Cũng khá dễ dàng để ổn định với cái vỏ ngoài của một cuộc hôn nhân. Vanessa sớm trở nên nghi ngờ là hầu hết những cuộc hôn nhân, chí ít là những cuộc hôn nhân trong tầng lớp quý tộc, còn không đạt tới mức đó.
Nó là thứ người ta có thể trông chờ, tất nhiên, trong một bộ phận của xã hội mà ở đó hầu hết các cuộc hôn nhân đều được sắp đặt.
Nhưng cô đã biết tới một kiểu hôn nhân khác, tuy rằng chớp nhoáng, và giờ không thể cam lòng với một cuộc hôn nhân nửa vời.
Sau khi chuyển đến London cô rất ít được gặp Elliott. Anh ra ngoài ngay sau bữa sáng và không trở về cho đến tận chiều muộn. Và ngay cả khi anh có ở nhà, thì cả mẹ và em gái anh cũng có mặt.
Thời điểm duy nhất Vanessa thực sự được ở một mình với anh là ban đêm, khi họ trải qua một cuộc làm tình nhanh gọn mang tính thủ tục - nếu có thể gọi như thế. Anh đang cố gắng tạo ra một người thừa kế với cô, và cô cố gắng hợp tác trong những lần kết hợp ngắn ngủi. Cô hi vọng là anh thành công hơn cô. Anh luôn luôn trở về phòng ngay sau khi xong việc. Luôn luôn anh cảm ơn cô khi rời đi.
Anh cư xử với cô bằng thái độ lịch sự, nhưng nó đủ lạnh lẽo để gây ra một tiếng thở dài và lời nhận xét của mẹ anh sau khi anh bỏ lại bữa điểm tâm trong phòng khách vào một sáng nọ.
“Ta đã nuôi hi vọng là Elliott sẽ thay đổi,” bà nói.
“Thay đổi ạ?” Vanessa nhìn bà với đôi mày nhướng lên.
“Những người đàn ông nhà Wallace luôn rất hoang đàng trước khi lấy vợ,” tử tước phu nhân nói, “và về sau lại đứng đắn không chê vào đâu được, ít nhất là theo hình thức bên ngoài. Họ luôn chọn cô dâu cho mình một cách cẩn thận và đối xử với họ bằng sự nhã nhặn không bao giờ cạn. Họ chưa từng kết hôn vì tình yêu. Nó sẽ hạ thấp phẩm giá của họ và hạn chế tự do của họ quá nhiều khi cho phép bản thân cảm nhận bất kỳ cảm xúc nào như vậy. Thật khó khăn cho người đàn ông để phá vỡ truyền thống gia đình, đặc biệt khi gia đình đó nổi tiếng như gia đình này. Nhưng ta nghĩ Elliott có thể làm được. Có lẽ người mẹ nào cũng luôn tin là con trai mình sẽ khác với cha nó. Và lẽ dĩ nhiên họ luôn hết lòng cầu mong cho hạnh phúc của nó.”
Đó là một lời phát biểu bi quan.
“Con vẫn còn ý định làm anh ấy được hạnh phúc,” Vanessa nói, vươn người qua bàn. “Chính con là người đã làm anh ấy không vui, mẹ thấy mà. Hoặc ít nhất con đã làm tổn thương lòng kiêu hãnh của anh ấy hoặc thứ gì đó quan trọng đối với anh ấy. Ba ngày sau lễ cưới anh ấy đã thu gom những bông hoa thủy tiên cùng con - một ôm đầy mà anh ấy khó lòng tưởng tượng nổi. Và khi chúng con trở về ngôi nhà bên hồ anh ấy đã đổ đầy nước vào các bình và lọ cho con và phân loại lũ hoa và mang chúng đến từng phòng và đặt chúng vào đúng vị trí và sửa lại cho đúng góc.
“Elliott mà làm chuyện này ư?” Tử tước phu nhân ngạc nhiên.
“Và ngày hôm sau,” Vanessa nói, “anh ấy tìm thấy con đang khóc. Con đang khóc trên bức chân dung người chồng trước của mình bởi vì con đã hạnh phúc trong ba ngày vừa rồi và cảm thấy có lỗi và sợ mình có thể quên anh ấy.”
