Mùa đông năm 210, Thủy Thánh Lang Xuy tuy bị thua một trận, phải tạm
thời rút quân về hạ lưu sông Đà, tuy nhiên vẫn không hề từ bỏ ý định đồ
sát Ba Vì. Quân dân thành Tản do đó vẫn không hề buông xuống phòng thủ,
tiếp tục hăng say lao động để dự phòng cho chiến tranh.
Mùa đông ở Ba Vì rất lạnh, đỉnh Tản Viên nơi Tản Cung tọa vị thậm chí lất phất chút sương đá. Đa phần dân trong thành không thích không khí
lạnh cho lắm, bởi mùa đông không thể trồng cây, lương thực chính vì thế
chỉ có thịt thú.
Vậy mà năm nay lại sinh ra sự lạ. Giữa cái lạnh cắt da của mùa đông
vùng núi, cây cối trên Tản Viên không những đột nhiên xanh tốt, thậm chí có loại còn nở hoa, kết quả! Dân thành cho đó là điềm lành, ông trời
hậu đãi Tản Thánh cùng con dân của ngài nên mới ban phép lạ giúp sức
giữa thời điểm chiến tranh loạn lạc.
Dao Sùng nhìn cảnh dân chúng cảm động rối rít lạy tạ ơn trời, lòng nghĩ đến nguyên nhân thật sự, cả người không khỏi run lên.
Thật ra, tất cả đều là nhờ Tản Thánh của chúng ta thật, song việc lại chẳng có chút gì liên quan đến trời. Tạm thời ngưng chiến nên sinh rảnh rỗi, khiến vị sơn thánh nổi tiếng lạnh máu suốt ngày không có chuyện gì làm, liền kéo vợ lên giường giã gạo chống lạnh. Mặn nồng liên miên như
thế, cây cối do ảnh hưởng tâm tình của mộc yêu, chống lại cả tự nhiên mà đâm chồi nảy lộc, vốn là chuyện không khó để hiểu ra.
Ngoài lý do khiến người đỏ mặt đó, hoặc sơn thánh nhà này phải hằng
ngày nói ngàn câu tình ý triền miên bên tai mỹ nhân, Dao Sùng thật sự
không nghĩ ra loại nguyên nhân nào khiến vị sơn hậu khờ khạo kia lại có
khả năng làm cây cối trơ trọi trong cả trăm dặm – một cách kỳ diệu – lần lượt đơm hoa kết quả như thế!
Thiên nhiên thay đổi vi diệu không những làm cho con dân rung động,
còn khiến không ít quan lại trong triều nảy sinh cảm xúc, nhịn không
được đua nhau biểu lộ ra ngoài. Chẳng hạn trong một buổi chầu nọ, vị sơn hầu cao tuổi Trung Hiền đã từng vuốt chòm râu dài, ưỡn bụng nói một câu làm cảm động chết người.
“Chẳng uổng ông cha và thế hệ chúng ta ăn ở có nhân có đức, con cháu đời này mới được trời thương…”
Quan lại nghe xong kẻ thì gật gù ra vẻ cảm khái, người lại ngẩng đầu nhìn trời mà rưng rưng lệ.
Sơn hầu Tuấn Cương đứng kế bên chỉ cười hà hà, vừa hướng về phía sơn
thánh và sơn hậu gật đầu không ngớt, vừa vui vẻ thêm vào. “Công đầu phải là thánh chủ của chúng ta ạ, quả là ăn ở rất có nhân có đức.”
Sơn tướng họ Dao nào đó tiếp theo liền muốn đuối chân khụy ngã.
Văn Lang vì thế lưu truyền câu chuyện nhân đức của Tản Viên Sơn Thánh ra khắp bốn phương tám hướng. Dân chúng ai nấy bấy lâu đã nghe danh,
nay càng thán phục, tôn thờ ngài hết mực.
Quả là có những chuyện lạ, cứ mãi luôn là truyền thuyết thì hay hơn…
Lại nói, khắp Văn Lang ngoại trừ những bộ ở phương Nam, toàn khu vực
miền Bắc chỉ duy nhất Tản Viên là có trái cây trái mùa để ăn. Tiếng lành đồn xa, đến ngay cả lão rùa già sông Thanh Giang cũng biết được, liền
bưng một bụng hảo ngọt đếm thăm bạn tốt, mà nói theo cách của bạn tốt
của lão là, trái cây chín mọng liền dụ ruồi bọ bay đến.
