Chiếu thư Cần Vương lại là do tiểu nha đầu này bịa đặt ra?
Chuyện này còn khiến Trường Sa vương khiếp sợ hơn cả việc hạ độc chết ngụy đế Tư Mã Luân.
Đương nhiên, sau khi sự giật mình qua đi, Trường Sa vương càng nhiều hơn là tức giận — vì sao không chọn chú ruột là mình đây mà lại chọn người nhánh bên là Tề vương?
Thanh Hà nhìn ra được suy nghĩ trong lòng Trường Sa vương, cười ha ha nói: “Thập nhị hoàng thúc, còn có đám Thành Đô vương bọn họ đều là đệ đệ của phụ hoàng, đưa cho ai cũng không thích hợp, nghĩ tới nghĩ lui, Tề vương là người nhánh bên, cho dù tương lai dã tâm bành trướng thì cũng sẽ bị cản trở bởi huyết thống hoàng thất không chính thống, cho nên, trên chiếu thư đã chỉ định Tề vương.”
“Ngươi…” Trường Sa vương chỉ vào Thanh hà, nhất thời không biết nói gì cho phải.
Thanh Hà nói ra: “Đương nhiên, đây cũng không phải là sức của một mình con, con đã tập hợp rất nhiều minh hữu, bao gồm cả Thừa tướng Tôn Tú, tụi con lợi dụng lẫn nhau, Đoạn Trường chính là do Tôn Tú đưa cho con. Chỉ là ông ta tính đúng đoạn đầu, lại không đoán được phần kết.”
Mỗi một câu nói của Thanh Hà giống như ném từng quả pháo vào đầu Tư Mã Nghệ, Tư Mã Nghệ bị từng cái “kinh hoàng” nổ vang đến ong ong.
Tư Mã Nghệ đứng ở bờ sông Y Lạc đóng băng, hít khí lạnh bình tĩnh lại.
Tư Mã Nghệ và Sở vương cùng một mẹ, dáng dấp hai người có chút tương tự, đều là dáng người cao lớn, ngũ quan anh tuấn. Lúc Sở vương chịu oan mà chết chỉ mới hai mươi mốt tuổi, mãi mãi dừng lại ở tướng mạo thiếu niên hăng hái.
Năm nay Tư Mã Nghệ hai mươi bảy tuổi, về tuổi tác cũng là thanh niên, có điều sự cô đơn trong ánh mắt lại lộ ra cảm giác tuổi già.
Nếu như có thể giải oan rửa tội cho anh năm, tương lai dù cho thất bại bị giết, mình cũng có thể xuống dưới đi gặp anh ấy.
Tư Mã Nghệ hỏi Thanh Hà: “Con định khi nào thì giải tội, rửa oan cho ngũ ca ta?”
Thanh Hà nói: “Sau khi tiêu diệt Tề vương.”
Mũi Tư Mã Nghệ hừ một cái, phun ra hơi lạnh màu trắng: “Vẽ bánh nướng mà thôi.”
Thanh Hà nói: “Nếu như bây giờ con làm việc này, tất nhiên sẽ khiến Tề vương cảnh giác quan hệ giữa con và thúc, con và thập nhị hoàng thúc ngoài mặt không thể quá gần gũi, càng xa cách càng tốt. Cho nên, hôm nay con sửa bản vẽ lung tung lộn xộn một trận, đưa ra đủ loại ý kiến hà khắc, thay đổi hoàn toàn bản vẽ của thập nhị hoàng thúc chính là diễn cho Tề vương xem, biểu thị con và thúc bất hòa.”
Thanh Hà giải thích hợp tình hợp lý, Tư Mã Nghệ không có cách nào phản bác được, hồi lâu ông nói: “Mặc dù như thế thì ta cũng cần một lời hứa hẹn — ta cần nhìn thấy thánh chỉ mà con mô phỏng, giấy xanh mực đen, còn có con dấu của quốc tỷ, đều không thể thiếu được.”
Ở Đại Tấn, các loại công văn của Hoàng đế như thánh chỉ, chiếu thư đều dùng giấy xanh.
Bởi vì cái chết của anh năm, Tư Mã Nghệ bị hoàng thất lừa dối phát sợ rồi, chỉ sợ không có được gì cả. Chỉ là một cây đao để mượn đao giết người, sử dụng xong là bị ném đi. Cho nên, ông cần một lời hứa hẹn thấy được, sờ được.
