Hai đoạn ký ức của tôi tuy mâu thuẫn với nhau nhưng lại cùng tồn tại,
một trong hai hiển nhiên là sự lừa gạt của tiềm thức đối với ý thức.
Tiềm thức mà quá sôi nổi thì có thể nói là đã thuộc vào phạm trù hoang
tưởng ảo giác rồi, rất có thể còn là dấu hiệu báo trước của bệnh tâm
thần phân liệt nữa.
Tôi hơi sững người ra một chút, sau đó liền mỉm cười nhẹ nhõm. “Tôi ư? Tôi đâu có bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế!”
”Gương.” Cô ta nói với giọng hết sức bình tĩnh: “Anh rất sợ soi gương đúng không?”
Câu nói này tựa như một đôi tay mạnh mẽ bóp nghẹt trái tim tôi. Tôi vô
thức đưa tay lên vỗ ngực trái, thế rồi không kìm được cất giọng khàn
khàn hỏi: “Cô làm sao biết được?”
“Thứ mà anh sợ không phải là bản thân những chiếc gương, mà là cái bóng
của mình trong gương.” Cô ta lại nói tiếp: “Do đó, anh sợ bất cứ thứ gì
có thể phản chiếu ánh sáng.” Sau khi dừng lại khoảng hai giây, cô ta
nhìn chằm chằm vào tôi bằng đôi mắt thoáng mang vẻ mịt mờ. “Chẳng hạn
như bức tường thủy tinh ở giữa chúng ta vậy”
Dưới sự ám thị của câu nói này, tôi đã lại một lần nữa dồn sự chú ý vào
bức tường thủy tinh. Sau khoảnh khắc, tôi bỗng thấy bức tường thủy tinh
như được tôn lên bởi những hạt bụi li ti dày đặc giữa không trung, dần
dần biên thành một chiếc gương thật sự... Diệp Thu Vi ở bên kia tường
dần trở nên mơ hồ, còn cái bóng của tôi thì nhanh chóng trở nên rõ nét.
Tôi nhìn thoáng qua cái bóng của mình một chút, trái tim bất giác đập
thình thịch. Hai giây sau, tôi đột nhiên tỉnh táo trở lại từ trong cơn
mơ màng. Mọi thứ vẫn y nguyên như cũ: Trong phòng bệnh tĩnh lặng, tôi và Diệp Thu Vi ngồi cách nhau chỉ một bức tường. Không gian trong phòng có vẻ hơi u ám, ánh dương từ ngoài cửa sổ chênh chếch chiếu vào, một phần
thì rọi giữa không trung, một phần thì bao trùm đầu và bờ vai của Diệp
Thu Vi, còn có một phần khác nữa bị bức tường thủy tinh làm cho suy yếu, cứ thế rọi thẳng vào mắt tôi.
Tôi khẽ ho một tiếng, không kìm được cúi đầu xuống, dùng tay trái lật
lại những trang trước của cuốn sổ tay. Tất cả những hành vi này tôi đều
thực hiện trong trạng thái hoàn toàn vô thức, bởi lẽ mãi đến khi đã hoàn thành động tác rồi tôi vẫn không biết tại sao mình lại làm như vậy.
Tôi đưa tay gãi đầu, cố hỏi bằng giọng bình tĩnh nhất có thể: “Cô làm sao biết được?”
”Bởi vì ánh mắt của anh.” Diệp Thu Vi nói. “Phần lớn thời gian ánh mắt
của anh đều có sức xuyên thấu rất mạnh, những lúc như thế bức tường thủy tinh này gần như là không tồn tại đối với anh. Nhưng đôi lúc, ánh mắt
của anh lại chợt trở nên đờ đẫn và tập trung vào bức tường này, mỗi lần
như vậy trong mắt anh đều ánh lên những tia sợ hãi rất nhỏ bé... Cỏ lẽ
ngay chính bản thân anh cũng không phát giác ra nỗi sợ hãi này của
mình.”
Tôi khẽ gật đầu, nở một nụ cười mỉm, cố gắng tỏ ra nhẹ nhõm. Thực ra,
ngay chính bản thân tôi cũng chẳng rõ tại sao vừa rồi mình lại căng
thẳng như vậy. “Đúng vậy, ngay từ nhỏ tôi đã có một nỗi sợ hãi khó hiểu
đối với những chiếc gương, mà tôi cũng sợ cả những vật có thể phản chiếu ánh sáng nữa. Đối với cô, nhìn ra điều này có lẽ là một việc hết sức rõ ràng, nhưng tình trạng này của tôi có liên quan gì tới chứng rối loạn
ám ảnh cưỡng chế ư?”
”Có một tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế rất đặc thù, nó kiêm cả
những đặc trưng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế tích cực và tiêu cực.”
Diệp Thu Vi hờ hững nói: “Xuất phát từ nỗi sợ hãi đối với một thứ nào
đó, người thông qua những tư duy hoặc hành vi không ngừng lặp lại để
loại trừ nỗi sợ hãi, đây là biểu hiện của chứng rối ám ảnh cưỡng chế
tích cực điển hình. Nhưng trong hợp này, phương thức để loại trừ nỗi sợ
hãi thì lại không phải là tự an ủi, mà là thực hiện các hành vi thực
tiễn đối với sự vật hoặc sự việc mà bản thân sợ hãi. Tôi lấy một ví dụ
đơn giản thế này, có người thiếu cảm giác an toàn, sợ bản thân bị tổn
thương, thế là liền không ngừng làm bản thân bị tổn thương để loại trừ
nỗi sợ hãi. Chẳng hạn như có một cô bé đang học trung học phổ thông đã
liên tục dùng dao cứa vào cánh tay của mình nhiều lần...” 8
Tôi vừa lắng nghe vừa vô thức ngẩng đầu lên ánh dương tràn qua chỗ Diệp
Thu Vi rọi thẳng đến mặt tôi khiến hai mắt của tôi đều đau nhói. Cùng
lúc đó, bên tai tôi lại một lần nữa vang lên những tiếng rít quái dị, mà tiếng rít còn dần dần trở nên rõ ràng, cứ như thể đến từ một nơi không
xa phía trước tôi vậy, và nơi đó không phải đâu khác mà chính là chỗ của Diệp Thu Vi.
”Còn anh...” Diệp Thu Vi lại nói tiếp: “Anh rõ ràng là sợ soi gương, thế nhưng trong lòng lại tràn đầy ham muốn soi gương. Do đó, phần lớn thời
gian ánh mắt của anh đều tập trung trên người tôi, nhưng thỉnh thoảng
cũng không kìm nén được ham muốn này mà chuyển sự chú ý sang bức tường
thủy tinh trước mặt, đồng thời tưởng tượng đó là một chiếc gương và tìm
kiếm cái bóng của mình ở bên trong.”
Tôi mở to mắt ra, tiếng rít kia rời xa ra một chút vậy nhưng vẫn chưa biến mất hoàn toàn.
”Còn nữa.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp: “Anh rất sợ những tia sáng chói
mắt, vậy nhưng lại luôn muốn nhìn thẳng vào ánh mặt trời trong vô thức,
đây lẽ nào không phải là biếu hiện của một tình trạng rối loạn ám ảnh
cưỡng chế đặc thù ư?”
Tôi lại một lần nữa nhìn ra ngoài cửa số, đôi mắt bất giác đau nhói từng cơn. Diệp Thu Vi nói không sai, mắt của tôi trời sinh đã nhạy cảm và
yếu ớt, chỉ cần gặp phải tia sáng hơi mạnh một chút là sẽ cay sè và chảy nước mắt, thế nhưng trong lòng tôi lại luôn ngợp đầy khao khát được
nhìn thẳng vào ánh mặt trời.
”Nguồn gốc của bất kỳ tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế nào cũng đều
là nỗi sợ hãi.” Diệp Thu Vi hờ hững nói: “Anh Trương, anh có từng nghĩ
tới việc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế của mình là từ đâu mà ra không? Anh đang sợ hãi điều gì? Rốt cuộc là thứ gì đã khiến anh phải sợ hãi
đến như vậy?”
Tôi bất giác chìm vào trầm tư, tiếng rít vốn đã đi xa lại một lần nữa
quay trở lại, tựa như muôn vàn con ngựa cùng phi, thỏa sức giẫm đạp lên
trái tim tôi. Tôi bịt chặt tai, nhắm mắt lại, đầu óc chìm trong một mảng hỗn loạn. Đột nhiên, một tràng những tiếng gõ giòn tan vang lên trước
mặt tôi. Tôi mở mắt ra, thấy Diệp Thu Vi vẫn ngồi ngay ngắn ở đó, ngón
trỏ tay phải thì đang nhẹ nhàng gõ lên bức tường thủy tinh trước mặt.