“Ôi, con yêu,” mẹ chồng cô nói, cau mày. “Con có giải thích cho Elliott không?”
“Con có,” Vanessa nói. “Ít nhất con nghĩ mình đã làm vậy. Con không biết phải giải thích thế nào dù là với bản thân mình. Nhưng rõ ràng là anh ấy không hiểu. Nhưng con vẫn sẽ làm anh ấy hạnh phúc. Thử xem có được không?”
Họ nhanh chóng bị cuốn vào cái khuôn mẫu bận rộn mà cuộc sống mang lại ngay khi tới thành phố. Có một trăm lẻ một việc phải làm hàng ngày - mua sắm, tới thư viện, cùng đi thăm viếng vào các buổi chiều với mẹ chồng và em chồng cô, đến thăm chị và các em cô sau khi họ đến ở tại ngôi nhà của bá tước Merton ở Berkeley Square. Nghiên cứu hàng đống thư mời gửi đến nhà hàng ngày và cân nhắc nên tham dự cái nào - sau lễ trình diện của cô trước nữ hoàng, tất nhiên. Và còn có lễ trình diện để mà nghĩ ngợi và lo lắng nữa - và buổi vũ hội đi liền theo nó vào buổi tối. Về cơ bản nó là buổi vũ hội dành cho sự ra mắt của Cecily, nhưng cũng mang cả ý nghĩa như một sự ra mắt cho Vanessa - và Meg và Kate.
Có hàng loạt những người phải gặp và đương đầu và hàng loạt cái tên phải ghi nhớ.
Hầu hết trong số đó là những hoạt động của nữ giới, Vanessa cảm thấy hình như mọi phụ nữ và nam giới thuộc tầng lớp quý tộc đều sống ở những nơi tách biệt và chỉ cùng tụ họp chỉ trong những sự kiện xã hội như các buổi vũ hội và picnic hòa nhạc. Buổi vũ hội ra mắt là một dịp như thế.
Cô có thể ném mình vào cuộc sống mới và gần như phớt lờ Elliott. Người mà cô không biết đã làm gì với mấy ngày vừa qua.
Nhưng cô nhớ anh. Họ đã trò chuyện rất nhiều trong ba ngày của tuần trăng mật. Họ đã cùng làm nhiều thứ với nhau. Họ đã làm tình thường xuyên và với sự thỏa mãn kéo dài. Họ đã ngủ trong vòng tay nhau.
Tuy nhiên nó không phải là mối quan hệ đạt mức lí tưởng. Cô đã cảm thấy sự dè dặt của anh, sự miễn cưỡng của anh để thả lỏng và đơn thuần tận hưởng cuộc sống. Cô đã để ý thấy anh chưa bao giờ mỉm cười hoặc cười phá lên. Nhưng nó chỉ là sự dè dặt phần nào. Cô cảm thấy thời gian đó cũng là những ngày hạnh phúc đối với anh, ngay cả khi anh chẳng bao giờ sử dụng chính xác từ đó.
Lúc đó chí ít cũng còn có tia hi vọng.
Giờ đây anh không vui vẻ nữa - dù sao cũng không khi anh ở nhà.
Và tất cả là lỗi ở cô.
Vậy thì cô có thể bằng lòng với một cuộc hôn nhân không hoàn hảo, và cô có thể bằng lòng với thời gian biểu bận rộn hàng ngày của mình.
Nhưng cô không thể.
Vào buổi sáng trước ngày ra mắt, cô nghe thấy anh rời khỏi phòng thay đồ. Trời vẫn còn sớm. Anh luôn dậy sớm để dành thời gian trong văn phòng với Mr. Bowen trước khi bắt tay vào bất cứ công việc gì khiến anh vắng mặt cả ngày.
Mẹ anh và đôi khi cả Cecily cùng dùng bữa sáng với anh. Cô cũng thế, nhưng không có cơ may cho bất kỳ cuộc nói chuyện riêng tư nào ở đó.