Thanh Hà khấu đầu: “Không thành vấn đề, đâu chỉ nhìn thấy, con có thể để thánh chỉ đã được tạo vào tay thập nhị hoàng thúc bảo quản, chỉ cần diệt trừ Tề vương, thập nhị hoàng thúc có thể lập tức lấy thánh chỉ ra, tự mình sửa lại án oan giải tội cho ngũ hoàng thúc. Chỉ là, không biết thập nhị hoàng thúc có dám nhận hay không?”
Thánh chỉ là thẻ đánh bạc, ai cũng muốn cầm thẻ đánh bạc trong tay mình, nhưng mà, có đôi khi thẻ đánh bạc cũng là một loại áp lực, Thanh Hà cho Tư Mã Nghệ sự lựa chọn.
Tư Mã Nghệ nói: “Ta có thể lấy được vào ngày sinh thần của con không?”
Thanh Hà giơ tay phải lên: “Có thể, chúng ta vỗ tay lập lời thề. Còn xin thập nhị hoàng thúc xem trọng tình thân mà tỉnh lại, âm thầm liên lạc với thủ hạ cũ đã bị phá tan lẫn lộn, bảy mươi nghìn thuộc hạ cũ, có thể tập hợp được mười nghìn cũng tốt. Bây giờ Tề vương khoét tường hoàng cung của con, đạp đổ tường vây Tây Uyển còn làm một cái lỗ lớn. Tề vương xem hoàng cung như hậu hoa viên của ông ta, việc này đã khơi gợi sự bất mãn của triều đình và sĩ tộc, chờ đến lúc loạn xị bát nháo, huyên náo đến mức bị cô lập hoàn toàn như thời ngụy đế còn tại vị, thập nhị hoàng thúc sẽ có thể ra tay diệt trừ tên tặc này.”
Bạch, Tư Mã Nghệ đập vào bàn tay nhỏ của cháu gái.
Thanh Hà đã học được rất nhiều quy luật và kỹ xảo triều đấu và cung đấu trong cuộc đấu tranh với ngụy đế Tư Mã Luân.
Cung đấu từ khi bắt đầu đến khi bùng lên đều cần thời cơ, giống như thời kỳ ngụy đế Tư Mã Luân và Tôn Tú chấp chính, sĩ tộc xem thường bọn họ, nhất là xem thường Tôn Tú xuất thân hàn môn, tìm đủ loại lý do từ quan, áp dụng thái độ không bạo lực không hợp tác. Thậm chí là ép đế hậu nhường ngôi, nhốt đế hậu vào thành Kim Dung, đương nhiên sĩ tộc phản đối mãnh liệt, nhưng, cũng chỉ là phản đối miệng mà thôi, cũng không có hành động thực tế gì.
Mãi đến khi Kê Hầu trung thêm mắm dặm muối, khuấy đục nước, ép Tôn Tú làm ra các hành động vớ vẩn như “Khố vải vá áo vóc”, “Hầu bảng trắng”, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của sĩ tộc thì mới chân chính dẫn tới sự oán giận của quần thần.
Đến khi bốn phiên vương lớn khởi binh Cần Vương, đánh tới đô thành Lạc Dương, tất cả sĩ tộc đều mở cửa thành cửa phường ra nghênh đón quân thảo phạt, không có bất kỳ quân đội của một tổ chức nào chống cự.
Sĩ tộc, chính là một đám người tư tưởng ích kỷ khéo léo. Nếu như lửa không đốt đến trên đầu mình thì tuyệt đối sẽ không ra tay dập.
Đây là kết luận mà Thanh Hà tổng kết ra được thông qua hành động của sĩ tộc trong thời kỳ chấp chính của hai đời quyền thần là ngụy đế và Tề vương.
Ngụy đế hoặc là Tề vương ức hiếp hoàng thất, sĩ tộc chỉ động mồm mép một chút, nói ôi chao, ngươi làm như vậy không đúng bla bla, nhưng không có sĩ tộc nào thật sự áp dụng hành động bày tỏ kháng nghị mãnh liệt đối với hành vì đào góc tường hoàng thất của Tề vương.
Mọi người đều đang quan sát, đều đang đợi, dù sao hiện tại chịu đựng một chút cũng có thể sống qua được — Tề vương lại không đào góc tường của sĩ tộc!