Anh mắt tôi lại một lần nữa tập trung vào bức từong thủy tinh, tay của
Diệp Thu Vi dần dần trở nên mơ hồ, cái bóng của tôi thì lại một lần nữa
trở nên rõ nét.
Diệp Thu Vi cứ thế gõ ngón tay vào bức tường thủy tình một cách chậm rãi nhưng rất có tiết tấu. Tôi nhìn chằm chằm vào đó, đột nhiên cảm nhận
được một nỗi sợ hãi vô cùng khó hiểu. Qua đôi mắt, nỗi sợ hãi đó đi vào
trong thân thể tôi, cuối cùng ăn sâu vào tận trong xương tủy. Tuy đang
là tháng Bảy nhưng tôi vẫn cảm thấy toàn thân lạnh toát như đang phải
ngâm mình giữa hố băng.
“Anh Trương?” Diệp Thu Vi đột nhiên dừng việc gõ ngón tay vào bức tường thủy tinh lại, hỏi: “Anh không sao chứ?'
Tôi đưa tay lên, vừa định nói gì đó thì chiếc bút trên tay lại một lần
nữa rơi xuống đất. Tôi nhặt bút lên, toàn thân bỗng trở nên mất kiểm
soát mà run lên lẩy bẩy. Tôi nhìn thoáng qua Diệp Thu Vi một chút, đột
nhiên cảm thấy buồn nôn khó tả. Tôi dùng sức ấn mạnh vào cổ mình, cảm
thấy việc hít thở trở nên rất khó khăn.
Diệp Thu Vi lại gọi tôi lần nữa: “Anh Trương?”
Tôi gấp cuốn sổ tay của mình lại, ngả người ra phía sau tựa lưng vào
ghế, ngửa cổ nhìn lên trần nhà, không nói năng gì cả. Chừng nửa phút
sau, tôi hít sâu một hơi, ngồi thẳng người trở lại, nhìn Diệp Thu Vi và
nói bằng giọng không được tự nhiên cho lắm: “Xin lỗi, cô Diệp, mấy ngày
nay tôi không nghỉ ngơi cẩn thận, quả thực có hơi mệt rồi. Chi bằng cuộc gặp mặt ngày hôm nay hãy dừng tại đây đi, ngày mai tôi sẽ lại tới thăm
cô.” Tôi đờ đẫn đúng dậy, đi tới bên cạnh cửa, đặt tay lên công tắc
chuông báo động, rồi ngoảnh đầu nhìn lại, lúng túng nói: “Thực sự rất
xin lỗi, mong cô đừng trách.”
Diệp Thu Vi bình tình ngồi trên chiếc ghế mây, chân phải gác lên chân
trái, tay trái thì nhẹ nhàng vuốt ve mu bàn tay phải. “Được, hẹn ngày
mai gặp lại.”
Trước khi rời khỏi Bệnh viện Tâm thần thành phố, tôi đương nhiên lại
phải trải qua một quá trình đánh giá tâm lý. Trình tự đánh giá tâm lý
lần đó phức tạp hơn bình thường khá nhiều, các bác sĩ không chỉ kiểm tra chi tiết các chỉ tiêu sinh lý của tôi, còn hỏi tôi rất nhiều câu hỏi
khó hiểu. Sau khi lấy được kết quả đánh giá, lão Ngô đi tới bên canh
tôi, khẽ vỗ vai tôi, hỏi: “Lão Trương, cậu vẫn ổn chứ?”
“Hả?” Tôi khi đó đã phần nào khôi phục lại tinh thần, bèn cười nói:
“Không có gì là không ổn cả. Sao vậy? Phát hiện ra là tớ mắc bệnh tâm
thần hay sao?”
Lão Ngô đưa tay lên sờ gáy, cười vang ha hả, nói: “Nếu đúng là như vậy, hôm nay tớ đã chẳng cho cậu đi rồi.”
Tôi đáp lại bằng nụ cười mỉm, sau đó cất lời cảm thán: “Hôm nay tớ rốt
cuộc đã thấy được chỗ đáng sợ của người phụ nữ này rồi, chẳng chuyện gì
giấu được cô ta cả.”
Sắc mặt cứng đờ ra trong một thoáng, thế rồi lão Ngô liền nở một nụ cười đầy ý vị. “Tiếp xúc với cô ta quả thực không phải là một chuyện dễ
dàng. Cậu có thể đến gặp cô ta một tuần liền, hơn nữa lần nào cũng đều
bình yên trở ra, đó đã là một chuyện rất không đơn giản rồi. Thế nào,
ngày mai cậu vẫn tới chứ? Có cần nghỉ ngơi vài ngày không?”
“Không cần.” Tôi vội vàng xua tay, nói: “Thực ra cô ta cũng không có chỗ nào qus thần bí cả, chỉ là có thể nhìn thấu tâm lý của người khác thôi. Có lúc, chúng ta rất khó chấp nhận rằng bộ mặt thật sự của mình hóa ra
lại là như vậy, cho nên mới cảm thấy cô ta đáng sợ thôi.” Tôi nhìn lão
Ngô, khẽ gật đầu trong vô thức. “Ngày mai tớ sẽ tiếp tục tới đây, phiền
cậu sắp xếp sẵn mọi việc giúp tớ nhé.”
Lão Ngô xếp lại chồng giấy báo kết quả đánh giá tâm lý của tôi một cách
cẩn thận, sau đó khẽ vỗ vai tôi, nói ra mấy lời vô cùng kì lạ: “Vất vả
cho cậu rồi!”
Việc đánh giá tâm lý kết thúc vào lúc mười giờ mười lăm phút sáng, lúc
này mặt trời đã lên rất cao rồi. Tôi từ chối sự đưa tiễn của lão Ngô,
một mình đi tới bãi đỗ xe của bệnh viện. Trong khoảnh khắc mở cửa xe,
ánh mặt trời phản chiếu qua cửa sổ xe rọi vào mắt tôi. Tôi nhớ tới lời
của Diệp Thu Vi khi nãy, không kìm được ngẩng lên nhìn mặt trời. Những
tia sáng rực rỡ tràn tới, tôi lại một lần nữa cảm thấy đầu óc quay cuồng choáng váng.
Tôi vội vàng lên xe rồi ngồi tựa lưng vào ghế, tâm trạng dần dần bình ổn trở lại, dòng suy nghĩ lại một lần nữa xoay chuyển liên hồi: Chứng rối
loạn ám ảnh cưỡng chế của Lưu Hướng Đông rốt cuộc có nguồn gốc từ đâu?
Diệp Thu Vi đã giết chết ông ta như thế nào? Sau khi Lưu Hướng Đông
chết, Lưu Trí Phổ đã xảy ra những biến hóa ra sao? Những việc này e là
phải đợi đến ngày mau mới có thể biết được.
Tôi thở dài một hơi, bắt đầu cảm thấy hối hận vì sự không kiên định của
mình khi nãy. Dù có khó chịu đến đâu đi nữa thì tôi cũng nên kiên trì
nghe Diệp Thu Vi kể xong chuyện về Lưu Hướng Đông mới phải. Có điều ngẫm lại, trong lòng tôi nảy ra một suy nghĩ mới: Dù sao cũng đã có một chút hiểu biết về Lưu Hướng Đông cũng như Lưu Trí Phổ rồi, tại sao mình lại
không trực tiếp đến Công ty E và Đại học C để thử điều tra một phen nhỉ?
Vừa mới chuẩn bị khơi động ô tô tôi đã lại đột ngột sững người, không
kìm được đưa tay vỗ mạnh đầu một cái. Tôi thiếu chút nữa thì quên mất
chuyện quan trọng nhất cần làm. Tôi mở cặp đựng giấy tờ, lấy từ trong đó ra tờ biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát mà Trần Ngọc Long nhờ vợ
gửi lại cho tôi, xem kĩ nội dung trên đó một lần nữa.
Người báo cảnh sát: Trần Ngọc Long. Phương thức báo cảnh sát: gọi điện
thoại. Thời gian báo cảnh sát: 10h 22 phút sáng ngày 20 tháng 7 năm
2002. Địa điểm xảy ra vụ án: Căn hộ 1218, toàn nhà số 8, khu C, Cẩm Tú
Hoa Viên. Lược thuật tình tiết vụ án: Có người bị bắt cóc, giam giữ trái pháp luật. Hành động của cảnh sát: Sau khi nhận được tin báo, trong
vòng mười lăm phút, Hà Hải Phong, Đỗ Nhân Cường, Tôn Khả, Lý Mộng Tình
đã đến hiện trường. Người xử lý chính: Hà Hải Phong. Trưởng ca trực: Lý
Ngọc Lương.
