Em Làm Ơn Im Đi, Được Không?

Chương 8



SÁU MƯƠI MẪU

Cách đây một tiếng, lúc họ đang ăn thì có điện thoại. Có hai người đang đi săn trên khu đất của Lee Waite ở Toppenish Creek, mạn dưới cây cầu trên đường Cowiche. Joseph Eagle nhắc Lee Waite rằng đây là lần thứ ba hay thứ tư trong mùa đông này có người săn trộm ở đó. Joseph Eagle là một ông già da đỏ sống trong khu đất nhà nước cấp cách đường Cowiche một quãng, ông có một cái radio mà ông nghe cả ngày lẫn đêm và một cái điện thoại phòng khi đau ốm. Lee Waite ước gì cái ông già da đỏ này để cho anh yên về khu đất đó, ước rằng Joseph Eagle muốn làm gì thì cứ làm, trừ việc gọi anh.

Ra ngoài cổng, Lee Waite đứng nghỉ một chân và khươi cọng thịt dính trong răng. Anh ốm, nhỏ thó, có gương mặt ốm và mái tóc đen dài. Nếu không phải vì cú điện thoại thì chiều nay anh đã đánh một giấc. Anh nhíu mày, thong thả mặc áo khoác vào; đằng nào thì khi anh tới đó chúng cũng đã biến. Thường thường là thế. Những người đi săn từ Toppenish hay Yakima đến cũng được phép lái xe trên đường trong khu dành riêng cho người da đỏ như bất kỳ ai, chỉ có điều họ không được phép săn bắn. Nhưng họ cứ diễu qua sáu mươi mẫu đất không người trông coi và đầy cám dỗ của anh hai, có khi ba lần, rồi nếu thấy ngứa ngáy tay chân thì đỗ xe bên mé đường khuất trong đám cây và băng vội qua những đám lúa mạch hoang cao ngang đầu gối, xuống ven suối – có thể bắn vài con vịt, có thể không, nhưng luôn luôn bắn tứ tung một lúc trước khi chuồn đi. Joseph Eagle ngồi liệt trong căn nhà của mình theo dõi họ nhiều lần. Hay ít ra ông bảo Lee Waite vậy.

Anh dùng lưỡi quét sạch răng và nheo mắt trong ánh sáng nhờ nhờ của buổi chiều muộn mùa đông. Anh không sợ; không phải thế, anh tự nhủ. Anh chỉ không muốn chuốc lấy rắc rối.

Cái vòm cổng nhỏ, được xây ngay trước chiến tranh, gần như đã tối. Ô kính cửa sổ duy nhất đã bị đập vỡ từ nhiều năm trước, và Waite đã đóng một cái bao vải lên chỗ hở. Nó được treo ở đó bên cạnh cái tủ, bết cứng lại, khẽ đu đưa mỗi khi khí lạnh bên ngoài lùa vào quanh mép. Những bức tường treo đầy những bộ ách và yên cương cũ kỹ, và ở một mảng tường phía trên cửa sổ là một hàng dụng cụ cầm tay han gỉ. Anh đẩy lưỡi một lần chót, vặn chặt bóng đèn vào cái đui trên đầu, rồi mở tủ. Anh lấy một khẩu súng hai nòng trong tủ ra và với cái hộp trên ngăn kệ cao nhất để lấy một vốc đạn. Chuôi đồng của những viên đạn lạnh ngắt, anh lăn chúng trong tay trước khi thả vào túi áo khoác cũ đang mặc.

“Bố không nạp đạn à, bố ơi?” thằng bé Benny hỏi từ phía sau.

Waite ngoảnh lại, thấy Benny và thằng cu Jack đứng ngay cửa bếp. Kể từ lúc có điện thoại, chúng tôi lẽo đẽo bám theo anh – muốn biết xem hôm nay anh có định bắn ai không. Cái kiểu trẻ con nói chuyện như vậy làm anh bực mình, và bây giờ chúng còn đứng ngay cửa khiến cho không khí lạnh ùa vào nhà và nhìn vào khẩu súng lớn dưới cánh tay anh nữa.

