũng nhanh chóng gặp được ông ta. Nhưng khi nghe tao giải thích…ông ta không mặn mà gì lắm. Ông ta không hiểu mày muốn gì. Tao đã phải kêu gọi đến lòng từ bi của Chúa cơ đấy… à mà lòng từ bi của Chúa Do Thái chứ, tao bảo chuyện này rất gấp và tao không thể giải thích được. Cuối cùng thì ông ta nhượng bộ rồi. Ông ta còn nhớ rõ về mày.
Jeremy thấy bồn chồn, sốt sắng nhưng cũng lo ngại. Cuộc gặp gỡ này chất chứa mọi hy vọng của hắn.
Hắn được giao cho một tên cai khác và đi dọc theo một hành lang dài toàn sắt thép trông thật buồn thảm. Hắn được dẫn đến một căn phòng có rất nhiều tù nhân đang xếp hàng dài chờ đợi đến lượt mình. Một số tên khẽ gật đầu chào hắn, một số đứa nhìn hắn gườm gườm như dò xét, còn một số khác thì tránh mặt.
Hắn nhanh chóng được gọi tên.
Người ta chỉ cho hắn một buồng. Hắn ngồi vào và chờ đợi khoảng mười giây, mắt nhìn vào tấm kính hắt lại một thứ ánh sáng nhợt nhạt đến nỗi không nhận ra nó giống cái gì. Tuy nhiên hắn tin là nhìn thấy được hai hố mắt thâm sâu của mình. Đang cố dò xét hình ảnh mờ ảo đó thì hắn thấy một gương mặt với bộ râu rậm xuất hiện trước mặt. Cặp mắt đen và lanh lợi đang nhìn hắn vừa xét hỏi, vừa cảm thông, vừa lịch sự. Đúng là người đàn ông đã từng định giúp hắn trước cửa nhà thờ.
Không thấy hắn phản ứng, vị tu sĩ cất lời chào.
- Chào anh… Tôi là Abraham Chrikovitch. Anh… cho gọi tôi đến…
- Tôi rất cảm ơn ông đã đến đây nhanh chóng.
- Chuyện thường thôi. Thực ra tôi hơi ngạc nhiên.
- Ông còn nhớ tôi không? Jeremy hỏi.
- Tôi vẫn còn nhớ rất… nói thế nào nhỉ… đặc biệt về cuộc gặp gỡ giữa anh và tôi. Khi đó trông anh thật… thật bất hạnh. Thật bấn loạn. Tôi đã báo cảnh sát và khi biết rằng anh đã khai báo có tàng trữ thuốc phiện ở nhà, tôi đã… lên án mình. Tôi tự nhủ có lẽ anh đến chỗ chúng tôi để nói về chuyện ấy và tìm cách thoát ra khỏi bước đi lầm lỗi đó. Tôi đã bị dằn vặt ghê gớm. Nhưng lúc đó trông anh… sôi sục quá nên tôi không thể để anh lại gần giáo trưởng được. Vào thời điểm nhiều biến động như thế chúng tôi phải thận trọng. Và tôi đã kể mọi chuyện ở phiên tòa… tôi nghĩ việc đó đã giúp được anh.
- Tôi sẽ giúp ông thanh thản. Tôi không đến vì chuyện đó. Tôi quyết định tự thú lúc đó. Tôi đến gặp giáo trưởng vì một chuyện khác. Và cũng vì chính lý do ấy mà tôi mời ông tới đây hôm nay.
Vị tu sĩ nở một nụ cười nhẹ nhõm khi biết rằng mình có mặt ở đây không phải là để tranh luận về buổi tối đáng nhớ ấy trước khi lại trở nên rầu rĩ.
- Nhưng nếu anh đã muốn vào đây thì sao tại phiên tòa anh lại biện hộ rằng mình không có tội? Tôi không hiểu nổi.
