Diary In Grey Tower

Chương 34



*chương nằm trong chùm bonus lì xì 2014~

Edgar hỏi tôi: “Lúc cùng với Andemund Garcia, cậu thích tư thế này chứ?”

Tôi chỉ muốn hạ nhục cậu ta.

Tôi đáp: “Tôi yêu Andemund. Ít khi tôi từ chối tư thế nào anh ấy muốn.”

Gương mặt Edgar lập tức trở nên méo mó.

Cậu ta hạ giọng, bàn tay bất thần chẹn trên yết hầu tôi: “Alan, cậu không biết tôi đã làm những gì vì cậu. Đừng bao giờ nói cậu yêu Andemund trước mặt tôi.”

Cảm giác nghẹn thở thô bạo ập đến.

Tôi nghe thấy tiếng cười của Edgar.

“Cậu có biết khi tôi đưa cậu đến đây, trong cơn mê sảng cậu đã gọi tên ai không? Chà, Alan, nếu làm thế này mà moi được Andemund Garcia ra khỏi tâm trí cậu thì tôi sẵn sàng bóp cổ cậu đến chết…”

Nếu không phải đột nhiên có tiếng súng nổ bên ngoài, tôi nghĩ mình sẽ cứ thế này mà chết thật.

Vĩnh viễn lìa xa khỏi chiến tranh, cõi đời và người tôi yêu.

Edgar lập tức chồm dậy, lăn xuống giường, lao đến áp mặt vào cửa.

Tiếng súng bên ngoài vọng đến rõ hơn.

Cậu ta nghe ngóng một lát rồi sầm mặt quay lại bên giường, mở còng cho tôi, vừa mặc đồ cho tôi vừa chửi: “Tổng bộ khốn kiếp, họ nhanh tay thật.”

Tim đập thình thịch, tôi khao khát ngóng nhìn cửa ra vào, tưởng tượng rằng chỉ chốc lát nữa nó sẽ bật mở và Andemund đã đứng đó. Tôi không biết ai đang đến nhưng tôi gần như phát điên với niềm mong mỏi ai đó sẽ đến cứu tôi ra khỏi căn phòng tăm tối này, đưa tôi về dưới ánh nắng ấm áp của mặt trời tháng tám.

Edgar vừa chửi thề vừa dí súng vào đầu tôi.

“Alan, cậu mà hé một lời tôi sẽ bóp cò.”

Tiếng đã nghẹn ngay cổ họng mà không sao phát ra được.

Đột nhiên cậu ta mỉm cười, cúi đầu hôn má tôi: “Thư giãn đi, không phải Andemund của cậu đâu.”

Bức tường đối diện vẫn treo bức tranh vẽ tôi ***g trong khung kính trắng chạm trổ, đó là thứ tươi sáng duy nhất trong phòng. Tôi nghĩ đó chỉ là sở thích cá nhân của Edgar. Nhưng cậu ta đi đến trước bức tranh, ngắm nhìn gã trai nằm dưới gốc cây một lát rồi gỡ nó xuống.

Sau khung tranh là một cái hốc nhỏ, vừa đủ cho hai người nấp.

Edgar dùng súng thúc tôi vào.

Bức tranh lại được treo lên, xung quanh tôi tối đen như mực. Không gian nhỏ hẹp khiến chúng tôi phải ép sát vào nhau, hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài. Tiếng động bắt đầu xuyên thủng cả lớp màu dầu để luồn vào trong hốc cùng với cảm giác ong ong như vô thực.

Đầu tiên là tiếng súng phá cửa.

Sau đó là tiếng gót giày da đàn ông đồ sộ nện trên sàn xi măng.

Tôi nghe thấy người ta nói bằng tiếng Đức.

Tiếng Đức của tôi là do Andemund dạy ngày trước, không giỏi lắm, chỉ nghe hiểu đại khái.

“Ưng Non giấu Alan Castor ở đây hả?” người nói chuyện là người Anh, tiếng Đức lơ lớ: “Làm gì có ai.”

Tiếp nữa là tiếng lục lọi đồ đạc, hình như giường cũng bị lật lên.

“Từ khi tổng bộ yêu cầu giết Alan Castor, ba ngày nay ta không liên lạc được với Ưng Non rồi.” kẻ vừa bị hỏi trả lời bằng tiếng Đức rất chuẩn. Sau đó hắn ta im lặng một lát, như thể đang nghiền ngẫm điều gì đó: “Hành vi này đã bị xem là phản bội.”

Có tiếng mũi giày da cứng đạp vào tường: “Mẹ kiếp, đ. thể tin được bọn Ý lai! Nó bị lú ruột vì thằng nhãi Anh đây mà! Á à, Ludwig, mày xem, chính thằng nhãi này đây!”

Bọn họ đứng ngay trước bức tranh.

Tôi chỉ sợ tiếng hít thở nặng nề của chúng tôi sẽ lọt qua khe hở. Trong bóng tối, Edgar ghì chặt lấy tôi, một tay bịt miệng tôi lại.

Sau đó tôi hỏi Edgar, tại sao phải làm như vậy.