Năm 2002, tôi bị bắt cóc và giam giữ trái pháp luật, chính Trần Ngọc
Long đã gọi điện báo cảnh sát giúp tôi được giải cứu. Tờ biên bản xử lý
tình huống báo cảnh sát này rõ ràng là bằng chứng thép cho việc Trần
Ngọc Long đã cứu giúp tôi trong lức nguy nan, thế mà Thường Giai Lệ lại
nói rằng nó tượng trưng cho sự áy náy của Trần Ngọc Long với tôi. Khi
nói ra những lời này, cô ta tỏ ra rất tự nhiên và nghiêm túc, tuyệt đối
không phải là ăn nói linh tinh. Cùng với đó, các dấu hiệu đều cho thấy
giữa Trần Ngọc Long và sự kiện M có tồn tại rất nhiều mối liên quan. Vậy thì, giữa tôi và sự kiện M liệu có tồn tại mối liên quan gì không? Phía sau tờ biên bản này phải chăng có ẩn chứa một bí mật nào đó mà người
ngoài không hay biết?
Đây mới là trọng điểm mà hiện tại tôi cần tập trung điều tra.
Sau khi suy nghĩ kĩ càng, tôi quyết định gọi điện thoại cho lãnh đạo,
nhờ anh ta giúp mình làm rõ thông tin về Hà Hải Phong và Lý Ngọc Lương
được nhắc tới trong tờ biên bản. Lãnh đạo đồng ý với tôi là sẽ có câu
trả lời trước hai giờ chiều. Sau đó, tôi lái xe đi thẳng tới Đại hoc C,
sau khi tán gẫu vu vơ mấy câu với bác bảo vệ ở cổng trường, liền hỏi han chuyện về Lưu Trí Phổ.
”À, hóa ra là cậu muốn tìm Giáo sư Lưu.” Bác bảo vệ hai mắt sáng rực,
trong giọng nói mang đầy vẻ kính ngưỡng. “Vậy thì cậu phải tới Học viện
Hóa học công nghiệp mà tìm.”
”Hả?” Tôi cảm thấy có chút bất ngờ. “Anh ta bây giờ đã là Giáo sư rồi ư?”
”Đây là chuyện từ năm ngoái rổi.” Bác bảo vệ tỏ ra hết sức tự hào. “Cậu
ấy là Giáo sư trẻ tuổi nhất trong lịch sử của Đại học C đấy, thật là một nhân tài hiếm gặp. À mà không, phải nói là thiên tài mới đúng.”
Tôi bất giác rơi vào dòng trầm tư: Dựa theo cách nói của Diệp Thu Vi thì sở dĩ Lưu Trí Phổ có thể thăng tiến thuận lợi trong sự nghiệp hoàn toàn là nhờ vào sự bảo bọc của cha mình, nhưng Lưu Hưóng Đông đã qua đời từ
tháng 1 năm 2009, tính tới nay cũng được gần ba năm rồi, thế mà sự
nghiệp của Lưu Trí Phổ không những không bị ảnh hưởng chút nào mà còn
phát triển mạnh hơn, mới hai mươi bảy tuổi mà đã trở thành Giáo sư
rồi...
Chẳng lẽ anh ta thực sự là một thiên tài học thuật? Sự miêu tả của Diệp
Thu Vi về anh ta chỉ là những lời dối trá thôi ư? Tại sao cô ta phải làm như vậy?
Tôi vô thức buột miệng hỏi: “Có phải cha anh ta đã qua đời từ ba năm trước rồi không?”
”Hả?” Bác bảo vệ thoáng sững người ra một chút. “Có khi nào chúng ta
đang nói về hai người khác nhau không nhỉ? Cha của Giáo sư Lưu mà tôi
vừa nói tới là Lưu Hướng Đông - một nhà khoa học lẫy lừng, mà mới tuần
trước ông ấy còn nhận lời mời về trường giảng bài công khai đấy. Cái gì
mà qua đời với không qua đời chứ, à mà không đúng, chúng ta nhất định là đang nói tới hai người khác nhau rồi.”
Tôi hỏi: “Nhà khoa học Lưu Hướng Đông này là người của Công ty Dược phẩm E phải không bác?”
”Đúng rồi.” Bác bảo vệ nói. “Mà ông ấy có nhiều chức vụ lắm, không chỉ
là lãnh đạo của Công ty E mà còn là Hiệu phó danh dự của Đại học C chúng tôi nữa đấy.”
Tôi đột nhiên cảm thấy đầu đau như búa bổ.
”Anh bạn trẻ, cậu không sao đấy chứ?” Bác bảo vệ thò nửa người qua cửa
số phòng bảo vệ. “Với lại, cậu rốt cuộc muốn tìm Lưu Trí Phổ nào vậy?
Tôi nhớ là trong trường này chỉ có một thầy giáo tên là Lưu Trí Phổ
thôi. Ngưòi cậu muốn tìm có phải là thầy giáo không thế? Ôi, tôi bị cậu
làm cho rối tình rốì mù cả lên rồi đây này.”
Tôi đưa tay ôm đầu, cũng cảm thấy đầu óc hết sức hỗn loạn.
Sau khi hỏi rõ vị trí cụ thể của Học viện Hóa học công nghiệp, tôi quay
trở lại xe. Trong khi ấn nút khởi động, tôi nhìn vào gương chiếu hậu ở
hai bên theo thói quen. Khi thu mắt về từ chiếc gương chiếu hậu ở phía
bên phải, tôi vô ý liếc thấy tập tài liệu về những vụ án mạng mà mình
đặt trên ghế lái phụ. Tôi bất giác cả kinh, vội vàng cầm tập tài liệu đó lên, nhanh chóng lật đến trang thứ bảy:
Lưu Hướng Đông, nam, sinh tháng 4 năm 1958, khi còn sống từng là Chủ
nhiệm trung tâm Nghiên cứu khoa học của Công ty Dược phẩm E. Ngày 6
tháng 11 năm 2009, tử vong tại nhà do tự sát.
Tôi nhìn về phía trước, ánh mắt đờ đẫn, dòng suy nghĩ xoay chuyển liên hồi.
Diệp Thu Vi không hề lừa tôi: Tuy cô ta vẫn luôn kể về chuyện của Lưu
Hưóng Đông và Lưu Trí Phổ, cũng nói rằng mình muốn giết Lưu Hướng Đông,
vậy nhưng chưa từng nói rằng Lưu Hướng Đông đã chết, lại càng chưa từng
nói rằng Lưu Hương Đông cuốỉ cùng chết vì sự ám thị của cô ta. Cần phải
biết rằng cuối tháng 10 năm 2009, X đã phát hiện ra Diệp Thu Vi muốn
giết Lưu Hưóng Đông, cho nên ắt hẳn là đã chú tâm bảo vệ Lưu Hướng Đông. Do đó, dù kế hoạch dẫn dắt cho Lưu Hướng Đông tự sát của Diệp Thu Vi
cuối cùng có thất bại thì cũng không phải là chuyện gì quá bất ngờ.
Ý nghĩ về việc “Lưu Hướng Đông đã chết” đã tạo thành ấn tượng chủ đạo
trong suy nghĩ của tôi, nhưng điều này hoàn toàn là do tập tài liệu kia
mà ra chứ không có mối liên quan trực tiếp gì với Diệp Thu Vi cả. Nếu
ban nãy tôi kiên trì ở lại nghe Diệp Thu Vi kể tiếp, có lẽ cô ta sẽ nhắc tới sự thực về việc Lưu Hướng Đông còn sống, dù sao cô ta cũng từng nói là sẽ thành thực với tôi...
Chờ đã, tập tài liệu này là do người của Bệnh viện Tâm thần thành phố
giao cho tôi. Dựa theo cách nói của lão Ngô và bác sĩ Thang thì thông
tin bên trong đều là do cảnh sát cung cấp. Nếu Lương Hướng Đông chưa
chết, tại sao cảnh sát lại cung cấp thông tin là ông ta đã tự sát và qua đời tại nhà riêng vào năm 2009 chứ? Lưu Hướng Đông dù sao cũng là một
ngưòi nổi tiếng, cảnh sát chẳng có lý nào lại đi bịa đặt như vậy, càng
không bao giờ coi cái chết không hề có thật của ông ta là một tình tiết
của vụ án và ghi ra giấy như thế
- dù rằng tập tài liệu về những vụ án mạng kia không phải là văn kiện chính thức gì cả.