Ngay cả Vương Duyệt là thanh mai trúc mã cũng dần dần chịu sự ảnh hưởng của Thượng Thư Lệnh Vương Nhung, tộc trưởng của Lang Gia Vương thị. Hắn đứng ở góc độ của sĩ tộc để nhìn sự kiện Tề vương đào góc tường, đã không phải là sự tức giận như lúc ngụy đế ức hiếp hoàng thất năm đó nữa.
Thanh Hà là hoàng thất, Vương Duyệt là sĩ tộc, lập trường của mọi người không giống nhau, cho nên Thanh Hà cũng sẽ không trách Vương Duyệt. Hắn không sai, nàng đang cố gắng từ bỏ việc dựa vào hắn, học cách tự mình giải quyết vấn đề.
Thanh Hà cũng đang chờ, nàng dần dần học tập làm sao để làm một tay chơi cờ nhanh trí, kiên định chờ Tề vương xuất hiện sai lầm, đi nước cờ dở thứ hai.
Tại bờ sông Y Lạc rét lạnh thấu xương, Thanh Hà tựa như cây cỏ trong nước bùn của sông, chuẩn bị sức mạnh, chờ đợi đến đầu xuân là chui lên khỏi mặt đất, ra sức trưởng thành!
Thanh Hà phải làm ra được thánh chỉ trong vòng năm ngày.
Đầu tiên, nàng cần một phần văn thư thánh chỉ giấy xanh trống.
Ở chỗ Kê Hầu trung tại Môn hạ tỉnh có, chiếu thư đế hậu quay lại vị trí cũ, thậm chí chiếu thư ly hôn của công chúa Hà Đông và Tôn Hội cũng là do Kê Hầu trung viết.
Thanh Hà đi đến Môn hạ tỉnh thăm hỏi người thầy ngày xưa, nàng còn đặc biệt mang theo kiếm Khanh Khanh do Vương Duyệt tự tay làm, hôm nay chính là cùng thầy giám định và thưởng thức tay nghề của Vương Duyệt.
“Khanh Khanh?” Kê Hầu trung nhìn chữ khắc ở chuôi kiếm: “Khanh Khanh trong câu “khanh khanh ta ta” của Thượng Thư Lệnh và phu nhân? Cái tên này được đặt thật đúng là tùy ý.”
Mọi người đều đã biết câu “khanh khanh ta ta”, Kê Hầu trung cũng nghe nhiều nên quen, Thanh Hà đưa kiếm cho Kê Hầu trung: “Con muốn thấy thầy múa kiếm trong tuyết, giống như thần tiên, đẹp lắm.”
Kê Hầu trung làm theo tâm nguyện của nàng, cầm kiếm đứng trong tuyết, đợi đến lúc Kê Hầu trung bắt đầu múa kiếm, Thanh Hà làm bộ như lạnh tay, chạy tới phòng lấy lò sưởi tay, thuần thục lấy ra chìa khóa dưới chậu hoa thủy tiên trong nhà, mở một cái cửa tủ, lấy ra một quyển thánh chỉ giấy xanh từ cửa tủ rồi nhét vào trong ngực áo, sau đó để chìa khóa về bên dưới chậu thủy tiên, lại ôm lò sưởi tay đi ra ngoài.
Trong sân, gió từ kiếm k1ch thích tuyết bay và hoa mai rơi, vây quanh Kê Hầu trung phiêu giật trong đó, Kê Hầu trung bồng bềnh như tiên, với các loại hoạt động văn hóa và thể dục thể thao như lái xe múa kiếm thì ông đều là một trong những quân tử biết lục nghệ, phần lớn con cháu sĩ tộc thông thạo kỹ thuật này, Kê Hầu trung là người nổi bật trong số đó.
Thanh Hà ôm lò sưởi tay khen hay.
Kê Hầu trung thu kiếm lại, trả Khanh Khanh cho Thanh Hà: “Thanh kiếm này không tệ, Vương Duyệt dụng tâm rồi. Nghe nói Tuân Hoán dạy công chúa kiếm pháp, có thể luyện cho ta xem một chút không?”
Thanh Hà không dám, chỉ cần nàng trở người lộn nhào thì thánh chỉ trong ngực sẽ rơi ra mất.