Cậu ấy nói rằng lúc đó tôi thật sự quá tuyệt vọng, cậu ấy lo sợ tôi sẽ lựa chọn chết dưới họng súng của tổ chức.

Hình như gã đàn ông tên Ludwig đang gõ ngón tay lên bức tranh: “Không rỗng.”

Hắn ta đánh giá bức vẽ: “Ờ, trông ngon thật.”

Không biết chúng tôi đã đợi bao lâu trong bóng tối, rốt cuộc bọn họ cũng rời đi. Họ để lại một người canh trước cửa đón lõng chúng tôi rồi bỏ đi kiểm tra nơi khác.

Edgar lẳng lặng gỡ khung tranh xuống, nhảy ra trước, chỉ chốc lát sau tôi nghe thấy một âm thanh khô khốc.

Rồi cậu ấy nói: “Alan, ra được rồi.”

Căn phòng lúc này đã bừa bộn ngổn ngang, thùng nào cũng có vết lưỡi lê. Giường bị lật ngược, vải trải giường nhàu nhĩ trên sàn. Gã người Đức ở lại nằm sấp trong vũng máu… còn Edgar đang cầm trên tay một khẩu súng giảm thanh.

Về lý mà nói, người đàn ông đó là đồng bọn của cậu ta.

Cậu ta đã bảo vệ tôi.

Tôi nhớ đến lời Edgar từng nói.

“Chà, Alan. Cậu không biết tôi đã làm những gì vì cậu…”

Cậu ấy không vội đi ngay mà mò mẫm trong đống đổ vỡ dưới đất để bới ra một cái túi nhỏ đựng đường glucose rồi dốc vào một cái ly đã bể non nửa, rót đầy nước từ bồn rửa trong góc phòng.

Cậu ấy tiến đến, đỡ lưng tôi, kề ly vào miệng tôi, nói bằng giọng gần như cầu khẩn: “Nào, Alan, uống đi, cậu phải sống.”

Quá mất sức sau những ngày tuyệt thực, chưa bao giờ tôi cảm thấy nước đường glucose lại ngọt ngào đến thế. Edgar có vẻ rất hài lòng, cậu ấy nhìn tôi uống cạn, ném cái ly đi rồi mở cửa phòng.

Lần đầu tiên tôi được thấy cảnh trí bên ngoài.

Đây hẳn là tầng hầm một tòa nhà hoang phế, sau cánh cửa chỉ có những bậc xi măng nối lên trên. Cuối dãy bậc này hẳn phải có cửa nữa, tiếng súng đầu tiên chúng tôi nghe thấy chính là lúc gián điệp Đức phá cánh cửa ngoài đó… giờ nó đang khép hờ, ánh mặt trời mong manh hắt vào tựa như ánh sáng từ thiên đường.

Quá nửa sức lực của tôi đến từ Edgar, tôi gần như bị cậu ấy lôi ra khỏi tầng hầm.

Lại được đứng dưới mặt trời, hai mắt tôi sắp lòa đi vì ánh sáng.

Trên đỉnh đầu có tiếng máy bay gầm rú, tiếng loa phòng không báo động rạch toạc không gian.

Mất một lúc lâu tôi mới thích ứng được.

Tôi thấy mình đang đứng giữa một quảng trường đổ nát. Một nửa ngã tư đằng xa đã không còn nhìn ra hình dạng nữa, mặt đất ngổn ngang thê thiết. Những ô cửa sụp xuống, một con ngựa gỗ đồ chơi lăn lóc bên đống phế tích. Máu ở khắp mọi nơi, và đặc biệt chói mắt trên những cái xác vắt ngang bờ gạch đổ xám tro.

Edgar đứng sau lưng tôi, khoác một tay lên vai tôi, nói: “London bắt đầu bị không kích từ nhiều ngày nay rồi.”

Sau đó là quãng thời gian trốn chui trốn nhủi, chúng tôi phải đổi chỗ ở không biết bao nhiêu lần.

Edgar chạy trốn sự truy lùng từ chính tổ chức của cậu ta, nhóm gián điệp Đức Quốc xã ẩn mình giữa lòng nước Anh. Nếu bị phát hiện, cậu ta sẽ bị bí mật giải về Berlin để chịu phán quyết, còn tôi sẽ bị bắn chết tại chỗ.

Tôi hỏi cậu ta, có hối hận không?

Edgar không trả lời, cậu ta chỉ cười cười, bước tới dịu dàng ôm tôi.

Rất lâu sau đó cậu ta mới nói như thể hối lỗi: “Alan, tôi không thể để cậu giải mật mã cho nước Anh, nhưng tôi cũng không thể giao cậu cho Berlin được.”

Tiếng còi báo động máy bay rú lên ngoài cửa sổ, chúng tôi ở trong căn phòng cũ kĩ với bốn bức tường loang lổ, máy bay Đức đảo qua trên bầu trời sẵn sàng ném bom bất cứ lúc nào. Edgar vẫn còng tôi, tôi bỏ ý định chết, bắt đầu ăn trở lại. Cậu ta có vẻ rất vừa ý. Dưới trận không kích khốc liệt, vật phẩm ở London khan hiếm hơn vàng, dòng người xếp hàng chờ mua bánh mì ái quốc và bơ phân phát giới hạn có khi nối dài từ đầu phố này vắt sang phố kia, thế nhưng Edgar luôn có cách kiếm được đồ ăn cho cả hai chúng tôi, có khi còn có cả sữa.