Vanessa vội đi vào phòng thay đồ của mình, kéo mạnh áo ngủ ra khỏi người khi vào đến nơi. Cô không rung chuông gọi người hầu. Cô rửa mặt cấp tốc bằng nước lạnh và hối hả mặc chiếc áo dài ban ngày màu xanh lơ lên người, cào sơ mấy nhát lược qua mái tóc, kiểm tra toàn thân trong chiếc gương bằng kích cỡ người thật để đảm bảo trông mình không xấu đến mức bằng quỷ dạ xoa, và đi theo chồng xuống cầu thang.
Anh ở trong phòng làm việc kế bên thư viện, đúng như cô nghĩ. Anh cầm một lá thư đã bóc trong tay nhưng chưa đọc. Anh đang nói chuyện với Mr. Bowen. Ăn vận không một chút tì vết trong bộ đồ cưỡi ngựa và đôi giày ống cao, trông anh đẹp trai hết sức.
Anh quay lại khi cô xuất hiện ở khung cửa và lông mày anh nhướng lên trong vẻ ngạc nhiên rành rành.
“Ah, em thân yêu,” anh nói. “Sáng nay em dậy sớm nhỉ.”
Anh đã bắt đầu gọi cô là em yêu nơi công cộng. Nó nghe trái tai đến lố bịch.
“Em không ngủ được,” cô nói, và mỉm cười. Cô gật đầu với Mr. Bowen, người đã đứng dậy phía sau bàn.
“Tôi có thể làm gì để giúp em?” Elliott hỏi.
“Ngài có thể vào thư viện hoặc căn phòng buổi sáng với em không,” cô nói. “Em muốn nói chuyện với ngài.”
Anh nghiêng đầu.
“Tôi sẽ đọc cho anh câu trả lời lá thư này sau, George,” anh nói, vẫy lá thư trong tay trước khi đặt nó xuống bàn. “Cái này không khẩn cấp lắm.”
Anh nắm lấy khuỷu tay cô và dẫn cô sang căn phòng kế bên, nơi ngọn lửa đã được đốt bập bùng trong lò sưởi.
“Tôi có thể làm gì cho em, Vanessa?” anh hỏi, chỉ vào chiếc ghế bọc da cạnh lò sưởi còn mình thì bước tới đứng trước ngọn lửa, quay lưng lại với nó. Anh tuyệt đối nhã nhặn với một chút nôn nóng.
Cô ngồi xuống.
“Em nghĩ chúng ta có thể nói chuyện,” cô nói. “Chúng ta khó có cơ hội để nói chuyện với nhau nữa.”
Anh nhướng mày lên lần nữa. “Ở bữa tối thì không ư?” anh hỏi cô. “Hoặc ở trong phòng khách sau đó?”
“Mẹ ngài và em gái ngài lúc nào cũng có mặt,” cô nói. “Ý em là một mình, chỉ có hai chúng ta.”
Anh quan sát cô kỹ càng. “Em cần thêm tiền à?” anh hỏi. “Chuyện đó em có thể hỏi George bất cứ lúc nào. Em sẽ không thấy tôi thắt chặt hầu bao đâu.”
“Không, dĩ nhiên là không,” cô nói, xua xua tay. “Em còn chưa động đến số tiền anh ấy đưa cho em hai ngày trước. Ồ, trừ khoản tiền đóng góp ở thư viện. Em đã đi xem các cửa hàng. Nhưng thực sự không có thứ gì em cần để phải tiêu xài phung phí. Em đã có nhiều quần áo đủ để dùng cả đời rồi.”
Anh tiếp tục nhìn xuống cô và cô nhận ra anh đã đặt cô vào tư thế bất lợi đến nhường nào - có phải là cố ý? Cô đang ngồi trong khi anh đứng. Anh cao lừng lững trước mặt cô.
“Chuyện tiền bạc không phải là điều em muốn nói tới,” cô nói, “mà là về chúng ta - về cuộc hôn nhân của chúng ta. Em nghĩ em đã làm ngài tổn thương.”
Đôi mắt anh trở nên lạnh lùng.
“Tôi nghĩ rằng, ma’am,” anh nói, “em không đủ sức để làm nổi chuyện đó.”