Vần đề có lẽ là nằm tại Bệnh viện Tâm thần thành phố. Chằng lẽ cỏ người
muốn làm rối loạn việc phỏng vấn và điều tra của tôi, thế nên mới cố
tình cung cấp các thông tin sai lệch? Người này là lão Ngô hay là Thang
Kiệt Siêu đây? Có khi nào sau lưng bọn họ còn có một nhân vật lớn khác?
Thậm chí, đây cũng có thể là ý của chính bản thân Diệp Thu Vi lắm chứ?
Nếu người bày trò là cô ta thì tại sao cô ta phải làm như vậy? Nếu không phải là cô ta, vậy thì người đứng sau chuyện này rốt cuộc có dụng ý gì?
Dòng suy nghĩ của tôi trở nên hỗn loạn, chỉ đành dừng lại tại đây.
Tôi dần dần tỉnh táo trở lại, thấy ánh mặt trời chiếu xuống tâín kính
chắn gió phía trước, vừa ấm áp lại vừa dịu nhẹ. Tôi không kìm được nhoài người qua chiếc vô lăng, ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn thẳng vào vầng
mặt tròi chói chang. Diệp Thu Vi nói rất đúng, tôi sợ những luồng sáng.
Mỗi lần nhìn thẳng vào những luồng sáng có cường độ quá lớn, ngoài đau
mắt ra tôi còn cảm thấy đầu óc mơ màng, tựa như đi vào giấc mộng. Thứ
cảm giác đó không rõ là tốt hay xấu, nhưng tóm lại là chẳng dễ chịu gì,
có lúc còn khiến tôi thấy buồn nôn nữa. Dù rằng như thế, tôi vẫn thường
xuyên không kìm được muốn nhìn thẳng vào những luồng sáng mạnh, tựa như
phía sau đó có giấu một thứ gì đó mà tôi vẫn luôn kiếm tìm.
Tôi thoáng nhìn vầng mặt trời đã sắp sang chính ngọ hai mắt cay sè, sống lưng dâng lên từng cơn rét buốt, bên tai lại một lần nữa vang lên tiếng rít quái dị kia. Tiếng rít thoắt ẩn thoắt hiện, có đôi lúc tôi còn cảm
thấy nó giống như tiếng gào thét đau buồn của một người phụ nữ.
Mấy giây sau, tôi hắt hơi một cái, rồi liền điều khiển xe đi vào Học
viện Hóa học công nghiệp. Tôi lại gọi điện thoại cho lãnh đạo một lần
nữa, nhờ anh ta giúp mình nói trước với lãnh đạo của học viện một tiếng
để tiện cho việc điều tra. Lãnh đạo của học viện rất nhanh đã gọi tới
cho tôi, hỏi tôi là có việc gì. Xuất phát từ tâm lý cẩn trọng, tôi không trực tiếp hỏi về Lưu Trí Phố, cũng không chỉ đích danh yêu cầu gặp anh
ta, mà chỉ nói là muốn gặp một giảng viên có thâm niên để trò chuyện một chút. Mười phút sau, một giảng viên nữ gọi điện thoại tới cho tôi, rồi
chúng tôi gặp nhau tại sân vận động ở ngay cạnh tòa nhà văn phòng.
Giảng viên nữ này không ngờ lại chính là Phó Phán Xuân.
Sau một hồi chuyện trò sơ lược, cô ta hỏi thẳng: “Viện trưởng dặn tôi
phải tích cực phối hợp với công việc của anh, nếu tôi giúp được gì thì
xin anh cứ nói”
Tôi khẽ mỉm cười thân thiện. “Cô khách sáo quá rồi, tôi quả thực có một
số việc cần đến sự giúp đỡ của cô. Tôi sẽ hỏi cô mấy câu hỏi này, mong
cô có thể trả lời thẳng thắn.”
Cô ta hơi nhướng mày lên một chút. “Nhất định rồi.”
Tôi trầm tư suy nghĩ một lát, sau đó hỏi: “Cô là một người sống rất có
quy tắc đúng không? Nghe nói đồ ăn thức uống của cô trong mỗi buổi trưa
đều thay đổi tuần hoàn theo đơn vị tuần, không biết điều này có phải là
sự thật không vậy?”
Cô ta thoáng sững người ra một chút. “Anh làm sao lại biết? Có điều đó
đã là việc từ mấy năm trước rồi, sau khi kết hôn thường ngày tôi đều về
nhà ăn cơm trưa, ừm, mấy năm trước tôi quả thực có thói quen này, và
đúng là tôi cũng rất chú trọng tới quy luật trong cuộc sống.”
Xem ra sự miêu tả của Diệp Thu Vi về tính cách của Phó Phán Xuân hoàn toàn là sự thật.
Tôi lại hỏi tiếp: “Cô có biết Giáo sư Lưu Trí Phổ đúng không?”
Cô ta hé miệng ra, mãi một lúc sau mới nói: “Đương nhiên rồi, ở Đại học C này làm gì có ai không biết anh ta.”
”Nghe nói anh ta là một người rất thiếu chung thủy?” Tôi lại hỏi tiếp: “Có phải anh ta thường xuyên thay bạn g ái không?”
”Không.” Cô ta nói vói giọng chắc nịch: “Không biết anh nghe được tin
đồn này từ đầu, nhưng Giáo sư Lưu là người đã có gia đình, có một số
chuyện không thể tin bừa tin bậy được.”
Tôi lại một lần nữa cảm thấy bất ngờ về tình trạng hiện giờ của Lưu Trí Phổ.
”Anh ta kết hôn rồi ư? Từ bao giờ vậy?”
“Anh đang điều tra thông tin cá nhân của anh ta ư?” Phó Phán Xuân nhìn
tôi vẻ cảnh giác, sau đó lại nói tiếp bằng giọng nhẹ nhàng hơn: “Anh ta
kết hôn từ hồi cuối năm 2009.”
”Vợ của anh ta là...”
”Một giảng viên ở Học viện Văn học.” Cô ta nói “Họ Vũ.”
Tôi buột miệng bật thốt: “Là Vũ Tú Thần ư?”
Phó Phán Xuân tỏ ra hết sức kinh ngạc. “Sao anh biết?”
Tôi trầm ngâm suy nghĩ một lát, sau đó mới đưa tay mân mê cằm, chậm rãi
hỏi: “Cô Phó, xin thứ lỗi cho sự mạo muội của tôi, nhưng chẳng hay cô và Giáo sư Lưu có phải đã từng qua lại với nhau một thời gian không vậy?”
Phó Phán Xuân đờ người ra trong khoảng một giây, đôi hàng lông mày cụp
xuống, sau khi khẽ ho lên một tiếng liền đưa mắt nhìn thoáng qua tôi rồi lại nhanh chóng ngoảnh đầu sang phía khác, nhìn chằm chằm vào một sinh
viên đang đá bóng ở chỗ không xa, cất giọng run run nói: “Anh rốt cuộc
muốn hỏi chuyện gì? Chứng tôi đều là người đã có gia đình rồi, mong anh
đừng tin vào những tin đồn vu vơ.”
Tôi hiểu được tâm tư của cô ta, thế là bèn đi tới trước mặt cô ta, nói:“Cô Phó, xin cô hãy yên tâm, tôi không hề có ý nhằm vào cô đâu. Nói thật với cô thế này, tôi đang tiến hành đánh giá tâm lý của Giáo sư Lưu,
chuyện này được thực hiện một cách hết sức bí mật.”
Cô ta lập tức buông lỏng sự cảnh giác đối với tôi, trong ánh mẳt nhìn về phía tôi còn lộ ra sự kính sợ. “Anh đang tiến hành khảo sát anh ta ư?
Có phải anh ta lại sắp được thăng chức không vậy?”
Tôi nghe ra được là cô ta đã hiểu lầm, thế là bèn tương kế tựu kế; giữ
nguyên vẻ mặt nghiêm túc nói: “Chuyện này thì tôi không thể quyết định
được, nhưng sự đánh giá về tâm lý hay phẩm cách của anh ta chắc chắn là
có tác động rất lớn đối với chuyện này, cho nên hy vọng cô có thể tích
cực phối hợp với tôi.”
”Tôi hiểu rồi.” Cô ta nhanh chóng khôi phục lại sự bình tĩnh, sau một
thoáng do dự liền nói thẳng: “Anh nói đúng, tôi trước đây quả thực đã
từng qua lại với anh ta. Đó là chuyện từ hồi năm 2007, nhưng chúng tôi
chỉ ở bên nhau chưa tới nửa năm thì đã chia tay rồi.”