“Cút vào chỗ chúng mày trong nhà đi,” anh nói.

Chúng để cửa mở mà chạy vào lại chỗ mẹ anh và Nina đang ngồi tuốt trong phòng ngủ. Anh có thể nhìn thấy Nina ngồi ở bàn đang cố dỗ em bé ăn miếng bí, nhưng đứa bé cứ ẩy lại, lắc đầu nguầy nguậy. Nina nhìn lên, gượng cười.

Waite bước vào nhà bếp, đóng cửa lại, rồi đứng dựa vào đó. Anh có thể nhận thấy nàng rất mệt. Phía trên môi nàng một hàng mồ hôi lấm tấm, và, khi anh ngắm, nàng ngừng lại vén mớ tóc trước trán. Nàng lại ngẩng nhìn anh, rồi lại nhìn đứa bé. Những lần mang thai trước chưa bao giờ nàng mệt mỏi như thế này. Những lần khác nàng hầu như không thể ngồi yên mà luôn bật dậy đi lòng vòng, ngay cả khi chẳng có việc gì nhiều để làm ngoại trừ nấu nướng hay may vá. Anh mân mê chỗ da chùng quanh cổ, lén liếc nhìn mẹ anh đang lơ mơ từ lúc ăn xong trên cái ghế bên lò sưởi. Bà nheo mắt nhìn anh và gật đầu. Bà đã bảy mươi, nhăn nheo, nhưng tóc còn đen nhánh tết thành hai bím buông xuống trước vai. Lee Waite đoan chắc bà đang bị sao đấy vì có những lúc hai ngày liền bà không nói năng gì, chỉ ngồi trong căn phòng kia bên cửa sổ nhìn trừng trừng ra thung lũng. Khi bà làm như vậy anh thấy run sợ, anh không còn biết những dấu hiệu nhỏ của bà cũng như sự im lặng của bà có ý nghĩa gì.

“Sao mẹ không nói gì?” anh hỏi, lắc đầu. “Mẹ, làm sao con biết được mẹ muốn gì nếu mẹ không lên tiếng?” Waite nhìn bà một lúc, ngắm bà giật đuôi bím tóc mình, đợi bà nói gì đó. Rồi anh hắng giọng và băng qua mặt bà, vớ lấy cái mũ trên cây đinh, rồi đi ra.

Trời lạnh. Một lớp tuyết hạt dày bốn năm phân từ ba ngày qua bao phủ mọi vật, khiến mặt đất vồng lên và làm cho hàng cột trồng đậu trơ trụi trước nhà trông ngớ ngẩn. Con chó từ dưới gầm nhà chạy ra sục sạo khi nó nghe tiếng cửa, rồi chạy thẳng ra chiếc xe tải mà không quay đầu lại. “Lại đây!” Waite đanh giọng gọi, tiếng anh dội lại trong bầu không khí loãng.

Anh chồm ra, nắm lấy cái mõm khô lạnh của con chó. “Lần này mày ở nhà thì hơn. Ừ, ừ.” Anh phẩy phẩy cái tai con chó và nhìn quanh. Anh không thấy đồi Satus bên kia thung lũng vì màn sương dày đặc, chỉ thấy được cánh đồng củ dền dợn sóng – màu trắng, trừ những chỗ đây đó còn đen vì tuyết chưa chạm tới. Một chỗ trong tầm nhìn – nhà cửa của Charley Treadwel, cách một quãng khá xa – nhưng anh có thể chắc là không sáng đèn. Không một âm thanh nào ở đâu, chỉ có bầu trời thấp nặng mây đè xuống vạn vật. Anh ngỡ là có gió, nhưng vẫn tĩnh.

“Mày ở lại đây. Nghe chưa?”