Nó là bằng chứng xác thực rằng cô đã đúng. Những người bị tổn thương thường cảm thấy cần phải trả đũa lại - thậm chí còn hằn học hơn.
“Nếu đó là tất cả những gì em muốn nói,” anh nói, “tôi sẽ yêu cầu em -“
“Tất nhiên đó không phải là tất cả,” cô nói. “Lạy Chúa, Elliott, cuộc hôn nhân còn lại của chúng ta cứ tiếp diễn theo cách này ư, như thể chúng ta chẳng là gì với nhau ngoài hai con người xa lạ lịch sự đến lạnh lẽo? Chỉ mới mấy ngày trước ngài còn đang lia những hòn đá trên mặt hồ ở Finchley Park và em đang chèo thuyền đưa chúng ta quay vòng vòng và chúng ta đang gom những đóa thủy tiên. Tất cả những điều đó không có ý nghĩa gì với ngài sao?”
“Chắc chắn em không trông chờ những ngày ấy sẽ kéo dài hơn một giai đoạn nghỉ ngơi êm đềm trước khi nhiệm vụ thực sự của hôn nhân giữa chúng ta bắt đầu, phải không?” anh hỏi cô.
“Tất nhiên là không,” cô nói, “Elliott -“
“Thật sự tôi phải nói lời chào buổi sáng với em,” anh nói, “cho phép tôi hộ tống em tới phòng ăn sáng? Có lẽ lúc này mẹ tôi đã xuống rồi.”
Anh chìa tay ra.
“Ba ngày và ba đêm ấy - bốn đêm - là khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong cuộc đời em,” cô nói, hơi vươn người về phía trước trong ghế và dồn ánh mắt lên anh.
Cô nhìn thấy anh hít vào, nhưng cô vội cướp lời trước khi anh kịp nói bất cứ câu gì.
“Em yêu Hedley,” cô nói. “Đúng ra là khâm phục anh ấy. Em sẽ chết chung với anh ấy nếu có thể. Nhưng em chưa bao giờ yêu anh ấy. Em chưa bao giờ -“ cô nuốt xuống vụng về và nhắm mắt lại. Cô chưa nói thành tiếng về chuyện này bao giờ. Cô đã cố gắng hết sức để thậm chí không nghĩ tới nó. “Em chưa bao giờ rung động trước anh ấy. em chưa bao giờ muốn anh ấy theo cách đó. Anh ấy là người bạn thân thiết nhất của em trên đời.”
Không gian lặng phắc như tờ.
“Nhưng anh ấy lại yêu em mãnh liệt,” cô nói, cố sức tiếp tục. “Không phải vì vẻ ngoài của em, tất nhiên rồi. Em nghĩ chắc là do em luôn vui vẻ và hay cười và sẵn lòng ở bên anh ấy. Anh ấy ốm rất nặng và yếu ớt. Nếu anh ấy cường tráng và khỏe mạnh, em dám chắc anh ấy sẽ chẳng thèm yêu em cho dù luôn luôn là bạn em. Anh ấy sẽ yêu một người nào đó xinh đẹp hơn.”
Anh vẫn chẳng nói gì, và cô thôi không nhìn anh nữa. Cô nhìn xuống hai bàn tay mình, giờ đang có cảm giác râm ran như kiến bò..
“Ngài cao lớn và mạnh mẽ và cường tráng,” cô nói. “Chuyện đã xảy ra giữa chúng ta thật...ồ. Em chưa từng được tận hưởng điều gì quá nhiều như thế trong đời mình. Và rồi sau đó, khi chúng ta trở lại ngôi nhà chính và em biết tin về Crispin và nhận ra Meg hẳn là đau khổ tới mức nào và chiều hôm ấy ngài lại đi vắng và em chỉ có một mình trong khi trời thì đổ mưa - rồi em nhớ đến Hedley. Và em nhớ ra mình đã nhét một tấm hình của anh ấy vào góc rương khi em rời khỏi Warren Hall và em liền đi tìm nó. Em nghĩ về anh ấy và em khóc thương cho cái chết trẻ của anh ấy và một sự thật là em chưa từng yêu anh ấy theo cách mà anh ấy nghĩ. Em cảm thấy có lỗi vì đã để bản thân hưởng thụ quá nhiều cùng với ngài khi mà em chưa bao giờ thực sự có cảm xúc với anh ấy. Và rồi em cảm thấy có lỗi vì đã cảm thấy có lỗi - vì em không được cảm thấy có lỗi khi tận hưởng niềm vui với người chồng mới của mình, có phải không? Thực ra, em không được cố gắng cho bản thân vui vẻ. Và ở đây em đang đi vào ngõ cụt của từ ngữ khi mà em khao khát muốn giải thích rõ ràng cho ngài hiểu.”