”Có phải cô đã từng có thai với anh ta không?” Tôi phải do dự rất lâu,
cuối cùng vẫn quyết định hỏi ra câu hỏi này. “Cô với anh ta chia tay
nhau trong quãng thời gian cô mang thai phải không?”
Đôi gò má rõ ràng đã hơi run lên một chút, cô ta không kìm được khẽ ho
lên một tiếng, giọng nói dường như trở lên hơi khàn khàn, mãi một lúc
lâu sau mới nói: “Đúng vậy, hồi tháng 8 năm 2007 tôi từng mang thai,
nhưng anh ta không những không quan tâm đến tôi, còn đột nhiên tỏ ra
lạnh nhạt với tôi nữa. Anh Trương, tôi có thể khẳng định với anh rằng
Giáo sư Lưu không phải là một người có trách nhiệm, ít nhất là trong vai trò của một người đàn ông.”
Tôi khẽ gật đầu. “Vậy tôi hỏi lại cô, có phải anh ta rất không chung thủy và thường xuyên thay đổi bạn gái không?”
”Đúng vậy.” Phó Phán Xuân cố tình hạ thấp giọng. “Chỉ tính riêng trong
Đại học C, số bạn gái mà anh ta từng qua lại đã có không dưới mười người rồi, phần lớn đều là giảng viên hoặc nhân viên công chức trong trường.
Tôi cũng mãi về sau mới nghe nói là có mấy giảng viên nữ từng mang thai
với anh ta, nhưng anh ta chưa từng chịu trách nhiệm với bất cứ người
nào.”
”Sau khi kết hôn thì sao?” Tôi lại hỏi tiếp. “Sau khi kết hôn, anh ta có từng ngoại tình bao giờ không?”
Phó Phán Xuân dõi mắt nhìn về phía xa, sau khi do dự một lúc mới cúi
đầu, nói: “Những lời tôi nói đều là thực lòng... Sau khi kết hôn, anh ta cũng từng có lần ngoại tình tuy tình hình cụ thể tôi không rõ lắm,
nhưng việc này về cơ bản có thể khẳng định là có.” Cô ta đưa tay lên day mạnh mũi mấy cái, rồi lại bổ sung thêm một câu: “Đối tượng ngoại tình
của anh ta có lẽ không chỉ có một người.”
Tôi khẽ gật đầu.
Khi nói dối, đặc biệt là khi nói dối với mục đích rõ ràng, con người ta
thường sẽ không kìm được để lộ những tâm trạng như áy náy, sợ hãi (sợ bị đối phương vạch trần), và những tâm trạng này sẽ làm cho tâm lý cảm
thây rất khó chịu. Mà một khi tâm lý cảm thấy khó chịu, con người ta
thường sẽ vô thức làm ra những hành vi tự an ủi. Đối với người nói dối,
hành vi tự an ủi thông thường đều là sự ám thị tích cực nhằm phủ định sự tồn tại của lời nói dối, chẳng hạn như nói ra những câu kiểu như “Những lời tôi nói đều là thực lòng”, “Nói thật với anh thế này nhé”, “Tôi
không nói dối anh đâu“... Phía sau những lời nói như thế thông thường
đều là sự giấu giếm hoặc dối gạt. Trước đó, để có thể moi thông tin từ
miệng cô ta và tỏ ý rằng mình “đang tiến hành đánh giá tâm lý của Giáo
sư Lưu”, tôi cũng đã vô thức nói ra một câu “Nói thật với cô thế này”,
đạo lý kỳ thực hoàn toàn tương tự. Có điều, tôi lúc đó quả thực đang
tiến hành đánh giá tâm lý của Lưu Trí Phổ, chỉ là đánh giá tâm lý không
phải là mục đích thật sự, thành ra lời của tôi có thể nói là nửa thật
nửa giả, và sự tồn tại của những lời nói thật đã phần nào đó làm giảm
bớt sự sợ hãi và áy náy trong nội tâm, thế nên hành vi tự an ủi của tôi
mới không hề rõ ràng.
Mà ban nãy, trước khi nói, Phó Phán Xuân đã tỏ ra do dự, khi nói thì lại có những động tác như cúi đầu, day mũi, thế nên quan điểm rằng Lưu Trí
Phổ sau khi kết hôn từng nhiều lần ngoại tình của cô ta có lẽ là một lời nói dối cố tình. Mục đích của cô ta hiển nhiên chính là vu oan giá họa
cho Lưu Trí Phổ, đồng thòi nhấn mạnh với “người khảo sát” là tôi rằng
Lưu Trí Phổ phẩm cách không tốt, hy vọng qua đó có thế làm ảnh hưởng tới con đường tiến thân của anh ta. Sở dĩ cô ta làm như vậy ắt hẳn ỉà do sự oán hận đối vói Lưu Trí Phổ, mà có lẽ cũng có một phần nguyên nhân là
ghen tị với đồng nghiệp nữa.
Tôi suy nghĩ một chút rồi lại hỏi tiếp: “Năng lực của Giáo sư Lưu về mặt học thuật thế nào? Cô có thể cho đôi lời đánh giá không?” Không đợi cô
ta mở lời tôi đã lại vội vàng bổ sung thêm một câu: “Cuộc nói chuyện lần này chắc chắn sẽ được giữ kín, cô không cần phải lo lắng bất cứ điều
gì, xin cứ có sao nói vậy là được.”
Cô ta vẫn tỏ ra rất căng thẳng. “Thật vậy chứ? Tôi sẽ không bị ảnh hưởng chút nào chứ?”
“Xin hãy tin tôi, cô sẽ không sao đâu.” Tôi lại hứa hẹn thêm lần nữa: “Mỗi một lời cô nói đều sẽ được bảo mật tuyệt đối.”
Khuôn mặt trở nên căng cứng, cô ta xoa hai bàn tay vào nhau một chút,
thế rồi mới khẽ gật đầu, nói: 'Trong thời gian nửa năm qua lại với anh
ta, tôi phát hiện anh ta căn bản chẳng có chút kiến thức chuyên sâu nào
về khoa học. Tôi không rõ cái danh tiếng thiên tài học thuật của anh ta
là từ đâu mà có, nhưng trong việc phong hàm Giáo sư cho anh ta nhất định là có tồn tại những vấn đề gian dối hết sức nghiêm trọng. Tôi nghĩ,
chắc cha anh ta đã phải bỏ ra không ít công sức cho chuyện này.”
Tôi hỏi nốt câu hỏi cuối cùng: “Các đối tượng mà Giáo sư Lưu từng qua lại có phải là đều lớn tuổi hon anh ta không?”
Phó Phán Xuân suy nghĩ một chút rồi khẽ gật đẩu.
Tôi bất giác thở phào một hơi. Trò chuyện đến lúc này, sự việc về cơ bản đã rõ: Lưu Trí Phố quả thực rất không chung tình, chỉ riêng ở Đại học C đã qua lại với mười mấy người phụ nữ khác nhau, trong số đó có Phó Phán Xuân, hơn nữa Phó Phán Xuân quả thực là từng có thai với anh ta. Cùng
với đó, Lưu Trí Phố có thể thăng tiến mạnh mẽ như vậy trong sự nghiệp
hoàn toàn là nhờ vào sự che chở của cha mình, về những điều này, sự miêu tả của Diệp Thu Vi hoàn toàn không có vấn đề gì cả.
Vấn đề rốt cuộc vẫn nằm trên người Lưu Hướng Đông. Chính bởi vì Lưu
Hưóng Đông chưa chết, vậy nên Lưu Trí Phổ mới tiếp tục được che chở, mới hai mươi bảy tuổi mà đã trở thành Giáo sư rồi. Có điều, nếu Lưu Hướng
Đông chưa chết, tại sao trong tập tài liệu kia lại ghi rõ thời gian tử
vong của ông ta như thế chứ? Ngày 6 tháng 11 năm 2009, mốc thời gian này liệu có mang ý nghĩa đặc biệt gì không đây? Tập tài liệu về những vụ
chết người là do Bệnh viện Tâm thẩn thành phố cung cấp, rốt cuộc là ai
muốn đưa thông tin sai lệch cho tôi? Người đó (hoặc là bọn họ) rốt cuộc
có mục đích gì?
Tuy thông qua Phó Phán Xuân, tôi đã chứng thực được những lời miêu tả
của Diệp Thu Vi về Lưu Trí Phổ là chính xác, nhưng tiến trình điều tra
lại chỉ có thể giậm chân tại chỗ. Có lẽ, chỉ có Diệp Thu Vi mới có thể
giải thích cho tôi hay nguồn cơn mọi việc mà thôi.