Ấn tượng của Lạc Cơ đối với lão rùa già rất đậm nét, nhìn một cái
nàng liền không thể quên, sau này cũng không thể nhầm lẫn lão cùng vô số già làng khác trên khắp Văn Lang. Cũng hai mắt, một mũi, một miệng, mái tóc muối tiêu và làn da nhăn nhúm đặc trưng của bô lão cao tuổi; vị
thần sông Thanh Giang khác người ở chỗ, toàn thân phủ lên một màu vàng
óng chói lòa cả mắt, khoa trương đến nỗi trông lão hệt một khối vàng di
động. Bắt gặp đôi mắt mở to trầm trồ của Lạc Cơ, lão vuốt râu cười khà
khà, toàn thân còn xoay qua xoay lại ra chiều oai vệ lắm.
“Thế nào? Có phải là sơn hậu rất ấn tượng với bộ cánh này của ta không?”
“Con…”
“Khà khà, đừng ngại, đừng ngại, sơn hậu con cũng không phải là người đầu tiên đâu. Cứ tự nhiên nói ra cảm nghĩ của mình đi.”
“Lạc Cơ thấy lão mà đứng trên sông ban đêm, ngư dân cũng không cần đốt đèn, vẫn câu được khối cá.”
Lời nói ra vô cùng thật lòng, Lạc Cơ cũng không hiểu tại sao lão rùa già lại úp mặt vô tường khóc ròng.
Quan lại bên dưới thì đồng lòng cúi gằm đầu, vai đồng nhịp run lên.
Thần Kim Quy, tự sứ giả Thanh Giang, bấy lâu ăn mặc lòe loẹt, tác
phong phô trương, lúc nào cũng thích người khác tâng bốc mình. Chỉ cần
có người tỏ ý mỉa mai, lão liền bày ra nụ cười hiền như bụt, “mời” kẻ
bất kính kia về thủy cung lau dọn mấy năm, đồng thời kiêm luôn vai trò
bầu bạn, sáng chiều nghe lão tâm tình không dứt. Người trong sáu giới
trông thấy lão từ xa đã vắt giò lên cổ chạy dài, cho nên đến tận bây giờ còn qua lại với lão ngoài Thánh Tản ra, chỉ còn vị thánh biển Đông và
vị tiên mẫu trên đỉnh Độc Tôn.
Lý do cũng rất dơn giản, nghe nói vị tiên mẫu Độc Tôn kia bị điếc, còn vị thánh biển Đông nọ bị câm.
Người trong sáu giới nghe đến đây, ai cũng vuốt trán thán phục Tản
Viên Sơn Thánh, không mang “thần công” như hai người đó cũng có thể
chống đỡ lâu như vậy. Quả là quá lợi hại!
Mà cái kẻ giả câm điếc vô cùng lợi hại kia và cái người nói nhiều đến hại lợi nọ hiện đang cùng nhau thưởng trà trong sân.
Trái với dáng vẻ nhiều chuyện, khoa trương thường ngày, thần Kim Quy
giờ phút đối ẩm cùng bạn hữu lại vô cùng nho nhã, trầm ổn. Tay đưa lên
vuốt chòm râu dài nửa bạc nửa đen, mắt lão hơi khép lại, đầu lắc nhẹ
theo điệu nhạc ăn mừng vẳng lại từ người dân dưới thành.
“Sơn thánh hẳn đã biết lý do ta đến lần này?”
Nguyễn Tuấn đầu không quay, mắt vẫn hướng về phương trời xa, khóe
miệng khẽ cong thành nụ cười bình thản. “Còn không phải do lão biết con
lấy mộc quỷ làm vợ, nên muốn đến khuyên răn?”
Thần Kim Quy im lặng một lúc, thong thả uống một hớp trà, đoạn mỉm cười.
“Xem ra chuyến đi này lại vô ích rồi.”