Cô ngừng lời - và nghe thấy anh hít vào thật sâu rồi thở ra.
“Tôi không giỏi thấu hiểu những bi kịch kiểu Cheltenham, tôi e là vậy, Vanessa,” anh nói. “Tôi có nên cảm thấy hài lòng không, rằng em không yêu Dew mặc dù em có yêu anh ta? Có một điểm khác biệt, tôi ghi nhận điều đó? Tôi nên cảm thấy hài lòng gấp đôi vì em cảm thấy ham muốn nhục dục với tôi trong ba ngày tiếp theo của lễ cưới - và ham muốn ấy được thỏa mãn - rằng em đã quên hẳn người đàn ông em đã yêu, nhưng đó là người em chưa bao giờ yêu?”
Anh đã thành công trong việc biến lời thú tội của cô thành vô giá trị. Cô đã phơi bày tâm hồn mình trước anh, và nó đã khiến anh càng trở nên lạnh lùng.
Cô ngước mắt nhìn anh. Anh đang nhìn lại cô một cách điềm tĩnh.
“Không phải em, hi vọng là vậy, đã yêu tôi đấy chứ?” anh hỏi cô.
Cô thấy ghét anh vào khoảnh khắc đó.
“Không, dĩ nhiên là không,” cô nói. “Em kết hôn với ngài để giúp các chị em của mình giành được quyền gia nhập vào xã hội, cũng như ngài kết hôn với em để giải quyết vấn đề mà ba chúng em gây ra cho ngài và để sinh cho ngài những người thừa kế. Nhưng dù vậy một cuộc hôn nhân vì lợi ích không nhất thiết phải là một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, Elliott, hoặc phải là cuộc hôn nhân mà trong đó hai nhân vật chính hiếm khi trò chuyện hay dành thời gian bên nhau. Em muốn chúng ta có một cuộc hôn nhân có sinh khí. Em biết ngài có thể chọn một người xinh đẹp hơn gấp bội và phù hợp hơn em gấp bội nếu ngài chờ đợi, nhưng ngài đã chọn không chờ đợi. Em làm gì khác được khi ngài đến cầu hôn Meg nhưng thay vào đó lại vớ phải em?”
Anh quan sát cô bằng đôi mắt nheo lại.
“Có lẽ cũng tốt khi chúng ta chẳng ai yêu ai,” cô nói. “Rồi chúng ta có thể chẳng cần nỗ lực để có hạnh phúc. Chúng ta có thể dựa vào cái cảm xúc phởn phơ mà chắc chắn là tâm trạng yêu đương mang lại và chẳng bận tâm xây dựng bất cứ mối quan hệ nào thân mật và lâu dài. Nhưng chúng ta có thể hạnh phúc lần nữa nếu ta cố gắng.”
“Lần nữa ư?” anh nhướng mày lên. “Và điều này sẽ kéo theo cái gì, Vanessa? Nếu em chờ tôi phơi bày những cảm xúc của mình vào mọi dịp, thì em phải gánh chịu nỗi thất vọng rồi. Đó là điều khắc nghiệt đối với phụ nữ.”
“Chà, để bắt đầu,” cô nói, “chắc chắn ngài không cần vắng nhà cả ngày vào mọi ngày. Em cũng vậy. Thỉnh thoảng chúng ta có thể làm chuyện gì đó cùng với nhau để mang lại niềm vui cho cả hai.”
“Như chuyện lên giường ư?” anh hỏi.
Cô sẽ không lảng tránh ánh mắt anh cho dù cô cảm thấy hai má mình đang nóng rực trở lại.