Anh nổ máy chiếc xe tải, lại ước rằng mình chẳng phải đi. Đêm qua anh nằm mơ, về một cái gì đó mà anh không nhớ - như mọi lần, nhưng anh có một cảm giác bất an từ lúc thức dậy. Anh để số thấp lái ra cổng, xuống xe mở cổng, lái qua, rồi lại xuống xe, gài cổng lại. Anh không còn nuôi ngựa – nhưng thói quen luôn luôn đóng cổng đã ngấm vào người.

Trên đường, chiếc xe dọn tuyết đang bò về phía anh, lưỡi kêu xoen xoét chát chúa mỗi khi phần kim loại chạm vào mặt đất đông cứng. Không vội, nên anh đứng lại chờ chiếc xe dọn tuyết chậm chạp nhích đến. Một người trong buồng lái nghiêng người ra, điếu thuốc trên tay, vẫy chào khi đi ngang. Nhưng Waite giả lơ. Anh đánh xe lên đường trở lại sau khi họ vượt qua. Anh nhìn vào nhà Charley Treadwell khi lái ngang qua, nhưng ở đó vẫn không có ánh đèn, không có cả xe. Anh nhớ chuyện Charley kể anh nghe cách đây mấy ngày, về vụ đánh nhau giữa Charley và một thằng nhóc nào đó hôm Chủ nhật vừa rồi, nó tới hàng rào nhà anh ta buổi chiều mà bắn vào ao vịt, ngay bên cạnh trang trại. Charley nói chiều nào lũ vịt cũng tới đó. Chúng tin tưởng anh ta, anh ta nói, như thể điều đó quan trọng. Anh ta từ phía trang trại nơi anh ta đang vắt sữa chạy tới, vung vẩy tay và la hét, còn thằng nhóc kia thì chĩa súng vào anh. Phải mà tôi có thể lột súng thằng oắt đó, Charley nói thế, trừng trừng nhìn Waite bằng con mắt lành lặn và gật đầu chầm chậm. Waite vặn người trên ghế. Anh không muốn gặp bất cứ phiền phức nào như vậy. Anh hy vọng dù cho đó là ai thì khi anh tới họ đã đi rồi, như những lần trước.

Anh vượt qua Pháo đài Simcoe bên tay trái, phần chóp sơn trắng của mấy tòa nhà cũ kỹ này nhô lên đằng sau hàng rào sắt nhọn vốn đã được dựng lại. Những cánh cổng của pháo đài để mở, và Lee Waite thấy xe đỗ quanh bên trong, có mấy người mặc áo khoác đi đi lại lại. Anh chẳng bao giờ thèm dừng lại. Có lần cô giáo đã dắt tất cả lũ trẻ con đến đó – đi thực địa, cô gọi là như thế - nhưng hôm ấy Waite không đi học. Anh hạ kính xe xuống, hắng giọng và phun toẹt vào cánh cổng khi lái xe ngang qua.

Anh rẽ vào Đường B tới chỗ của Joseph Eagle – tất cả đèn đều sáng, kể cả đèn cổng. Waite vượt qua, đến chỗ cắt với đường Cowiche thì ra khỏi xe nghe ngóng. Anh bắt đầu nghĩ họ có lẽ đã đi và anh có thể quay về thì nghe một loạt súng xa xa đùng đục vẳng qua cánh đồng. Anh đợi một lúc, rồi lấy một cái khăn ra, đi vòng quanh xe để lau tuyết và băng đọng trên rìa kính xe. Anh đá cho tuyết văng khỏi giày trước khi ngồi vào xe, lái một đoạn cho tới khi thấy cây cầu, rồi để ý tìm vệt bánh xe nào dẫn vào những lùm cây, anh biết sẽ tìm thấy xe của họ ở đó. Anh dừng xe lại sau một chiếc sedan màu xám và tắt máy.

Anh ngồi chờ trong xe, di chân qua lại trên phanh và thỉnh thoảng nghe tiếng súng của họ. Sau vài phút anh chịu không thể ngồi yên nữa bèn leo ra, thả bộ quành ra trước xe. Đã bốn, năm năm rồi anh chẳng xuống khu đó làm gì. Anh đứng tựa vào cái chắn bùn ngó lung ra khu đất. Anh chẳng hiểu bao thời gian trôi đi đâu.