Sau khi từ biệt Phó Phán Xuân, tôi đi một vòng quanh sân vận động rồi
đột ngột vỗ đầu một cái, nhớ lại một chi tiết nhỏ trong cuộc trò chuyện
vừa rồi: Trong chuyện Lưu Tri Phổ ngoại tình sau khi kết hôn, Phó Phán
Xuân hiển nhiên là đã nói dối. Vậy Lưu Trí Phổ rốt cuộc có ngoại tình
hay không? Phó Phán Xuân vốn mang lòng oán hận và ghen tị đối với anh
ta, thế nên nếu anh ta thực sự có ngoại tình, cô ta chẳng có lý nào lại
không biết. Nếu như biết, khi nói ra những lời đó, cô ta không nên biểu
hiện ra những đặc trưng của một người đang nói dối mới phải.
Nói như vậy là Lưu Trí Phổ sau khi kết hôn rất có thể đã trờ nên hết sức chung thủy, chưa từng ngoại tình bao giờ. Nhưng vân đề ở đây là tại sao anh ta lại bằng lòng trở về bên cạnh Vũ Tú Thần và kết hôn vói cô ta,
hơn nữa còn sắt son với cô ta như thế?
Tôi lặng nhắm mắt lại, thầm nghĩ tới những lời kể về Vũ Tú Thần của Diệp Thu Vi: Vũ Tú Thần là bạn thân của Diệp Thu Vi hồi còn học trung học
phổ thông. Diệp Thu Vi rất tán thưởng Vũ Tú Thần, còn dành cho cô ta một sự giá rất cao. Sau bước ngoặt đêm đó, Diệp Thu Vi trở nên lý tính và
lạnh lùng, thậm chí có thể nói là máu lạnh. trong quá trình thăm dò Vũ
Tú Thần, cô ta lại nói rõ với tôi là khi đề cập tới chuyện thương tâm
của đối phương, cô ta không muốn truy hỏi quá tì mỉ - điều này chứng tỏ
cô ta có mang lòng xót thương và thông cảm đối với Vũ Tú Thần.
Tuy Diệp Thu Vi lạnh tựa băng sương, nhưng trực giác lại nói cho tôi
biết, cô ta vẫn có tình cảm với Vũ Tú Thần. Vậy thì việc Lưu Trí Phổ
quay trở lại bên cạnh Vũ Tú Thần liệu có phải là kết quả của một sự can
thiệp nào đó của Diệp Thu Vi không?
Dựa theo mạch suy nghĩ này mà phân tích, tôi rất nhanh đã để ý tới vấn
đề thời gian: Phó Phán Xuân nói Lưu Trí Phổ và Vũ Tú Thần kết hôn từ hồi cuối năm 2009, còn trên tập tài liệu về những vụ chết người kia thì ghi thời gian tử vong của Lưu Hướng Đông là ngày 6 tháng 11 năm 2009, tuy
hai mốc thời gian đó không thể nói là hoàn toàn trùng khớp nhưng cũng
không sai lệch nhiều. Liệu giữa hai việc này có tồn tại mối liên quan gì không đây?
Cuối năm 2009, giữa Lưu Hướng Đông và Lưu Trí Phổ, giữa Diệp Thu Vi và X, rốt cuộc đã xảy ra những chuyện gì?
Nghĩ tới cuộc trò chuyện vì mình mà phải dừng lại không lâu trước đó, tôi lại một lần nữa cảm thấy vô cùng hối hận.
Quay trở lại xe, tôi suy nghĩ vu vơ một lát rồi lật tập tài liệu về những vụ án mạng đến trang thứ chín:
Vu Khang, nam, sinh năm 1977, người bản địa, không nghề nghiệp, bị một
chiếc xe tải hạng nặng cán chết tại đường Vành đai 4 phía tây thành phố. Qua sự giám định của cành sảt giao thông, Vu Khang phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm về vụ tai nạn giao thông này.
Nguyên nhân dẫn đến cái chết của người thứ tám thì có ghi rõ, vậy nhưng
tại sao lại không có thời gian tử vong nhỉ? Trong sự nghi hoặc, tôi lật
tiếp sang trang sau, thấy trang thứ chín viết như thế này:
Trần Đông Kính, nam, sinh năm 1972, người bản địa, không nghề nghiệp,
chẽí do nhảy từ tăng cao của khách sạn xuống đất, qua giám định được xác định là tự sát.
Vẫn không hề có thời gian tử vong.
Tôi lại lật tiếp mấy trang nữa, trong phần thông tin tử vong ở những
trang phía sau, bất kể thông tin cá nhân và nguyên nhân tử vong của
người chết phức tạp hay đơn giản, thời gian tử vong cũng đều không được
ghi lại. Nhưng, trưóc đó tôi từng không chỉ một lần đọc tập tài liệu về
những vụ án mạng này, và tôi nhớ rõ là trong phần thông tin từ vong của
tất cả các trang từ đầu chí cuối đều có ghithời gian...
Nghĩ tới đây, đầu óc tôi bỗng trở nên nặng nề vô hạn, mảnh ký ức vừa rồi còn hết sức rõ ràng chỉ sau nháy mắt đã trở nên vừa mơ hồ vừa xa xôi.
Tôi khom người, đồng thời ngẩng đầu nhìn vầng mặt trời rực rỡ giữa không trung, bên tai lại một lần nữa vang lên tiếng rít khiến người ta sợ hãi kia. Ngay sau đó, tiếng nhạc chuông điện thoại bất chợt vang lên xua đi tiếng rít, kéo tôi trở vể với hiện thực. Tôi bắt máy, người gọi đến hóa ra là lãnh đạo.
”Nhất Tân.” Giọng của anh ta lúc nào cũng có vẻ điềm tĩnh và bình thản. “Tôi đã liên lạc được với hai người mà cậu cần tìm rồi.”
* * *
Lãnh đạo nói cho tôi biết, trưởng ca trực năm xưa là Lý Ngọc Lương sớm
đã được điều đi nơi khác, bây giờ đang đảm nhiệm chức vụ Cục phó Cục
Công an của một huyện ở ngoại thành. Còn người phụ trách xử lý tình
huống năm xưa là Hà Hải Phong thì nay đã là Đồn trưởng đồn công an
phường J ở trung tâm thành phố. Lãnh đạo đã nhờ cậy bạn bè trong hệ
thống công an thành phố, qua đó liên lạc được với Hà Hải Phong, và Hà
Hải Phong cũng đồng ý là sẽ cố hết sức giúp đỡ. Còn về Lý Ngọc Lương thì lãnh đạo tỏ ý là không dễ giải quyết: Thứ nhất, người này tuy trực
thuộc hệ thống công an thành phố nhưng dù sao cũng làm việc ở bên ngoài, không thân quen lắm với người quen của lãnh đạo; thứ hai, nghe nói
người này vô cùng giảo hoạt, còn nổi tiêng về sự bướng bỉnh và tính cách thích giả bộ thanh cao, chuyện gì không có lợi thì quyết chẳng bao giờ
làm.
Ý của lãnh đạo rất đơn giản, đó là tôi hãy đi tìm Hà Hải Phong nhờ giúp
đỡ trước, nếu Hà Hải Phong không giúp được thì sẽ tìm cách đối phó với
Lý Ngọc Lương sau.
Lúc này còn chưa tới mười một rưỡi, hiệu suất làm việc của lãnh đạo thật khiến người ta phải trợn mắt há mồm vì kinh ngạc. Sau khi gác máy, tôi
cho xe chạy thẳng tới đồn công an phường J, vậy nhưng vì giao thông ùn
tắc nên mãi tới gần một giờ mới đến nơi.
Tôi gặp được Hà Hải Phong trong sảnh trực ban của đồn công an. Anh ta
thoạt nhìn thì vào khoảng hơn bốn mươi tuổi, thân hình hơi quá khổ, da
ngăm đen, tuy từ đầu chí cuối luôn tươi cười hi hả nhưng từ trong mắt
lại ánh lên những tia dữ dằn. Sau một phen tự giới thiệu và chuyện trò
vu vơ, anh ta dẫn tôi tới phòng làm việc, mời tôi ngồi xuống, lại dùng
chìa khóa mờ chiếc ngăn kéo ở phía dưới cùng của bàn làm việc, lấy ra
một bao thuốc, đưa qua đưa lại trước mặt tôi. “Anh hút cái này nhé?”
Tôi xua tay, nói: “Tôi không hút thuốc.”
”Ừm, thói quen tốt đấy.” Anh ta chớp chớp mắt. “Anh xem, giờ tôi cũng chẳng biết phải tiếp đãi anh thế nào nữa rồi...”