- Có thể ông sẽ giúp tôi trả lời câu này. Tôi báo trước câu chuyện của tôi có thể rất lạ lùng. Tôi yêu cầu ông từ bỏ mọi suy luận, nghe tôi nói và chỉ trả lời bằng tình cảm và hiểu biết tôn giáo của ông thôi.
- Lý lẽ của tôi là thành quả từ những hiểu biết về tôn giáo. Tôi nghe anh đây.
Vị thầy tu nhíu mày, tiến sát về cửa kính, vuốt tay nhẹ nhàng rồi chống tay trước cằm, tập trung tuyệt đối vào đôi môi của người đang nói chuyện kỳ lạ này.
Jeremy kể lại câu chuyện một cách tỉ mỉ. Với hắn, câu chuyện này chỉ diễn ra vài ngày trước đây và mỗi chi tiết vẫn còn chất hung hăng của những sự kiện trước. Cảm xúc vẫn còn khiến cho làn da hắn run lên. Câu chuyện của hắn thiếu nhất quán và đôi lúc thúc hắn thôi không kể nữa. Nhưng việc Abraham Chrikovitch chăm chú lắng nghe đã khuyến khích hắn tiếp tục. Thỉnh thoảng, ông ta quay đi nhìn về một nơi xa xăm như để kiểm nghiệm một suy nghĩ cụ thể nào đó, rồi quay lại nhìn vào mặt Jeremy.
Kể xong, Jeremy thả lỏng người, hít thở và quan sát vị tu sĩ. Ông này vẫn ngồi im, dường như không biết là Jeremy đã ngừng nói. Rồi ông ta đứng lên, cắn môi như đang tìm từ để diễn đạt.
- Tại sao anh lại gọi cho tôi? cuối cùng ông ta hỏi.
Jeremy trông chờ một ý kiến hơn là một câu hỏi.
- Thì ông là tu sĩ duy nhất mà tôi biết.
- Ý tôi là sao lại là một tu sĩ?
- Tại tôi nghĩ lô gíc của con người không thể trả lời được những câu hỏi của tôi.
- Anh không tin vào niềm tin và lý trí?
- Thực ra…
Vị tu sĩ ngắt lời.
- Tôi không thể giúp anh. Tôi không theo thuyết thần bí. Tôi là một con người của Giáo luật. Tôi cố gắng xây dựng con người mình trên cơ sở vững chắc là kinh Torah. Tôi không phải là một nhà truyền đạo viển vông bị choáng ngợp trước lượng kiến thức rộng lớn khám phá được và nghĩ rằng mình nắm giữ những chìa khóa khác ngoài những chìa khóa mà Giáo luật trao cho chúng tôi.
Ông ta tìm cách nói tiếp, rồi nhún vai để nói rằng ông ta không thể làm được gì.
- Anh rất bối rối trước câu chuyện của mình?
- Ông không tin tôi sao?
- Tôi không nghi ngờ những điều anh nói. Rất nhiều điều có thể xảy ra trên thế gian này. Tôi đã từng nghe rất nhiều chuyện đáng ra được coi như truyện ngụ ngôn hoang tưởng và tin rằng có nhiều chuyện trong số đó là có thật. Nhưng tôi không phải người mà anh cần.
Ông ta ngừng một lúc và để tay dưới bộ râu một cách chậm chạp như thể lôi từ trong miệng mình ra những lời lẽ khác.
- Tại sao anh lại cho rằng câu trả lời có liên quan tới tôn giáo? Tôi nghĩ anh chưa bao giờ quan tâm đến đạo Do Thái cả.
- Đó là linh cảm. Câu chuyện của tôi dường như gắn với những sự kiện liên quan đến tôn giáo. Có người đàn ông ấy cầu nguyện, những câu kinh psaume…
- Thế là đủ ư? Có thể là do mơ mộng hoặc mất tự chủ thì sao?