Anh nhớ khi còn nhỏ thì anh muốn lớn lên. Hồi ấy anh từng xuống khu này để bẫy chuột xạ ở phần này của con suối và đặt cần câu đêm để câu cá hồi nâu. Waite ngó quanh, bàn chân nhúc nhích trong giày. Những chuyện đó đã lâu lắm rồi. Khi lớn lên, anh nghe bố bảo ông định dành khu đất này cho ba người con trai. Nhưng cả hai người anh đều đã chết. Tất cả khu đất này chỉ còn để cho Lee Waite.

Anh nhớ những cái chết. Đầu tiên là Jimmy. Anh nhớ lần thức dậy vì tiếng đập cửa ầm ầm – trời tối, mùi nhựa cây trong bếp lò, một chiếc ô tô đậu bên ngoài để đèn sáng và không tắt máy, và một giọng nói khê khê phát ra từ cái loa bên trong. Bố anh đẩy cửa, và hình dáng to đùng của một người đội nón cao bồi, đeo súng – viên cảnh sát phó – lấp cả lối ra vào. Waite à. Thằng Jimmy nhà ông bị đâm trong một tiệc khiêu vũ ở Wapato. Mọi người lên xe tải đi hết còn Lee ở lại một mình. Anh co ro trước lò sưởi suốt đêm, nhìn những cái bóng nhảy múa trên tường. Sau này, khi anh mười hai tuổi, một người khác đến, một viên cảnh sát khác, chỉ nói rằng họ nên đi theo cùng.

Anh rời khỏi chiếc xe tải, thả bộ vài bước về phía rìa cánh đồng. Bây giờ đã khác xưa, đơn giản vậy thôi. Anh ba mươi hai, Benny và cu Jack đang lớn lên. Rồi cả đứa bé nữa. Waite lắc đầu. Anh nắm cái thân cao của một cây cỏ bông tai. Anh bứt cổ nó rồi ngẩng lên khi nghe tiếng vịt kêu xáo xác trên đầu. Anh chùi tay vào quần, dõi theo chúng một lát, ngắm chúng xòe cánh lượn một vòng trên suối. Rồi chúng vụt sáng. Anh thấy ba con rơi xuống trước khi nghe tiếng súng. Anh vụt quay lại đi về xe tải.

Anh lấy súng ra, cẩn thận để cửa không sập mạnh. Anh di chuyển vào lùm cây. Trời đã gần tối. Anh ho một tiếng rồi đứng đó môi bặm lại

Chúng vạch bụi cây đi tới, hai đứa. Chúng lắc hàng rào làm nó kêu cót két, rồi trèo qua, vào trong đồng và nện chân trên tuyết. Đến lúc tiến lại gần xe thì chúng đã thở phì phò.

“Ôi Chúa, có một cái xe tải ở đây!” một trong hai đứa nói và làm rớt mấy con vịt đang xách trên tay.

Đó là giọng nói một thằng con trai. Nó mặc một cái áo đi săn nặng nề, và Waite lờ mờ đoán ra số vịt khổng lồ trong cái túi chiến lợi phẩm.

“Thoải mái đi, được không mày?” Thằng kia vươn cổ ngó quanh, cố xem thử có gì. “Nhanh lên. Không có ai bên trong hết. Mày vác cái xác mày vào xe đi!”

Vẫn không nhúc nhích, cố gẵng giữ giọng bình thản, Waite nói, “Đứng yên đó. Bỏ súng xuống.” Anh ló ra khỏi lùm cây đứng đối diện chúng, vung vẩy nòng súng. “Cởi áo khoác và trút sạch mọi thứ ra”

“Ôi Chúa, Chúa toàn năng!” một đứa nói.

Đứa kia không nói năng gì chỉ cởi áo khoác và bắt đầu trút vịt ra, mắt vẫn nhìn quanh.