Thanh Hà ôm chặt lò sưởi tay: “Lạnh quá, con ở bên ngoài đều không duỗi tay ra được, cầm kiếm cũng không vững, chờ mùa xuân đi ạ.”
Kê Hầu trung từng dạy dỗ tiểu công chúa yêu kiều mềm mại này, biết nàng yếu ớt nên ông không kiên trì nữa.
Thanh Hà nói: “Hôm nay con chính là đến khoe quà, Vương Duyệt tặng thanh kiếm đẹp như vậy, còn năm ngày nữa là sinh thần của con rồi, con rất mong chờ quà của thầy đó.”
Thanh Hà đeo kiếm lên rời đi, vừa tới cửa thì nghe Kê Hầu trung nói: “Công chúa chậm đã!”
Trong lòng Thanh Hà hơi hồi hộp, nàng làm ra khuôn mặt tươi cười gật đầu: “Kê Hầu trung muốn tặng bây giờ luôn sao?”
Kê Hầu trung chỉ vào chậu hoa thủy tiên trên bàn trà ở góc tường: “Chậu hoa này có bốn chân, mỗi cái chân đều đặt trên vân gỗ đặc biệt, chỉ có ta biết, mỗi lần động vào nó, ta đều sẽ điều chỉnh bốn chân về chỗ cũ. Nhưng bây giờ, bốn chân và hoa văn vân gỗ không khớp nhau, công chúa có gì muốn giải thích không?”
“Vừa rồi lúc con lấy lò sưởi tay không cẩn thận đụng vào chậu hoa thủy tiên một cái, có lẽ đã dịch khỏi chỗ vào lúc đó.” Thanh Hà chơi xấu, vươn hai tay ra: “Không tin, Kê Hầu trung qua lục soát là được.”
Thánh chỉ được nhét trong ngực áo, Kê Hầu trung là chính nhân quân tử, sẽ không sờ ngực của cô gái nhỏ đâu.
Kê Hầu trung chậm rãi đến gần, Thanh Hà cũng không chớp mắt lấy một cái, con cũng không tin thầy dám ra tay!
Cuối cùng, lúc còn khoảng cách của một nắm tay, Kê Hầu trung dừng bước, hỏi: “Gần đây công chúa ưu phiền vì chuyện tường Tây Uyển sao?”
Thanh Hà ăn ngay nói thật: “Đương nhiên là ưu phiền, nếu như tường nhà Kê Hầu trung bị hàng xóm khoét cái lỗ, trải ra một con đường thì chắc hẳn Kê Hầu trung cũng ngồi không yên.”
Đối với việc này, Kê Hầu trung đã kháng nghị mấy lần trong triều, nhưng Môn hạ tỉnh là ban cố vấn của Hoàng đế ngốc, chỉ có thể đưa ra ý kiến, hoàn toàn không có thực quyền — bởi vì Hoàng đế là một bù nhìn, mọi chuyện Hoàng đế đều nghe theo Kê Hầu trung, nhưng quyền quyết định nằm trong tay Tề vương.
Kê Hầu trung phản đối, Tề vương nói là phản đối vô hiệu thì việc này cho qua, Kê Hầu trung không thể làm gì Tề vương.
Kê Hầu trung nói: “Hành động đập tường sửa đường của Tề vương vô lễ trái với đạo lý. Nếu như hôm nay công chúa dùng kế điệu hổ ly sơn để giải quyết việc này, ta sẽ phối hợp với công chúa, nhưng công chúa nhất định phải nói rõ ràng ý người muốn như thế nào.”
Kê Hầu trung không giống với sĩ tộc khác, bởi vì cái chết của cha Kê Khang, gia tộc tàn lụi, còn có mẹ mang thân phận của hoàng tộc Tào Ngụy, Kê Hầu trung không có ý thức tông tộc mãnh liệt, bởi vì luôn chăm sóc Hoàng đế ngốc, lại dạy dỗ Thanh Hà, Kê Hầu trung nghiêng về hoàng tộc, nhất là bảo vệ Hoàng đế ngốc.
Kê Hầu trung là người đáng tin.
Thanh Hà nói: “Chắc hẳn Kê Hầu trung biết được bản án thánh chỉ thật giả của Sở vương Tư Mã Vĩ vào năm đó.”
Kê Hầu trung nói: “Năm đó quốc tỷ nằm trong tay tiên Hoàng hậu Giả Nam Phong, là thật hay giả không có ai biết, bà ta nói là giả thì thật cũng thành giả.”