“Lâu hơn năm phút mỗi lần?” cô nói. “Đó sẽ là một chuyện. Mặc dù một mối quan hệ có sinh khí hẳn không chỉ dựa vào mỗi chuyện đó. Còn có buổi vũ hội vào tối mai nữa, tất nhiên, nhưng chuyện đó chỉ là một, và chắc chắn nó sẽ rất trang trọng. Nhưng hàng ngày có hàng chồng thư mời mà em phải xem xét cùng với mẹ ngài. Có lẽ chúng ta có thể cùng quyết định chọn một số lời mời phù hợp với cả hai?”
Anh nghiêng đầu, dù chẳng nói câu nào.
“Hôn nhân không hề dễ dàng cho người ta quen với nó,” cô nói. “Và em nghĩ nó thường tồi tệ hơn đối với đàn ông. Phụ nữ đã quen bị phụ thuộc, để nghĩ được những việc khác cũng như nghĩ cho mình. Đàn ông thì không.”
“Vậy chúng tôi là một bọn khốn ích kỷ?” anh hỏi cô.
Cô bị sốc nặng. Cô không chắc là mình đã từng nghe thấy những từ đó được phát biểu thẳng toẹt trước đó.
Cô chậm rãi mỉm cười.
“Có tật giật mình...” cô nói.
Trong phút chốc có một tia sáng trong mắt anh nom như sự thích thú.
“Em đã được xem bộ sưu tập Towneley ở bảo tàng Anh Quốc bao giờ chưa?” anh hỏi cô.
“Chưa ạ,” cô đáp.
“Chúng là những tác phẩm điêu khắc xưa được mang về từ thế giới cổ đại,” anh nói. “Một số quý cô sẽ không dám nhìn chúng, và một số quý ông sẽ không mua chúng cho dù rất muốn. Những bức tượng đó không có quần áo che phủ, em thấy đấy, và hoàn toàn trần truồng. Nhưng chúng cung cấp một cái nhìn kì diệu vào một trong những nền văn minh vĩ đại nhất của thế giới. Em có muốn đi không?”
Cô nhìn anh trân trân.
“Bây giờ ư?”
“Tôi cho rằng,” anh nói, lướt ánh mắt lên người cô, “em sẽ muốn ăn điểm tâm trước và thay một bộ đồ thích hợp hơn.”
Cô đứng bật dậy.
“Ngài muốn em sẵn sàng trong bao lâu?” cô hỏi anh.
“Một giờ được không?” anh gợi ý.
“Em sẽ sẵn sàng trong năm mươi lăm phút nữa,” cô hứa, và khoe với anh một nụ cười rạng rỡ trước khi xoay người ba chân bốn cẳng chạy khỏi phòng và lao lên cầu thang.
Cô sẽ đi chơi cùng Elliott.
Anh sẽ đưa cô đi xem bộ sưu tập Towneley, dù cho là thứ gì cô cũng chẳng quan tâm. Cô sẵn sàng xem một cánh đồng toàn bùn nếu đó là nơi anh chọn đưa cô tới - mà vẫn thấy vui sướng với nó.
Cô dừng lại khi đã vào đến phòng thay đồ của mình và rung chuông gọi cô hầu.
Anh đã hỏi liệu cô có yêu anh không - và thêm vào là anh hi vọng rằng không.
Cô có yêu anh không?
Nó sẽ bổ sung thêm sự phức tạp đầy rủi ro cho cuộc sống vốn đã gian nan chồng chất.
Cô có đang yêu không? Với Elliott?
Cô không thể trả lời câu hỏi ấy. Hoặc sẽ không trả lời.
Nhưng cô chợt cảm thấy những giọt nước mắt đang dâng lên trong cổ và phía sau hốc mắt.
“Tôi đã phân loại đống thư từ,” George nói khi Elliott quay lại phòng làm việc. “Những thư mời để cho các quý cô đọc nằm ở xấp này. Những lá thư tôi có thể tự giải quyết nằm ở đây. Những bức thư cần anh chú ý ở đằng kia. Lá thư nằm trên cùng -“
“-sẽ phải đợi sau,” Elliott nói mà không thèm liếc mắt tới chồng thư - hay viên thư ký của mình. “Tôi sẽ dành hết buổi sáng tháp tùng cô ấy.”