Waite mở cửa xe chúng, thò một tay vào trong lần tìm công tắc đèn trước. Hai thằng kia giơ một tay lên che mắt, rồi quay lưng lại ánh đèn.

“Các cậu nghĩ đây là đất của ai?” Waite nói. “Ý các cậu là sao khi săn vịt trên đất của tôi?”

Một đứa thận trọng ngoái lại, tay vẫn che mắt. “Anh định làm gì bọn em?”

“Các cậu nghĩ tôi định làm gì?” Waite nói. Anh nghe giọng mình là lạ, nhẹ nhàng, mỏng manh. Anh nghe tiếng mấy con vịt đáp xuống suối, xáo xác kêu với những con khác trên không. “Các cậu nghĩ tôi định làm gì?” anh nói. “Các cậu sẽ làm gì nếu bắt gặp người khác xâm nhập trái phép vào đất của mình?”

“Nếu họ xin lỗi và đó là lần đầu tiên thì em sẽ cho họ đi,” nó trả lời.

“Em cũng vậy, thưa anh, nếu họ nói họ xin lỗi,” thằng kia nói.

“Thật vậy sao? Các cậu thực sự nghĩ các cậu sẽ làm như vậy sao?” Waite biết anh đang câu giờ.

Chúng không trả lời. Chúng đứng trong luồng ánh sắng chói phát ra từ đèn xe rồi quay lưng lại.

“Làm sao tôi biết được các cậu chưa tới đây lần nào?” Waite nói. “Mấy lần trước tôi cũng phải xuống đây?”

“Hứa danh dự, thưa anh, bọn em chưa tới đây bao giờ. Bọn em chỉ lái xe đi ngang đây. Em thề đấy,” thằng bé thút thít.

“Đó là toàn bộ sự thật ạ,” đứa kia nói. “Ai trong đời cũng có lần lỗi lầm mà.”

Bấy giờ đã tối, một làn sương mỏng hạ xuống trước ánh đèn xe. Waite dựng thẳng cổ áo lên chằm chằm nhìn hai thằng kia. Từ phía dưới suối tiếng quang quác ầm ĩ của một con vịt đực vang đến tận chỗ anh. Anh liếc quanh những cái bóng kỳ dị của đám cây, rồi lại nhìn hai đứa.

“Có lẽ vậy,” anh nói, chân nhúc nhích. Anh biết một phút nữa là anh thả chúng đi. Anh không thể làm gì khác mấy. Anh đang đuổi chúng ra khỏi vùng đất của mình; đó mới là điều quan trọng. “Thế, các cậu tên gì? Cậu tên gì. Cậu đấy. Đây có phải xe của cậu hay không? Cậu tên gì?”

“Bob Roberts,” thằng bé thứ nhất đáp nhanh và ngó qua đứa bên kia.

“Williams, thưa anh,” đứa kia nói. “Bill William, thưa anh.”

Waite sẵn lòng hiểu rằng chúng là trẻ con, và chúng nói dối anh vì chúng sợ. Chúng đứng quay lưng lại anh, và Waite đứng nhìn chúng.

“Các cậu nói dối!” anh nói, kinh ngạc với chính mình. “Tại sao các cậu nói dối tôi? Các cậu đến vùng đất của tôi, bắn vịt của tôi và rồi lại nói dối như cuội!” Anh kê khẩu súng lên cánh cửa xe để nòng súng được đỡ chắc. Anh nghe tiếng cành khua trên những ngọn cây. Anh nghĩ tới Joshep Eagle ngồi đó trong căn nhà sáng đèn, chân gác lên một cái thùng, nghe radio.

“Được rồi, được rồi,” Waite nói. “Đồ nói dối. Cứ đứng đó, lũ nói dối.” Anh khó nhọc đi vòng qua chiếc xe tải của mình lấy ra một cái bao bố cũ, lắc cho nó mở ra, rồi bảo chúng bỏ tất cả vịt vào. Khi anh đứng yên, đợi chúng làm, đầu gối anh bỗng dưng run rẩy.