”Không sao, không sao.” Tôi vội vàng nói. “Anh khách sáo quá rồi. Anh có thể dành thời gian ra gặp tôi thế này, tôi thực sự cảm kích vô cùng.”
“Anh mới là ngưòi khách sáo đấy.” Anh ta mỉm cười, nói: “Chuyện mà cấp
trên giao phó đương nhiên không thể nào là chuyện nhỏ được. Cục phó
Vương đã dặn dò tôi rồi, nhất định phải tích cực phối hợp với công việc
của anh, có chỉ thị gì anh cứ việc nói đi.”
Tôi nhìn chằm chằm vào anh ta, dòng suy nghĩ quay trở về buổi sáng mười năm trước.
Tôi nhớ là khi đó ánh mặt trời rất chói chang, những tia sáng chui qua ô cửa sổ phủ đầy bụi bặm rọi vào phòng, khiến cho căn phòng đều trở nên
vô cùng ngột ngạt. Tôi mặc một chiếc áo phông tay ngắn màu xám, ngồi
lặng lẽ trên chiếc giường sơn màu đỏ cũ kĩ kê ở góc phòng cách xa cửa
vào nhất. Mấy người đàn ông bao vây xung quanh tôi, ai nấy đều để trần
toàn bộ hai cánh tay, có hai người hình như còn xăm mình nữa. Bọn họ
thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn qua phía tôi, trong ánh mắt xen lẫn sự tức giận cũng như coi thường, có một người đang gọi điện thoại, nội dung cụ thể của cuộc điện thoại đó thì tôi không nhớ được nữa rồi, nhưng tôi
nhớ là anh ta cầm điện thoại bằng tay trái, tay phải thì chống vào cửa.
Tiếng gõ cửa đột ngột vang lên, tất cả mọi người trong phòng bao gồm cả
tôi trong đó, đều sững người ra trong vòng một, hai giây. Người đứng
cạnh cửa bịt chặt micro của điện thoại lại, cất giọng trầm thấp hỏi một
câu gì đó. Từ ngoài cửa vọng vào một giọng nói cẩn trọng, nói mình là
cảnh sát, nhận được tin báo nên đến đây để điều tra. Khi đó trái tim tôi đã sắp nhảy ra ngoài lồng ngực đến nơi, bởi lẽ những lần tôi báo cảnh
sát trước đó đều hoàn toàn không có chút tác dụng nào.
Mấy người trong phòng nhìn nhau một chút, rất nhanh đã mở cửa ra. Cảnh
sát lập tức ùa vào phòng, người đi đầu bỏ mũ xuống nhìn quanh một lượt,
cuối cùng ánh mắt dừng lại trên người tôi: “Ai là Trương Nhất Tân? Anh
là Trương Nhất Tân phải không?”
Tôi khẽ đáp “ừm” một tiếng, đồng thời nhìn anh ta bằng ánh mắt vừa căng thẳng vừa tràn đầy sự mong chờ...
Dòng suy nghĩ rất nhanh đã quay trở về với hiện thực, tôi nhìn Hà Hải
Phong trước mắt, cảm thấy anh ta không hề giống với viên cảnh sát đã hỏi chuyện tôi năm xưa.
“Anh Trương?” Hà Hải Phong hỏi tôi: “Anh sao vậy?”
Tôi vội vàng đưa tay dụi mắt, thở phào một hai, lấy từ trong cặp đựng
giấy tờ ra tờ biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát của mười năm về
trước. “Anh Hà, anh xem thử cái này đi không biết anh có còn chút ấn
tượng nào về vụ án được nhắc tới trong này không?”
Chuyển điếu thuốc đang cầm qua tay phải, anh ta đưa tay trái tới đón lấy tờ biên bản đó, lại thè lưỡi liếm môi một hồi, cuối cùng khẽ lắc đầu,
nói: “Dù sao cũng là chuyện của mười năm trước rồi, tôi nhất thời không
có cách nào nhớ ra được.” Nói rồi anh ta lại rít thêm mấy hơi thuốc nữa. “Có điều, chữ ký trên này quả thực là của tôi.” Không chờ tôi mở miệng, anh ta đã lại nói tiếp: “Biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát... Đây
là bản phô tô, tôi nhớ là mình chưa từng phô tô nó bao giờ cơ mà nhỉ?”
Anh ta vừa nói vừa đưa mắt nhìn tôi. “Anh Trương, thứ này anh kiếm từ
đâu ra vậy?”
Tôi đưa tay mân mê cằm, không biết nên trả lời ra sao.
Anh ta hiểu nhầm ý của tôi khi đó, thế là bèn vội vàng nói: “Ồ, không
tiện nói ư? Xem ra tôi đã hỏi nhiều quá rồi. Anh cứ việc nói chỉ thị đi, muốn tôi giúp thế nào đây?”
Tôi hỏi: “Liệu có thể tìm được thông tin chi tiết về vụ án này không?”
Anh ta rít một hơi thuốc, hơi cau mày lại, khẽ thở dài, nói: “Hầy, việc
này tôi thực sự không dám đảm bảo. Năm 2002, tôi còn làm việc tại đồn
công an L, về sau hệ thống có sự biến động, tất cả hồ sơ ở đồn L đều đã
được đưa về đồn J, nhưng trong quá trình chuyển giao từng bị thất lạc
không ít văn kiện, về sau nhà nước có chủ trương số hóa hồ sơ, thế là
các văn kiện giấy đều được chuyển thành bản mềm và đưa vào máy tính,
nhưng trong quá trình này thông tin cũng bị thất lạc khá nhiều.” Nói tới đây, anh ta vội vàng đưa tay ra, hướng lòng bàn tay về phía tôi. “Đương nhiên khi thông tin bị thất lạc thì tôi vẫn chưa phải là đồn trưởng,
đồn trưởng khi đó là một người khác.”
Tôi khẽ gật đầu. “Nói vậy tức là có khả năng không tìm được, nhưng nếu
thông tin không bị thất lạc, vậy thì chắc chắn có thể tìm được đúng
không?”
”Đúng vậy.” Anh ta lại nhìn lướt qua tờ biên bản đó một lần nữa. “Vấn đề chỉ là thông tin chi tiết về vụ án này thôi, đúng vậy không?”
”Đúng.” Tôi đưa mắt nhìn ô cửa sổ bên cạnh một chút “Mong anh giúp cho chuyện này, tôi muốn thông tin càng chi tiết càng tốt.”
”Anh đợi cho một chút.” Anh ta cầm điện thoại để bàn trên bàn làm việc
lên. “Tiểu Thôi, cô qua đây một chút.” Mười mấy giây sau, một nữ cảnh
sát tuổi chừng ba mươi đẩy cửa đi vào. Hà Hải Phong đưa tờ biên bản xử
lý tình huống báo cảnh sát cho cô ta. “Tiểu Thôi, ờ đây có một vụ xử lý
tình huống báo cảnh sát từ mười năm trước, liệu có thể tra ra được thông tin chi tiết từ trong kho hồ sơ không?”
Nữ cảnh sát đó đón lấy tờ biên bản xem qua một chút, khẽ lắc đầu, nói:“Trong quá trình số hóa hồ sơ thông tin đã bị thất lạc không ít, một vụ
án nhỏ thế này e rằng rất khó tìm được. Tôi cứ thử đi tìm đã, nếu không
tìm được thì chỉ đành tới phòng hồ sơ lật lại đống hồ sơ cũ thôi, nhưng
khả năng tìm được thực sự là không lớn.”
”Cô cứ đi tìm thử trước đi.” Hà Hải Phong nói: “Có kết
Trong quá trình chờ đợi, Hà Hải Phong hỏi tôi về mối quan hệ với Cục phó Vương. Cục phó Vương là cục phó của Cục Công an thành phố, nghe nói còn được quy hoạch sẵn để trở thành cục trưởng nhiệm kỳ tiếp theo. Tôi tùy
tiện ứng phó qua loa mấy câu, đồng thời vì muốn thể hiện mối quan hệ của mình, tôi lại nói ra tên của mấy vị lãnh đạo mà mình thân quen. Hà Hải
Phong tỏ ra khá kính trọng tôi, thế rồi chẳng rõ vì sao, chúng tôi bỗng
dưng lại nói tới Cố Thành Kiệt.