Nguyễn Tuấn không nói gì. Thần Kim Quy sinh bất nhẫn, nhướn mày hỏi nhỏ.
“Sơn thánh thật sự sẽ từ bỏ mộng tưởng của mình như thế?”
“Không bất tử, không trở thành thần,” chàng chậm rãi đáp. “Không có nghĩa là con không thể thực hiện mộng tưởng của mình.”
“Nhưng đời sống một bán thần có hạn. Vài trăm năm ngắn ngủi, liệu có đủ để con làm chúng sinh thức tỉnh?”
“Như vậy, sau này họ đành phải tự dựa vào bản thân.”
Khói sim vấn vít trong ráng chiều rực rỡ, làm nổi bật hai dáng hình
một trẻ một già mờ ảo trong mây, lão rùa già thở dài, mắt nhìn thẳng
chàng trai đối diện mình, giọng trầm xuống một nốt.
“Nguyễn Tuấn, từ lúc sinh ra đến giờ, con luôn có thể tự giác ngộ
trọng trách bản thân và hết lòng theo đuổi nó, đối với ta lại chưa hề có chút lòng riêng. Đó cũng là một trong những lý do ta bất chấp bọn bất
tử trên chín tầng mây kia, giao du với một bán thần nửa chân còn nhúng
vào thế tục như con. Nhưng điều dó không có nghĩa ta được phép can thiệp quá nhiều vào chuyện ở nhân gian, giờ đây tất cả những gì ta có thể làm được cho con là lời khuyên cuối cùng này.”
Nguyễn Tuấn lắc đầu. “Nếu lão muốn khuyên con từ bỏ sơn hậu của mình, cũng không cần nói nữa.”
“Ta há có thể làm chuyện nhàm chán đó lần nữa sao?” thần Kim Quy bật
cười, đôi mắt trong một khắc để lộ sự u buồn nhàn nhạt, miệng bất giác
lẩm nhẩm. “Và lần nào kết quả cũng vậy, còn cứng đầu thì quả là dư
thừa…”
“Ý lão là sao?” Nguyễn Tuấn nhíu mày. “Con nhớ không lầm thì đây là lần đầu tiên chúng ta bàn về chủ đề này.”
Bốn mắt níu giữ lấy nhau thật lâu, cuối cùng lão rùa già chỉ cúi đầu
uống trà, điềm đạm nói. “Hãy lắng nghe tiếng trống đồng, Nguyễn Tuấn.
Chúng có thể cho con biết nhiều hơn con có thể tưởng tượng nỗi.”
Vừa dứt lời, mắt lão bỗng lóe bạc, cả người gập lại như vừa bị trúng đòn ngay ngực.
“Kim Quy! Lão…!” Nguyễn Tuấn đứng bật dậy toan lao về trước đỡ lão.
“Không sao, không sao,” thần Kim Quy xua tay, đoạn gạt đi chút máu rỉ ra nơi mũi. “Chẳng qua phạm một chút luật trời, bị một chút cảnh cáo…”
Bàn tay đưa ra giữa không trung nắm lại, Nguyễn Tuấn ngồi xuống ghế,
mắt mang chút nhận thức u ám, lát sau liền bước ra dập đầu vái lạy.
Thần Kim Quy thở dài đón nhận cái lạy của vị thánh núi Tản, miệng nói rất khẽ chỉ để bản thân nghe thấy. “Cũng chỉ mong lần này, bấy nhiêu đó sẽ đủ để chuộc lại lỗi lầm của ta…”
Đêm đó Lạc Cơ không có gối ôm nên không ngủ vào, lật đật bò dậy đi
tìm chồng, bắt gặp chàng đang chắp tay trầm ngâm bên hồ. Mặt băng hắt
lên mắt phượng thứ màu xanh ảm đạm, những trăn trở thầm kín giấu tận đáy lòng không hiểu sao lúc này lại rõ ràng đến vậy.
Nàng đến gần, dang tay ra ôm lấy chàng từ sau lưng, lát sau liền được kéo vào trước ngực, áo lông dày dặn phủ lên ấm áp, lại có giọng nghiêm
khắc khẽ khàng trách móc. “Sao lại mặc ít như vậy?”