Ý nói, là cảm thấy thánh chỉ trong tay Sở vương Tư Mã Vĩ là thật.
Thanh Hà rút ra quyển trục trống trong ngực áo ra: “Trả lại trong sạch cho Sở vương thì cần “phục sinh” thánh chỉ đó, đây là điều kiện để Trường Sa vương đồng ý hợp tác với con.”
Thầy trò tâm ý tương thông, Kê Hầu trung hiểu rõ ngay ý của Thanh Hà, ông nhắc nhở: “Năm đó thánh chỉ là do Giả Hoàng hậu tự tay viết, nếu như con muốn phục sinh thánh chỉ thì phải bắt chước theo bút tích của Giả Hoàng hậu, nếu không sẽ rất dễ bị vạch trần, đóng dấu quốc tỷ lên cũng không dùng được.”
Thanh Hà nói: “Yên tâm, con biết đi đâu để lấy chữ của Giả Hoàng hậu.”
Tất cả mọi thứ của Giả Hoàng hậu đều được con gái là công chúa Hà Đông đưa đến phủ công chúa, các loại thư từ, thi thơ, tranh vẽ của bà ta là thứ mà công chúa Hà Đông quý trọng nhất, được cất giữ trong thư phòng, dùng những thứ đó để nhớ về mẹ.
Việc thứ hai Thanh Hà làm là đi tìm chị gái.
Thanh Hà cần Tuân Hoán hỗ trợ dẫn chị gái rời đi, thế là mời nàng ấy đi cùng.
Hai người cưỡi ngựa trên đường, đi về phía Diên Niên lý, nơi ở của con cháu hoàng gia.
Đi một lúc, Tuân Hoán thấp giọng nói: “Có người vẫn luôn đi theo sau chúng ta — đừng quay đầu, nhìn gương trong tay ta.”
Thanh Hà nhìn một cái, quả thật có một người đàn ông bịt tai đội mũ, miệng mũi vây một vòng khăn lông chồn, chỉ để lộ ra đôi mắt bước nhanh đi theo phía sau.
Người này vì để che giấu đi theo dõi mà hai tay còn cầm cây cỏ, trên đó cắm đầy xâu hồ lô đường lạnh.
Đây là ai? Tề vương đem lòng sinh nghi mình, theo dõi mình?
Tuân Hoán nói: “Ta biết rõ về phố lớn ngõ nhỏ của nơi này hơn, tỷ đi theo ta, chúng ta cắt đuôi hắn.”
Tuân Hoán quẹo vào một cái hẻm nhỏ, Thanh Hà theo sát phía sau, người theo dõi cũng cất đôi chân dài, cầm cây cỏ đi theo.
Người theo dõi rẽ trái quẹo phải, rốt cuộc lạc đường mất dấu, trước mắt lại là một ngõ cụt không có đường.
“Ngươi là ai? Ai phái ngươi tới?” Tuân Hoán xuất hiện sau lưng hắn, giương cung lắp tên: “Cởi mũ và khăn lông ra, đừng có giấu đầu lòi đuôi.”
Người theo dõi sững sờ.
Tuân Hoán: “Nhanh lên, mũi tên của ta chưa từng bắn lệch, không tin thì ngươi thử xem.”
Người theo dõi tựa như biết được sự lợi hại của Tuân Hoán, hắn vội vàng để cây cỏ dựa vào vách tường, thành thật mở mũ cởi khăn lông, để lộ ra dáng vẻ.
Cựu anh rể kiêm cậu họ.
“Tôn Hội!” Thanh Hà sợ đến mức nhảy ra từ sau lưng Tuân Hoán: “Mau đội mũ choàng khăn lên! Huynh không muốn sống nữa à! Huynh chạy đến Kinh Thành làm gì? Giang Nam không tốt sao?”
Tôn Hội uất ức che mặt lại: “Ta ở Giang Nam sống cũng được, nhưng gần đây nghe nói Tề vương khoét lỗ trên tường Tây Uyển hoàng cung, sửa đường, xem hoàng cung như sân sau nhà mình, Tề vương đây là muốn mưu phản à, ta nghĩ đến Hà Đông… Người một nhà các muội lại nguy hiểm rồi, nên chạy ngay từ Giang Nam đến Kinh Thành, xem có thể giúp được một tay hay không.”