- Không. Những lúc như thế tôi sống thật sự. Tôi nhìn thấy ông ta! Tôi nghe thấy ông ta! Ông ấy đọc kinh kaddish. Rồi thì cuộc đấu tranh giữa con người đang tàn phá cuộc sống của tôi và con người đôi lúc tỉnh lại và nhận thấy những thảm hoạ là một cuộc đấu tranh xung quanh những giá trị rất khác nhau.
- Nhưng anh thiên về giá trị nào hơn? Anh đã định kết liễu đời mình, điều đó có nghĩa là anh không có giá trị căn bản, đó chính là tôn trọng cuộc sống mà Chúa trời đã ban tặng cho anh.
- Tôi biết đó là một sai lầm nghiêm trọng. Sai lầm của một cậu bé mất hết hy vọng.
- Thôi được, tốt lắm. Nhưng tôi muốn anh trao đổi với những thầy tu chuyên về kiểu suy nghĩ này hơn. Tôi có biết vài người. Tôi có thể giới thiệu cho anh nếu anh muốn.
Jeremy cảm thấy tình huống đang vuột khỏi tầm kiểm soát. Người mà hắn đang nói chuyện lúc đầu tỏ ra quan tâm, giờ đang muốn trốn chạy.
- Tôi không có thời gian! hắn kêu lên. Tôi không biết ngày mai tôi sẽ như thế nào, không biết khi nào thì lý trí của tôi quay trở lại. Vậy thì ông xếp hẹn làm sao đây? Cố giúp tôi đi! Làm ơn mà!
Abraham Chrikovitch tỏ ra khó chịu. Lời cầu khẩn này khiến ông ta ngao ngán. Nhưng ông ta biết làm gì? Ông ta quá biết tầm quan trọng của lời nói, của lời phán xét vội vàng để mong có một thế cân bằng tạm bợ trên sợi dây lý trí không phải của ông ta.
- Nghe này, tôi gợi ý thế này vậy. Tôi sẽ hỏi anh vài câu để làm sáng tỏ vài điều. Lúc về tôi sẽ gọi điện cho một vị thầy tu chuyên gia về vấn đề này. Rồi sẽ gọi lại cho anh được không?
- Thế nếu ông không gặp được ông ấy thì sao?
- Đúng đấy. Cũng có thể tôi không tìm được ông ta.
- Nếu thế thì tôi lại đi lạc lối dưới một con người khác mà không có câu trả lời! Jeremy thất vọng thốt lên.
- Thế này nhé. Dù không muốn làm anh buồn phiền, nhưng tôi không nghĩ là những câu trả lời đó có thể giúp anh thay đổi tình thế trong vài giờ. Hơn nữa cũng còn phải tính đến khả năng ông ấy không muốn trả lời nữa chứ. Hoặc là không muốn trả lời ngay. Nhưng đây là điều duy nhất tôi có thể giúp anh.
Lời nói kiên quyết của vị thầy tu khác hẳn với khuôn mặt dịu hiền của ông ta. Jeremy im lặng một lúc.
- Tôi không biết liệu khi nào thì lại tỉnh táo như lúc này. Nếu tôi không có được câu trả lời trước tối nay, thì làm sao ông có thể quay trở lại gặp tôi khi tôi… tỉnh lại?
Abraham Chrikovitch ngước mắt nhìn vô định vào không gian phía sau bức tường. Ông ta lại vuốt râu, và vài giây sau, ông ta đáp:
- Tôi đề nghị thế này: khi nào tỉnh lại anh hãy liên lạc với tôi. Tôi sẽ sẵn sàng. Khi đó tôi đã nhờ được hai hoặc ba vị giáo trưởng có thể đưa ra câu trả lời cho những câu hỏi này nói lên ý kiến của họ.
- Đồng ý. Nhưng đừng quên thời gian không ủng hộ tôi đâu. Tôi xin ông đấy, cố gắng thu thập càng nhiều thông tin càng tốt trước tối nay nhé.