Cố Thành Kiệt là bạn của cha tôi lúc sinh tiền, năm xưa khi bị giam giữ
trái pháp luật, tôi được giải cứu cũng hoàn toàn là nhờ vào sự giúp đỡ
của ông ta. Về sau, tuy bản thân không có quan hệ quá gần gũi với ông
ta, nhưng vì cha mình nên tôi cũng có chú ý đến ông ta một chút. Theo
như tôi được biết, hồi năm 2005 ông ta được điều từ Sở Tư pháp tỉnh đến
một thành phố cấp địa khu1 nào đó, nghe nói là để đảm nhận một vị trí
quan trọng trong ủy ban kiểm tra kỷ luật đương địa, đến năm 2009 thì lại quay về hệ thống tư pháp, đến năm 2011 thì đã là phó giám đốc của Sở Tư Pháp tỉnh. Sau khi biết quan hệ giữa cha tôi và Cố Thành Kiệt, Hải
Phong lại càng tỏ ra kính trọng tôi hơn, thậm chí còn có một chút điệu
bộ xu nịnh nữa,.. Anh ta đương
“Cô cứ tìm thử trước đi.” Hà Hải Phong nói: “Có kết quả thì gọi điện báo cho tôi luôn nhé.
1. Cấp địa khu là cấp hành chính thứ hai trong thứ bậc các cấp hành
chính ở Trung Quốc, dưới cấp tỉnh nhưng trên cấp huyện. Ở Việt Nam không có cấp địa khu – ND.
Tất nhiên anh ta không biết rằng cha tôi đã qua đời từ mười mấy năm trước rồi.
Dưới sự tâng bốc của anh ta, tôi không tránh khỏi phải nói nhiều thêm
mấy câu, và rồi rất nhanh đã đề cập đến chuyện xảy ra hổi năm 2002. Có
điều tôi chỉ nói là một người bạn của mình bị giam giữ trái pháp luật,
chính nhờ có Cố Thành Kiệt ngấm ngầm giúp đỡ nên người bạn đó của tôi
mới thoát khỏi cảnh nguy hiểm. Nghe tôi kể xong chuyện này, Hà Hải Phong đột nhiên sững người ra, lại ngẩng đầu trầm tư suy nghĩ một hồi lâu
nữa, sau đó để lộ vẻ giật mình bừng tỉnh ngộ. “Ồ, nghe anh nhắc đến
chuyện này, tôi thực sự đã có chút ấn tượng rồi đây. Phải rồi, phải rồi! Lần đó tôi còn là người dẫn đội nữa cơ đấy! Khi ấy là mùa hè năm 2002,
đồn trưởng đích thân giao cho tôi một nhiệm vụ, bảo tôi tới Cẩm Tú Hoa
Viên đưa một người bị giam giữ trái pháp luật về đồn, người đó tên là
Trương, Trương…”
Tôi vội vàng nói: “Trương Nghĩa Quân (tên một người chú họ của tôi).”
”Đúng rồi!” Dưới sự dẫn dắt của tôi, Hà Hải Phong lập tức gật đầu vẻ hết sức chắc chắn. “Chính là Trương Nghĩa Quân. Đồn trưởng còn đặc biệt dặn dò tôi, nói việc này là do Chủ nhiệm Cố ở Sở Tư pháp tỉnh giao phó. À…” Anh ta khẽ vỗ đầu một cái, nhìn tôi bằng ánh mắt như thể vừa buông được một gánh nặng trong lòng. “Hóa ra là vậy, vụ việc được ghi lại trong tờ biên bản xử lý tình huống mà anh đưa cho tôi chính là chuyện này đúng
không?”
Tôi cũng thở phào một hơi, cười nói: “Đúng vậy, tôi đến đây chính là vì
chuyện này. Đằng sau chuyện này có ẩn giấu một số vấn đề phức tạp, tôi
nhất định phải làm rõ càng nhanh càng tốt.”
”Ừm, tôi hiểu rồi, tôi sẽ cố hết sức phối hợp với anh.” Hà Hải Phong vừa nói vừa rót cho tôi một cốc nước. “Anh xem kìa, hai chúng ta đúng là
hợp chuyện quá, khiến tôi quên cả rót nước mời anh.”
Đúng lúc này, tiếng chuông điện thoại để bàn reo vang. Hà Hải Phong nhấc điện thoại lên, nói: “Tiểu Thôi à, ừm, được rồi, cô in hết thông tin ra đi. Hả? Cái gì?”
Anh ta nhíu chặt đôi mày, không kìm được hít vào một hơi khí lạnh.“Không phải chứ? Được rồi, cô cứ in thông tin ra đi rồi mang lên đây cho tôi.” Sau khi gác máy, anh ta đưa mắt nhìn tôi, muốn nói gì đó lại
thôi, cuối cùng lặng lẽ châm một điếu thuốc nữa.
Tôi hỏi: “Sao vậy? Không tìm thấy thông tin ư?”
”Thông tin thì đã tìm thấy rồi.” Anh ta rít một hơi thuốc, ngẩng đầu
lên, đôi hàng lông mày nhíu chặt, có lẽ là đang nhớ lại chuyện năm xưa.“Có điều, ừm...” Anh ta thở dài một hơi vẻ hết sức nặng nề. “Tôi cũng
không nhớ rõ nữa.”
Tôi đang định hỏi rõ nguồn cơn thì nữ cảnh sát phụ trách tra cứu đã đẩy
cửa đi vào rồi liền đưa hai tờ giấy tới trước mặt Hà Hải Phong, nói:“Thông tin hoàn toàn trùng khớp, tất cả đều ở đây.”
Hà Hải Phong búng nhẹ điếu thuốc một cái cho rơi tàn sau đó gật đầu, nói: “Được rồi, cô cứ đi làm tiếp công việc của cô đi.”
Sau khi nữ cảnh sát đó rời đi, tôi đứng dậy đi tới bên cạnh bàn làm việc của Hà Hải Phong, cầm hai tờ giấy đó lên xem, thấy một tờ là biên bản
xử lý tình huống báo cảnh sát giống hệt tờ mà tôi mang tới, tờ còn lại
thì là “Nội dung xử lý tình huống báo cảnh sát”, bên trên viết như thế
này:
Họ tên người báo cảnh sát: Trần Ngọc Long. Thời gian báo cảnh sát: 10
giờ 22 phút ngày 20 tháng 7 năm 2002. Địa điểm xảỵ ra vụ án: Căn hộ
1218, tòa nhà số 8, khu C, Cẩm Tú Hoa Viên. Nguyên nhân báo án: Người
báo án nói rằng bạn mình bị bắt cóc và giam giữ trái pháp luật, đang ở
trong tình cảnh vô cùng nguy hiểm, vậy nhưng lại không chịu tiết lộ họ
tên của người bị bắt cóc. Nhân viên cảnh sát đi xử lý tình huống: Hà Hải Phong, Đỗ Nhân Cường, Tôn Khả, Lý Mộng Tình. Tình huống hiện trường:
Theo thông tin tra cứu từ chỗ ban quản lý tiểu khu đô thị, căn hộ 1218 ở tòa nhà số 8, khu C không hề có người ở. Dưới sự giúp đỡ của nhân viên
ban quản lý, xông vào căn hộ 1218, phát hiện đây là một căn hộ thô chưa
được hoàn thiện phần nội thất, bên trong không hề có vật dụng sinh hoạt
hằng ngày, cũng không có dấu tích cho thấy có người từng sinh sống ở
đây, lại càng không có vụ bắt cóc hay giam giữ người trái pháp luật nào
cả.
Tôi chậm rãi ngồi trở lại xô pha, đầu óc trở nên hết sức hỗn loạn.
”Anh Trương.” Hà Hải Phong cầm lấy tờ nội dung xử lý tình huống báo cảnh sát từ trong tay tôi, xem qua một chút rồi nói: “Hình như tôi cũng nhớ
ra rồi. Khi đó tôi là người dẫn đội, Cẩm Tú Hoa Viên thì vừa mới được
xây xong chưa lâu, còn chưa có bao nhiêu gia đình vào ở. Tòa nhà số 8 đó là một cao ốc được xây dựng theo kiểu chung cư, về cơ bản còn chưa có
ai dọn đến. Số nhà cụ thể thì tôi không nhớ được nữa, nhưng trong này
quả thực cũng có ghi là căn hộ 1218. Chúng tôi đã tìm đến ban quản lý
tiểu khu đô thị nhờ mở cửa, thấy bên trong đó quả thực không có gì hết,
sau khi vào trong xem xét sơ qua một chút liền rời đi luôn.”
Tôi khẽ lắc đầu trong vô thức. Những năm nay, tôi vẫn luôn nhớ rất rõ
chuyện này: Tháng 7 năm 2002, tôi bị giam giữ gần một tháng trời. Về
sau, Cố Thành Kiệt dùng các mối quan hệ để giúp đỡ tôi, Trần Ngọc Long
thì giúp tôi báo cảnh sát, nhờ thế tôi mới được bốn viên cảnh sát giải
cứu...