“Ah, rõ rồi,” George nói, tỏ vẻ chăm chú tột độ để nắn lại xấp thư ít ỏi thứ ba cho thẳng thớm.
“Tôi sẽ đưa cô ấy đi xem bộ sưu tập Towneley ở bảo tàng Anh quốc,” Elliott nói. Sau này, anh ước gì mình đã không nói câu tiếp theo. “Mong ước của cô ấy là chúng tôi nên làm chuyện gì đó cùng nhau.”
“Các bà vợ hay ngồ ngộ kiểu đó,” George nói khi chỉnh lại cây bút mặc dù chẳng có chữ ký nào khiến anh cần dùng tới nó ngay tắp lự. “Hoặc tôi đã nghe nói thế.”
“Tôi cần lên lầu và thay quần áo,” Elliott nói.
“Cứ tự nhiên.” Bạn anh nhìn đi nhìn lại anh với vẻ phê phán. “Một lời gợi ý nhé, Elliott, nếu tôi có thể?”
Elliott đã quay ra cửa. Anh thở dài và ngoảnh lại qua vai mình.
“Tôi cho rằng viện bảo tàng và bộ sưu tập là ý tưởng của anh,” George nói. “Và cũng là một ý tưởng hay. Nhưng sau đấy hãy đưa cô ấy tới cửa hàng Gunter. Tôi dám chắc cô ấy chưa được ăn kem bao giờ. Nó sẽ làm cô ấy thích lắm. Cô ấy sẽ coi đó như một cử chỉ lãng mạn trong tính cách của anh.”
Elliott quay hẳn lại để đối diện với viên thư ký lần nữa.
“Và anh đột nhiên trở thành chuyên gia trong lĩnh vực lãng mạn đấy à, George?” anh hỏi.
Thư ký của anh đằng hắng.
‘Người ta không cần phải là chuyên gia,” anh nói, “mà chỉ cần quan sát cánh phụ nữ để hiểu cái gì làm vừa lòng họ. Và người phụ nữ của anh rất dễ tính, tôi cá đấy. Cô ấy là một tạo vật nhỏ nhắn luôn vui vẻ - ngay cả khi chẳng có gì mấy để mà vui.”
“Anh ao ước được đưa ra quan điểm đến thế sao, George?” ông chủ của anh hỏi với sự điềm tĩnh đáng ngại.
“Vấn đề của anh,” George nói, “là anh chẳng có lấy một đốt xương lãng mạn nào trong người, Elliott. Thứ duy nhất anh biết làm với người phụ nữ mình thích là ngủ với cô ấy. Không phải tôi đổ lỗi cho anh đâu. Tôi hay ghen tị với anh, nếu phải tiết lộ sự thật. Nhưng quả thật là phụ nữ cần nhiều hơn hoặc ít nhất - mà thôi, quên đi. Nhưng họ có khuynh hướng lãng mạn và chúng ta có nhiệm vụ tặng họ cái họ muốn ít nhất là một đôi lần - nếu họ thuộc về chúng ta, tức nghĩa là, không đơn thuần chỉ là tình nhân.”
Elliott nhìn anh chằm chằm.
“Lạy Chúa!” anh nói. “Tôi đã chứa chấp thứ trời đánh nào đội lốt thư ký dưới mái nhà mình thế này?”
George tỏ vẻ hối lỗi, nhưng không chịu giữ mồm.
“Cứ đi xem những bức tượng trước, nếu anh khăng khăng muốn thế, Elliott,” anh nói. “Tôi tin quý cô của anh đủ khả năng chịu đựng để không phải hít thuốc muối ở đó. Tôi tin là cô ấy thậm chí còn hứng thú với chúng. Nhưng sau đó hãy đưa cô ấy tới cửa hiệu Gunter, ông bạn già.”
“Vào thời điểm đầu năm này ư?” Elliott hỏi.