- Tôi sẽ làm mọi cách. Còn bây giờ, để tôi có thể kể cho những người trong đạo của tôi một cách chân thực câu chuyện về… cuộc phiêu lưu của anh, hãy nói cho tôi về người đàn ông và những câu nguyện của ông ta. Trông ông ta như thế nào? Lời nguyện ông ta đọc là gì? Anh có nhắc đến kinh kaddish.
- Đó là một ông già. Khoảng bảy mươi tám mươi tuổi gì đó. Ông ta mặt hốc hác, râu trắng và thưa. Đôi mắt lồi ra, u buồn và không có sức sống. Giống như gương mặt ông ta ở một nơi khác vậy. Chỉ có miệng ông ta là còn cử động. Giọng ông ta thì khủng khiếp, như tiếng rên rỉ. Tôi nghe thấy ông ta đọc kinh kaddish, một trong những câu cầu nguyện mà tôi biết. Tôi nghe thấy ông ta đọc kinh kaddish, một trong những câu cầu nguyện mà tôi biết. Trước đây bố tôi vẫn hay đọc nó vào ngày giỗ em gái tôi.
- Thế ông ta xuất hiện khi nào?
- Buổi tối, lúc tôi bắt đầu ngủ.
- Ông ta đã nói với anh lần nào chưa?
- Rồi, lần đầu tiên. Ông ta cầu nguyện rồi cúi xuống tôi. Ông ta bảo: “Không nên làm thế.” Rồi nhắc lại nhiều lần “Cuộc sống”, giọng rất buồn thảm.
Abraham Chrikovitch hoàn toàn bị lôi cuốn bởi những lời nói của Jeremy.
- Ông ta có nói gì khác không?
- Không. Sau đó tôi ngủ thiếp đi.
- Anh cũng nhắc đến việc anh có những cảm giác lạ lùng khi đọc một số câu kinh?
- Phải. Thực ra đó là một trong những điều làm nên câu chuyện của tôi. Đó là mối liên hệ giữa tôi và người khác trong tôi. Vợ tôi cho biết người khác trong tôi đã rất quan tâm đến cuốn kinh đó trong một cửa hàng ở phố Rosiers. Quan tâm đến mức cô ấy mua và tặng tôi vào một trong những lúc tôi tỉnh táo. Khi nhìn thấy nó tôi rất khó chịu. Đọc vài câu trong đó còn làm tôi bồn chồn hơn. Tôi rối loạn, sợ hãi mà không biết vì sao.
- Câu kinh nào? Anh còn nhớ không?
- Có, tôi đọc câu số 90. Và khi tôi tỉnh lại sáu năm sau, tôi thấy cuốn sách với nhiều trang bị xé. Đó là những trang tôi đã đọc, và cả các câu số 30, 77 nữa. Cũng có thể còn nhiều trang khác bị xé. Tôi biết rằng nó gây cho tôi sự khó chịu mà tôi chia sẻ với kẻ khác trong phần lớn thời gian tôi là.
Abraham Chrikovitch ngừng một lúc.
- 30, 77, 90, ông ta khẽ nhắc lại.
- Điều đó với ông có ý nghĩa gì chăng?
Vị tu sĩ không trả lời.
- Thế quan hệ của anh với Chúa thế nào? Anh có là người thực đạo không?
- Tôi chưa bao giờ thực sự theo đạo cả. Ở nhà bố mẹ tôi không quan tâm đến khía cạnh này lắm. Bố tôi đã mất gần hết người thân ở trại tập trung. Ông muốn tôi trở thành một người Pháp bình thường vượt qua được trang lịch sử nặng nề đó. Chính ông nội của tôi đã quyết định đổi họ từ Wiezma thành Delègue, một cái họ ít gây chú ý hơn. Tuy vậy chúng tôi vẫn làm lễ vào hai hoặc ba ngày lễ quan trọng trong năm. Tôi tin vào Chúa theo cách của tôi. Tôi cũng nói với Chúa. Tôi nói với Chúa vào ngày tôi tự vẫn. Nói nhiều. Một câu chuyện thầm kín và dữ dội. Nhưng hôm nay tôi hiểu rằng mình thấy Chúa đúng ra là một con người có trong tay những quyền lực siêu nhiên mà tôi có thể trông chờ vào đó. Một dạng phù thuỷ.