Tựa vào vòm ngực quen thuộc, nàng khẽ cọ cọ trên da thịt ấm nồng. “Dù gì Lạc Cơ cũng đâu bệnh được…”
“Không bệnh, nhưng cũng cảm thấy lạnh,” ai đó thở dài. “Đã nói bao nhiêu lần, có việc mặc thêm áo cũng không nhớ.”
Lạc nữ phồng má, càng rúc sâu vào sự ấm áp.
“Lạc Cơ nhớ chứ. Nhưng nếu mặc áo sẽ không được chàng ôm như vậy.”
Nguyễn Tuấn bần thần trong vài khắc, cằm sau đó tựa trên đỉnh đầu
nàng thở ra thỏa mãn, vòng tay càng lúc càng siết chặt. Đến khi con
người trong lòng đã bị mình ủ cho nóng bừng lên, phải chui đầu ra khỏi
áo khoác, chàng mới chầm chậm lên tiếng.
“Nếu có một ngày ta gặp nạn lớn, nàng có chịu ở lại nơi đây?”
Lạc Cơ lập tức lắc đầu.
Sau đó, dĩ nhiên bị buộc phải ngước đầu nhìn gương mặt đen thui cùng ánh mắt u ám của người nọ.
“Không?”
“Không.” Vẫn lắc đầu, nàng khẳng định.
Mắt dài nheo lại mang theo đe dọa. “Nàng nghĩ ta sẽ cho phép nàng rời khỏi?”
“Nếu không, chàng hỏi em có chịu ở lại không làm gì?”
“Ta…”
“Chỗ này nếu có nạn lớn, dĩ nhiên Lạc Cơ phải rời khỏi đây rồi. Không phải chàng đã dặn em gặp nguy phải lo chạy sao?”
Ánh nhìn như thiêu như đốt dùi sâu vào gương mặt chân thành đến ngây
ngô, Nguyễn Tuấn bất giác nắm chặt hai bàn tay. Chàng tức giận! Rõ ràng
nàng đã luôn nhớ lời dặn của chàng, việc nàng muốn làm cũng không ngoài
dự định ban đầu của chàng, nhưng nghe từ chính miệng nàng nói muốn bỏ
rơi mình, chàng lại không chịu nỗi.
Trong thời khắc cảm xúc thình lình bị tấn công đó, chàng bất chợt
phát hiện, thì ra bản thân không vị tha cao cả như bấy lâu đinh ninh. Vị thánh núi Tản nổi danh nhân từ bác ái, một khi đã sa lầy tình yêu, hóa
ra cũng hèn mọn, nhỏ nhen như biết bao phàm phu tục tử chốn trần gian.
“Ta thà lôi nàng cùng chết, cũng không muốn nàng rời bỏ ta.”
Lời buông ra tưởng sẽ cứng rắn, có ngờ lại có chút nghẹn ngào, rất nhiều vụn vỡ.
“Lạc Cơ có nói bỏ chàng bao giờ?” vợ ai kia chớp mắt, tim hơi khó
chịu trước dáng vẻ khổ sở của người thương. “Em bỏ chạy thì chắc chắn
phải lôi chàng theo chứ. Hai chúng ta cùng chạy.”
Kẻ cao to kia sau đó sững ra trước nàng thật lâu. Đến lúc chân nàng
gần như nhũn nhão dưới áp lực ánh nhìn không biết là vui mừng hay tức
giận kia, chàng mới rũ mắt trầm giọng.
“Ta là sơn thánh, không thể bỏ lại con dân mà chạy.”
“Vậy Lạc Cơ ở lại cùng chàng.”
Đến lúc này, sơn thánh nọ mới cảm thấy trong lòng bình tĩnh lại, có chút nhộn nhạo, rất nhiều ấm áp.
Cảnh vật về đêm cứ thế mà vây nuốt lấy họ, sắc xanh trầm buồn phủ nhẹ lên cặp tình nhân sự lãng mạn vương chút sầu thảm. Đâu đó chỉ còn vọng
lại tiếng lạc nữ thỏ thẻ cùng tình lang…
“Thật ra đừng nói là con dân gì đó, con bò con heo chúng ta cũng có thể mang theo cùng chạy mà…”