“Dù có là tháng một cũng vẫn được,” George đảm bảo với anh. “Và nhất là khi cô ấy đã bị bỏ mặc bốn ngày liền - ngoại trừ sự bầu bạn của các quý cô khác, tất nhiên. Mà chỉ mới kết hôn được hơn một tuần.”
“Chỉ là tinh ý thôi,” bạn anh nói. “Tốt hơn anh hãy lên lầu và thay đồ trước bữa ăn sáng.”
Elliott bỏ đi.
Anh không ở trong tâm trạng tốt nhất lúc đi lên cầu thang về phòng mình - nhưng anh đã không ở trong tâm trạng tốt nhất từ sáu ngày qua. Dù sao chăng nữa cũng không phải là lúc anh về nhà. Anh đã đủ vui vẻ ở các câu lạc bộ của anh, ở Tattersall, ở câu lạc bộ đấm bốc của Jackson, hòa mình với bạn bè và những người quen, chuyện gẫu về những chủ đề tâm đắc như là chính phủ và chiến tranh và những cuộc đua ngựa trước mắt và những trận đấm bốc gay cấn.
Anh tin rằng mình đã gây ra một sai lầm lớn nhất trong đời khi anh để cho Vanessa Dew nói với anh là hãy kết hôn với cô.
Mặc dù nếu đó không phải là cô, thì cũng sớm là một người khác. Và nếu anh không cưới cô cũng như chị gái cô, thì các cô gái nhà Huxtable vẫn sẽ là một trách nhiệm nặng nề tròng vào cổ anh.
Cô ta đã yêu Dew, vì tình yêu của Chúa, nhưng lại không rơi vào tình yêu với anh ta. Điều rắc rối ấy nghĩa là thế nào? Cô ta không thích những lần gần gụi thể xác với Dew, mặc dù thằng cha tội nghiệp đó đã quá ốm yếu để cho cô một thời gian vui vẻ. Và ngược lại, cô ta thích những lần được ngủ với anh - cho đến khi nhớ tới người chồng quá cố và rồi để bản thân chìm vào một mạng lưới lằng nhằng của đau thương và tội lỗi khiến đầu anh quay mòng mòng chỉ với ý nghĩ gỡ được nó ra - chưa nói tới ý định cố gắng.
Anh tự hỏi liệu có tồn tại một phụ nữ nào rắc rối hơn vợ anh không, và vô cùng nghi ngờ chuyện đó.
Nhưng cô đã nghĩ ba ngày và bốn đêm trăng mật của họ là thời gian tuyệt vời nhất trong đời cô.
Đó là một sự hài lòng dễ chịu, anh cho là vậy.
Trời đất, cô ta có trông đợi anh thổ lộ mọi vấn đề nhỏ nhặt có thể phát sinh trong suốt cuộc hôn nhân của họ cho đến cuối đời không? Phải chăng họ sẽ phân tích tất cả mọi thứ cho đến lúc chết?
Liệu cuộc sống có trở nên phức tạp đến vô phương cứu chữa?
Đương nhiên là có. Anh đã kết hôn, không phải sao? Và trong tất cả mọi người, lại là Vanessa.
Và giờ anh sắp từ bỏ một buổi sáng đúng đắn hoàn hảo với việc đọc giấy tờ và chuyện gẫu ở câu lạc bộ White để tháp tùng cô đi tham quan một di tích văn hóa. Và chuyện đó sẽ được nối tiếp tới tiệm kem của Gunter.
Không phải là anh buộc phải đưa cô đến đó. Anh không định để cho thư ký của mình điều khiển lịch trình của anh, đúng không? Và chỉ trích anh vì đã bỏ bê vợ mình?
Nhưng có vẻ như đưa Vanessa đến cửa hiệu Gunter là một việc làm lãng mạn.
Trời đất!
Có phải cô đã từng hứa sẽ làm cho anh dễ chịu?
Thế mà anh đang thấy hôn nhân là là thứ khó chịu nhất anh từng trải qua hoặc có khả năng mơ đến.
Mặc dù mấy ngày đầu tiên anh đã hơi hơi thích thú, anh phải thừa nhận thế. Thực ra là còn hơn cả hơi hơi.
Đằng nào anh cũng dính vào cuộc hôn nhân này suốt đời.