- Anh bảo đã nói chuyện với Chúa hôm anh tự vẫn. Anh có ý thức được rằng hành động đó của anh mang ý nghĩa tôn giáo không?
- Không hẳn. Việc tôi tự vẫn là một hành động nổi loạn chống lại vị thần đã từ chối thoả mãn mong ước cuối cùng của tôi, mong ước quan trọng nhất trong mọi mong ước.
- Anh định tự kết liễu đời mình… để trừng phạt Chúa ư?
- Một phần nào. Tôi cho rằng ngụy trang hành động của mình bằng một hành động nổi loạn sẽ giúp tôi có thêm can đảm cần thiết để hoàn thành nó. Tất cả chuyện đó vẫn còn rất mù mờ trong tâm trí tôi bây giờ.
Abraham Chrikovitch cúi đầu, úp hai tay lên trán như thể để tránh ánh mắt của Jeremy. Rất khó nhận ra môi ông ta đang cử động. Jeremy tự hỏi không biết liệu ông ta đang nói khẽ suy nghĩ của mình hay đang cầu nguyện nữa. Hắn im lặng, chờ đợi một lời phán xét. Nhưng đột nhiên Abraham Chrikovitch đứng bật dậy. Ông ta hốt hoảng lấy tay ra hiệu rằng cuộc nói chuyện đã chấm dứt.
- Tôi phải đi. Chúng ta cứ quyết định như thế đã.
Jeremy ngắt lời.
- Khoan đã, chuyện gì xảy ra thế?
Abraham Chrikovitch quay đi. Ông ta có vẻ nhớn nháo. Ông ta loạng choạng và đưa mắt kiếm người gác ngục.
- Ông giấu tôi điều gì đó! Jeremy thốt lên. Ông đã nghĩ đến một điều làm tôi sợ hãi đúng không? Tôi tin chắc ông có ý gì rồi! Nói cho tôi đi!
Vị tu sĩ cố tỏ ra dửng dưng. Tuy nhiên, những cử động của miệng ông ta và nụ cười méo mó không giúp ông ta giấu được cảm xúc. Ông ta bước sang bên để đi ra nhưng mắt vẫn không rời Jeremy. Còn hắn đứng lên như muốn giữ ông ta lại.
- Đó là một hình phạt của Chúa phải không? Có đúng ông nghĩ thế không?
- Tôi… tôi không thể trả lời vào lúc này. Tôi sẽ gọi lại cho anh. Tôi sẽ liên lạc lại với anh. Tôi xin hứa.
- Nhưng trời ơi, cứ nói tôi nghe ý kiến của ông đi! Ý kiến CỦA ÔNG ấy!
Jeremy hoảng sợ. Có thể người đàn ông này vừa hiểu ra tình thế của hắn, tìm ra cách giúp hắn thoát khỏi cơn ác mộng. Vậy mà ông ta lại bỏ đi mà không hé lộ điều gì! Jeremy rơi vào tuyệt vọng.
Abraham Chrikovitch quay lưng, đứng đợi ở cánh cửa mà người ta vừa mở ra. Một người cai ngục xuất hiện. Jeremy ngồi phịch xuống ghế. Hắn không hét nữa. Ngán ngẩm về cuộc tìm kiếm điên rồ này, ngán ngẩm với việc phải khẩn nài, khóc lóc, suy ngẫm, giả định và hy vọng.