“Tiếp tục đi nào. Tiếp đi!”

Anh lùi lại khi chúng đến gần xe. “Tôi sẽ lui xe ra đường. Các cậu cũng lui xe cùng với tôi.”

“Vâng, thưa anh,” thằng bé thứ nhất vừa luồn người vào sau tay lái vừa nói. “Nhưng nếu bây giờ em không nổ máy được thì sao? Bình có thể đã cạn, anh biết không. Ngay từ đầu nó đã không mạnh lắm.”

“Tôi không biết,” Waite nói. Anh nhìn quanh. “Chắc là tôi phải đẩy các cậu ra.”

Thằng bé tắt hết các đèn, đạp ga và đề máy. Máy rồ chậm chậm nhưng bén được, thằng bé giữ chân ga và rồ máy rồi mới mở đèn lên lại. Waite ngắm nghía gương mặt tái nhợt của chúng đang nhìn vào anh, tìm kiếm từ anh một dấu hiệu.

Anh quẳng bao vịt lên xe tải rồi gác khẩu súng hai nòng ngang ghế. Anh ngồi vào và thận trọng lùi xe ra đường. Anh đợi chúng lùi xe ra, rồi lái theo chúng đến Đường B và ngưng lại, vẫn để máy nổ, nhìn theo ánh đèn đuôi xe chúng khuất về phía Toppenish. Anh đã đuổi chúng khỏi vùng đất của anh. Đó là tất cả những gì đáng kể. Tuy nhiên không hiểu sao anh cảm thấy điều gì đó hệ trọng đã xảy ra, một thất bại.

Nhưng đã không xảy ra điều gì.

Những đám sương mù từ phía thung lũng đã thổi vào. Khi dừng lại để mở cổng anh vẫn không thấy điều gì nhiều bên phía nhà Charley, chỉ một ngọn đèn yếu ớt sáng trên cổng mà Waite không nhớ có nhìn thấy lúc chiều hay không. Con chó nằm đợi nhà kho nhảy chồm lên và bắt đầu ngửi lũ vịt thì Waite vác chúng lên vai đi lên nhà. Anh dừng lại ở cổng một lúc để cất súng đi. Còn lũ vịt anh để trên sàn bên cạnh tủ. Ngày mai hay ngày kia anh sẽ dọn chúng.

“Lee à?” Nina gọi.

Waite bỏ mũ, nới lỏng bóng đèn, anh dừng lại một lúc trong bóng đêm tĩnh mịch trước khi mở cửa.

Nina đang ngồi trên bàn bếp, cái hộp nhỏ đựng đồ may vá để cạnh nàng trên một ghế khác. Nàng cầm một chiếc quần jean trên tay. Trên bàn có hai hay ba chiếc sơ mi của anh và một cái kéo. Anh lấy một cốc nước và nhặt từ cái kệ trên bồn rửa bát mấy viên đá màu mà bọn trẻ hay mang về nhà. Ở đó còn có một quả thông khô và mấy cái lá phong khô to tướng từ mùa hè vừa rồi. Anh liếc vào tủ bếp. Nhưng anh không đói. Rồi anh bước ra phía lối ra vào và tựa vào khung cửa.

Đó là một căn nhà nhỏ. Chẳng có chỗ nào để đi.

Ở phía sau, trong một phòng, cả ba con anh ngủ ở đó, và trong phòng kia, Waite, Nina và mẹ anh ngủ, dù thỉnh thoảng vào mùa hè Waite và Nina ngủ bên ngoài. Chẳng bao giờ có chỗ nào để đi cả. Mẹ anh vẫn đang ngồi bên lò sưởi, giờ thì có một tấm chăn phủ chân, đôi mắt bé tí của bà mở, dõi theo anh.

“Các con muốn thức đến khi anh về,” Nina nói, “nhưng em bảo chúng anh nói phải đi ngủ.”

“Ừ, đúng rồi,” anh nói. “Chúng phải đi ngủ, đúng rồi.”