Có một lần cậu ta đem về một túi kẹo bọc giấy bóng kính, những viên kẹo tròn nho nhỏ mùi hạnh nhân nằm trong lớp giấy trong suốt màu lam nhạt. Khi ấy không trung luôn chỉ là một màu xám thảm đạm và tiếng máy bay chiến đấu thét gào suốt đêm ngày. Cậu ấy nhét một viên kẹo vào miệng tôi rồi vuốt phẳng mảnh giấy gói, giơ lên trước cửa sổ cho tôi nhìn.

“Alan, xem này, bầu trời màu xanh lam, giống Cambridge không?”

Tôi giữ lại miếng giấy ấy, giơ lên trước cửa sổ lúc ở một mình. Qua lớp bóng kính, hoa hồng trên bậu cửa sổ bị nhuộm thành màu lam nhạt, nhưng lên cao một chút nữa sẽ là mảnh trời nho nhỏ xanh thẳm trong veo.

Tôi không biết trong những ngày mình bị nhốt Andemund đang làm gì, không biết anh ấy bận rộn đối phó với cuộc không chiến hay vẫn bớt được thời gian đi tìm tôi. Tôi biết thời gian của Andemund không thuộc về bản thân anh ấy, nên dần dà mỗi lần nghe tiếng cửa mở cọt kẹt, tôi không còn mơ tưởng rằng anh ấy sẽ xuất hiện nữa.

Edgar không còn nhắc đến LSD. Cậu ta đã hoàn toàn mất liên lạc với gã bác sĩ nọ, nhưng tôi biết điều đó không có nghĩa là cậu ta đã bỏ cuộc.

Cậu ta luôn nhìn tôi bằng ánh mặt chứa chan tình cảm, như thể muốn khắc hình ảnh lúc ấy vào trong đầu, bởi vì rất có thể ngày mai, hoặc chỉ vài giờ nữa, Alan Castor sống động mà cậu ta từng yêu sẽ vĩnh viễn biến mất vì thuốc độc.

Để đề phòng không kích, nhà dân phải tắt đèn từ chập tối. Cậu ta luôn về đúng giờ ấy, còng nốt tay kia của tôi vào thành giường, rồi cởi áo khoác leo lên giường. Gió chiều thổi lung lay tấm rèm cửa sổ trắng, tôi trông thấy hoàng hôn đổ xuống ngã tư cuối đường, nhuộm đỏ ối cả con phố tiêu điều.

Hoàng hôn ngày nào cũng bắt đầu bằng trận cưỡng bức, cho đến khi dải đỏ cam mờ ảo tắt lụi ngoài cửa sổ, thế giới và ý thức của tôi cùng chìm vào hắc ám.

Edgar chưa bao giờ dịu dàng. Chúng tôi ngồi trên giường, cậu ta thích giữ chặt hông tôi, xâm nhập cơ thể tôi từ phía sau. Chưa bao giờ cậu ta nhìn thẳng vào tôi khi làm tình, nhưng cậu ta buộc tôi phải gọi tên cậu ta hết lần này đến lần khác.

Nếu tôi gọi Andemund, cậu ta sẽ trở nên hung bạo khủng khiếp, sáng hôm sau tỉnh lại vải trải giường sẽ lại dây đầy vết máu.

Cậu ta ép tôi phải nói tôi và Andemund đã làm những tư thế nào, để rồi lặp lại tất cả chúng trong bóng đêm, bằng cái cách kịch liệt và thô bạo gấp bội.

Khoảng thời gian ấy, ngày trống rỗng đến đáng sợ, mà đêm đáng sợ đến trống rỗng. Suy nghĩ của tôi như phiêu du trong không trung, không buồn quay lại với cái xác rã rời này nữa.

Edgar thậm chí còn vẽ lại cảnh chúng tôi làm tình trong tập ký họa của cậu ta, với lối vẽ tả thực đến trần trụi. Cậu ta luôn buộc tôi phải xem những tác phẩm ấy, rồi ôm ghì lấy tôi, nói rằng: “Alan, tôi yêu cậu.”

Tôi cũng không biết những ngày trống rỗng và thống khổ ấy đã kéo dài bao lâu. Cho đến một buổi sáng, Edgar vội vã trở về, tháo còng cho tôi, dí súng dưới cằm tôi và nói: “Alan, đi Hoa Kỳ với tôi. Lên ca-nô đêm nay, đi ngay bây giờ.”

Tôi đáp ngay: “Cút đi!”

Tôi để ý thấy cậu ta lại thay bộ lễ phục màu đen đó, và gương mặt lại thật bi thương.

Cậu ta nói: “Alan, tôi đã liên lạc được với bác sĩ rồi, cậu sẽ được tiêm LSD ngay bây giờ.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.