Đêm đã xuống, còn hắn không có được câu trả lời. Hắn dõi theo người đàn ông trong bộ quần áo đen đang ra khỏi phòng nói chuyện. Ông ta là hy vọng cuối cùng của hắn. Cánh cửa đã khép lại sau lưng ông ta. Qua ô cửa theo dõi, hắn chỉ còn thấy mỗi gáy và chiếc mũ của ông ta. Rồi Abraham Chrikovitch quay người, dừng lại một hoặc hai giây gì đó, rồi khẽ gật đầu. Không biết là để chào hắn hay để trả lời xác nhận cho câu hỏi cuối cùng của hắn đây? Jeremy không biết. Nhưng có một điều mà hắn tin chắc: Abraham Chrikovitch đang khóc.
Trở về phòng giam, Jeremy thấy Vladimir đang nằm dài trên giường nhìn trần nhà.
- Mày vừa gặp ai đấy?
Jeremy định không trả lời. Nhưng trong cái phòng giam phức tạp này hắn buộc phải quay lại vai của mình.
- Bồ.
- Nó không được báo trước à?
- Không. Tao yêu cầu nó sáng nay thôi. Có việc phải giải quyết ấy mà.
- Mày phải cảnh giác với thằng cai đấy nhé. Nó quá tử tế với mày đấy. OK, rõ là nó kết với mày trong mấy vụ buôn bán nhưng đừng có quên mày chỉ là một thằng tù.
- Đừng lo.
- Thôi được, khi nào thì lo vụ của tao và mày đây?
- Không phải bây giờ. Tao cần suy nghĩ đã, Jeremy trả lời giọng rắn lại.
Ngoài hành lang có tiếng huyên náo nhẹ nhàng và cả những tiếng động khác rõ hơn báo đã đến giờ ăn. Bỗng nhiên Jeremy cảm nhận được một cách hoàn hảo cơ thể mình đang nằm trên giường. Hắn cảm nhận được mỗi sự vật của thế giới xung quanh đang lướt nhẹ qua hắn, vuốt ve làn da hắn. Chỉ có trí óc hắn là trống vắng. Nó đang lơ lửng đâu đó trong căn phòng giam này, ngắm nghía con người hắn bằng da bằng thịt, nắm bắt bí mật của việc hắn có mặt tại nơi đây. Hắn lại nghĩ về Abraham Chrikovitch. Ông ta đã lờ mờ đoán ra một lời giải thích khiến ông ta hốt hoảng. Jeremy điểm lại những lời nói mà hắn chợt nhớ lại. Nhưng hắn phải ngừng ngay, quá oải trước phần lớn những suy nghĩ điên rồ. Tuy nhiên, hắn hiểu rằng không thể tìm ra câu trả lời nếu không xông vào câu chuyện thần bí rối như tơ vò này. Liệu nó có đúng là một hình phạt của Chúa? Với mục đích gì? Trả thù ư? Để bắt hắn phải ăn năn hối lỗi? Bản chất thật sự của Jeremy là gì? Là hắn khi đang tỉnh táo hay là hắn sẽ xuất hiện không lâu nữa đây?
Cả hai ăn trong im lặng. Jeremy ăn ít còn Vladimir thì nhìn hắn dò xét rồi chén luôn cả phần của hắn.
Jeremy cắn vào quả táo để có thêm thời gian suy nghĩ hoặc để tạo thêm một khoảng im lặng nữa. Nhưng Vladimir vẫn đang chờ hắn trả lời. Tên này cho là đã kiên nhẫn đủ. Thoả thuận ngầm này giữa bọn chúng buộc Jeremy phải lên tiếng.
- Hôm nay mày thực sự quái. Thông thường mày là đứa nói suốt ngày. Tao thậm chí không nghỉ ngơi được trước những trò ba hoa của mày. Mày không ngừng nói tí nào: nào là cuộc sống của mày hiện tại, cuộc sống sau này, những cú ra tay ác ôn mà mày muốn thực hiện, làm sao để thoát khỏi cái hố này, rồi những gì mày định làm khi ra tù, giây phút đau khổ mà vợ mày sẽ phải trải qua, lũ đàn bà mà mày sẽ vơ được, số tiền mà mày sẽ kiếm ra… Thế mà giờ mày không nói nửa lời! Mày không ngừng suy nghĩ! Mày làm sao thế hả?