“Em sợ.”

“Sợ?” Anh có tỏ ra như thể điều này làm anh ngạc nhiên. “Mẹ cũng sợ à, mẹ?”

Bà già không đáp. Mấy ngón tay bà vân vê mép chăn, gấp lại rồi kéo lên, che gió lùa.

“Nina, em cảm thấy thế nào? Tối nay có thấy đỡ hơn không?” Anh kéo một cái ghế ra và ngồi xuống bên bàn.

Vợ anh gật đầu. Anh không nói gì thêm, chỉ nhìn xuống và bắt đầu di di móng tay lên bàn.

“Anh có bắt được ai ở đó không?”

“Đó là hai thằng nhóc,” anh nói. “Anh tha cho chúng đi rồi.”

Anh đứng dậy, bước qua phía bên kia lò sưởi, nhổ vào cái thùng gỗ, và đứng thọc mấy ngón tay trong túi quần sau. Gỗ phía sau lò sưởi màu đen và đang bong ra, và anh thấy, thòi ra từ cái kệ trên đầu, một cái lưới mang cá màu nâu bọc quanh ngạnh của cây chĩa săn cá. Nhưng đó là cái gì? Anh nheo mắt nhìn nó.

“Anh tha cho chúng đi,” anh nói. “Có thể anh dễ dãi với chúng quá.”

“Anh đã làm đúng,” Nina nói.

Anh liếc nhìn mẹ qua lò sưởi. Nhưng không có dấu hiệu gì từ bà, chỉ có đôi mắt đen nhìn anh chằm chặp.

“Anh không biết nữa,” anh nói. Anh gắng nghĩ về việc đó, nhưng có vẻ như thể chuyện đó, bất kể là chuyện gì, đã diễn ra từ rất lâu rồi. “Lẽ ra anh phải làm chúng sợ hơn nữa, anh nghĩ thế.” Anh nhìn Nina. “Đất của anh mà,” anh thêm, “lẽ ra anh có thể giết chúng.

“Giết ai?” mẹ anh nói.

“Mấy đứa nhóc ở khu đất đường Cowiche. Cái vụ mà Joseph Eagle gọi điện báo.”

Từ chỗ đang đứng anh có thể nhìn thấy những ngón tay của mẹ cử động trên đùi, lần tìm các hoa văn cộm lên trong chăn. Anh tì người qua lò sưởi, muốn nói gì đó khác. Nhưng anh không biết nói gì.

Anh vẩn vơ đi ra bàn và lại ngồi xuống. Rồi anh nhận ra mình vẫn chưa cởi áo khoác, liền đứng dậy, loay hoay cởi ra, vắt trên bàn. Anh kéo ghế gần lại đầu gối vợ, khoanh tay hờ, lấy lấy ngón tay mân mê ống tay áo sơ mi.

“Anh đang nghĩ có khi anh sẽ cho mấy câu lạc bộ săn bắn thuê khu đất dưới đó. Đi xuống đó như thế không tốt cho ta lắm. Đúng không? Nhà ở dưới đó hay đất ở ngay phía trước đây là chuyện khác nhau, đúng không?

Trong sự tĩnh mịch anh chỉ nghe thấy tiếng củi tí tách trong lò sưởi. Anh duỗi hai bàn tay lên bàn và có thể cảm thấy mạch đập trên cánh tay. “Anh có thể cho một trong những câu lạc bộ săn vịt ở Toppenish thuê khu đó. Hoặc Yakima. Ai cũng sẽ thích có một khu như thế, ngay trên đường chúng bay. Đó là một trong những khu đi săn tốt nhất trong thung lũng… Nếu anh có thể khai thác khu đất theo một cách nào đó, thì sự việc sẽ khác.” Giọng anh nhỏ dần.

Nàng cựa người trong ghế. Nàng nói, “Nếu anh nghĩ vậy thì mình nên làm thế. Tùy anh nghĩ thế nào thôi. Em không biết.”