Nhận xét của Vladimir về Victoria khiến hắn rùng mình. Hắn định làm gì? Victoria bị đe dọa chăng? Hay đó chỉ là cách nó nói thế thôi? Hắn muốn biết rõ hơn.
- Là do vợ tao đấy, Jeremy nói.
- Cái gì? Vợ mày?
- Nó cũng làm trò này trò nọ.
- Kiểu gì?
Jeremy ra dấu tay để nói rằng hắn rất ngán ngẩm.
- Ôi dào, hàng tá trò khốn. Nó làm tao chán ngấy. Hình như nó đang tính dìm tao ở đây thêm vài năm nữa.
- Chà, lo gì. Tao sắp ra rồi, tao hứa sẽ khiến nó không còn muốn quấy rầy mày nữa.
Jeremy có cảm giác như vừa bị thúc một cú vào bụng. Hắn bị ngạt thở một lúc. Hắn không nói được, đành gật đầu. Hắn còn khiến Victoria phải chịu đựng gì nữa đây? Con quái vật này còn có khả năng làm những gì? Đánh nàng ư? Làm nhục nàng ư? Hay giết nàng? Hắn không thể để nguy cơ đó xảy ra. Hắn phải trấn tĩnh lại và hành động để bảo vệ nàng. Nhưng làm thế nào bây giờ? Hạ Vladimir ư? Hắn sẽ mất gì? Lại bị thêm vài năm tù nữa để đánh đổi lấy tự do và sức khỏe cho vợ hắn? Thật dễ dàng lựa chọn. Nhưng hắn thấy không đủ sức làm việc này.
Rồi Jeremy có một sáng kiến. Phải hành động gấp. Hắn tìm thấy một cây bút, giấy và vài chiếc phong bì. Không biết những ngày trước hắn viết cho ai nhỉ
- Mày làm gì thế? Vladimir hỏi.
- Tao viết thư.
- Cho luật sư à?
- Ừ, Jeremy trả lời, cho luật sư của tao.
Hắn thảo nhanh hai bức thư. Hắn viết xong thì Vladimir đã ngủ và ngáy ầm ầm. Hắn gọi một tên cai ngục có bộ mặt gườm gườm cau có. Jeremy đưa cho nó một bức để gửi cho Victoria. Tên cai ngục nói đáng ra hắn phải đưa thư vào buổi sáng, nhưng rồi vẫn nhận và nhét nó vào túi.
- Không ai gọi cho tao à?
- Không, mày nghĩ mày là ai hả, thưa ông Delègue? Mày đang ở tù, đâu phải ở văn phòng! Mà tao đâu phải thư ký riêng của mày?
- Chỉ vì tao đợi một cú điện thoại thôi.
- Nghe này, tao không phải bạn mày nhé. Ở đây có hai tuyến, cai ngục và tù nhân. Và tao biết tao đứng ở tuyến nào đấy. Vậy nên phải lấy làm hạnh phúc là tao đã nhận thư cho. Còn về vụ điện thoại, kể cả nếu có ai gọi tao cũng không chuyển cho mày đâu.
- Cảm ơn về bức thư, Jeremy nói bằng một giọng dửng dưng.
Đang trông chờ một lời đáp trả gay gắt, tên cai ngục lấy làm ngạc nhiên. Gã còn làu bàu vài lời rồi đi vài lời rồi đi ra.
Cánh cửa khép lại với một tiếng động nhỏ chìm nghỉm trong tiếng vang của những âm thanh khác từ xa vọng lại.
Jeremy tiến về phía cửa sổ. Chân hắn nặng trịch. Hắn quan sát ngoài sân và thấy hai tên cai đang đứng nói chuyện trước cột điện. Hắn lấy bức thư thứ hai, gấp lại rồi buộc nó vào một mẩu xà phòng và ném về phía hai tên cai ngục. Bức thư đập vào vai tên cao hơn, nó quay ngoắt lại về hướng cửa sổ. Nhưng Jeremy đã kịp cúi xuống rồi. Tên này chờ thêm vài giây rồi lại quay lại nhìn. Hai tên cai ngục giờ đang đọc mẩu giấy mà hắn vừa ném.
Jeremy trở lại giường mình. Mệt mỏi đưa hắn đến một cơn buồn ngủ khó mà cưỡng lại được. Hắn nằm xuống và bực bội nghĩ tới vài giờ hắn còn tỉnh táo. Thời gian ấy không hề mang lại cho hắn bất cứ lý do gì để lạc quan nghĩ về tình thế của mình. Hắn đang ở đây, trong căn xà lim này, ngay giữa tâm điểm của thù hằn và không tài nào tìm tòi gì được. Hắn vừa đảm bảo cho mình thêm vài năm ở tù nữa. Bằng chứng tình yêu duy nhất mà hắn còn có thể chứng tỏ được. Khi Vladimir và Jeremy kia ra tay ở phòng tập thì bọn cai ngục sẽ có mặt ở đó để bắt quả tang. Bức thư nặc danh mà hắn vừa ném ra ngoài sân viết rất rõ ràng.
Còn bức thư kia sẽ tiết lộ cho Victoria và Pierre mối quan hệ của hắn với Clotilde, đồng thời sẽ ngăn không cho cô ta tiếp tục cung cấp thông tin cho hắn nữa
Như vậy Jeremy đã hoàn toàn cô lập được mặt tối trong con người hắn và giải thoát cho Victoria khỏi mọi mối đe dọa đang đè nặng lên nàng. Cùng lúc đó hắn tự kết liễu mình chết rục xương ở trong cái lỗ này, làm tiêu tan mọi cơ may tìm được một giải pháp cho cơn ác mộng của mình.
Giờ hắn chỉ còn có việc ngủ đi và chờ đợi. Một sự chờ đợi mà hắn hằng mong sẽ thanh thản hoặc ít ra là cam chịu.
Nhưng trí óc còn đang tỉnh táo lại khuấy lên vài kỷ niệm trong cuộc đời ngắn ngủi của hắn.
Thế là, như một làn gió mạnh và lạnh buốt thổi vào căn phòng đang mở, nỗi sợ hãi xâm chiếm hắn. Một nỗi sợ quá lớn. Một nỗi sợ mà lý trí ít ỏi còn lại trong hắn không đủ để trấn tĩnh hắn. Rồi thật bất ngờ hắn nhìn thấy một cảnh tượng mà hắn chưa từng được biết: hắn mới lên một tuổi, hoặc hơn một chút. Hắn đang đứng trong cũi và khóc. Hắn gào lên để bố mẹ đến bên hắn, lôi hắn ra khỏi những bóng ma đang rình rập hắn trong bóng tối. Những con ma làm cho em gái hắn khóc ré lên rồi khiến nó im hẳn. Hắn hiểu rằng cơn hoảng sợ đang dâng lên trong hắn đã gợi lại một kỷ niệm vô cùng ghê rợn như thế. Bóng tối vẫn ở đó, sắp nuốt chửng hắn. Những bóng ma vẫn ở đó, sẵn sàng làm hắn đau. Chỉ vài phút nữa thôi hắn cũng nằm trong số bọn chúng. Ông già bắt đầu cầu nguyện. Đây là lần đầu tiên Jeremy thấy yên tâm khi nhìn thấy ông ta, được nghe giọng nói quen thuộc của ông ta. Người đàn ông này đang cầu nguyện cho hắn. Ông ta ở đó để tốt cho hắn. Thế là Jeremy lắng nghe lời cầu nguyện như những khúc hát ru của mẹ hắn ngày xưa. Để thiếp đi và quên luôn nỗi sợ hãi.