“Anh cũng không biết,” anh nói. Ánh mắt anh lướt qua sàn nhà, qua khỏi mẹ anh, và rồi một lần nữa dừng lại trên cây chĩa săn cá. Anh đứng dậy, lắc đầu. Khi anh đi ngang qua căn phòng nhỏ, bà già ngọe đầu, kê má lên thành ghế, nheo mắt nhìn theo anh. Anh với lên, lấy cây chĩa và đống lưới từ cái kệ nát, rồi quay lại đứng lên ghế mẹ anh đang ngồi. Anh nhìn cái đầu màu đen bé teo, chiếc khăn choàng len màu nâu phủ gọn cái vai gù. Anh xoay cây chĩa trên tay và bắt đầu mở cái lưới.

“Mình sẽ được bao nhiêu?” Nina nói.

Anh biết là anh không biết. Thậm chí nó còn làm anh lúng túng một lúc. Anh khẩy cái lưới, rồi đặt cây chĩa lại trên kệ. Bên ngoài, một cành cây gãy đập mạnh vào nhà.

“Kìa Lee?”

Anh không chắc. Anh sẽ phải hỏi thăm lòng vòng. Mùa thu năm ngoái Mike Chuck cho thuê ba mươi mẫu giá năm trăm đô la. Jerome Shinpa năm nào cũng cho thuê một khoảng đất, nhưng Waite chưa bao giờ hỏi được bao nhiêu.

“Chắc một ngàn đô,” anh nói.

“Một ngàn đô?” nàng nói.

Anh gật, cảm thấy nhẹ nhõm khi nàng ngạc nhiên. “Chắc thế. Có thể hơn. Để anh xem thử. Anh phải hỏi thăm một người nào đó về giá cả.” Ngần ấy là rất nhiều. Anh đang nghĩ về việc có trong tay một ngàn đô. Anh nhắm mắt cố nghĩ.

“Đó không có nghĩa là bán đất, phải không?” Nina hỏi. “Nếu anh cho người ta thuê đất, nghĩa là đất vẫn của anh?”

“Ừ, ừ, vẫn là đất của anh!” Anh bước tới chỗ vợ và tì người qua bàn. “Em không biết chỗ khác nhau sao, Nina? Họ không thể mua đất trong khu dành riêng cho người da đỏ. Em không biết điều đó à? Anh sẽ cho họ thuê đất sử dụng thôi.”

“Em hiểu rồi,” chị nói. Nàng nhìn xuống và nhấc ống tay một chiếc sơ mi của anh lên. “Họ sẽ phải trả lại? Đất vẫn thuộc về anh?”

“Em không hiểu à?” anh nói. Anh nắm lấy cạnh bàn. “Đó là cho thuê mà!”

“Mẹ sẽ nói gì?” Nina hỏi. “Làm thế có ổn không?

Cả hai nhìn qua bà già. Nhưng mắt bà đã nhắm và dường như bà đang ngủ.

“Một nghìn đô,” Nina nói và lắc đầu.

Một nghìn đô. Có thể nhiều hơn. Anh không biết. Nhưng thậm chí một nghìn đô! Anh phân vân không biết sẽ bắt đầu như thế nào, cho mọi người biết rằng anh có đất để cho thuê. Năm nay thì đã quá muộn – nhưng vào mùa xuân anh có thể bắt đầu hỏi quanh. Anh khoanh tay cố nghĩ ngợi. Chân anh bắt đầu run, anh phải đứng dựa tường. Anh đứng đó nghĩ rồi buông người trượt nhẹ theo tường để ngồi xổm xuống.

“Chỉ là cho thuê mà,” anh nói.

Anh ngó sàn nhà trân trân. Dường như nó ngả nghiêng theo hướng anh; dường như nó di chuyển. Anh nhắm mắt, đưa hai tay ôm tai để giữ thăng bằng. Và rồi anh nghĩ phải khum lòng bàn tay lại, để tiếng gầm ấy vang đến, như tiếng gió rít từ vỏ sò.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.