Vào một mùa xuân mai nở, tôi viết một câu thế này trên chữ ký cá tính của
mình: Biết bao phồn hoa thành mộng cũ, nhân gian hiện lại Bạch Lạc Mai.
Bạn nói có cảm giác tái xuất giang hồ, tôi điềm đạm mỉm cười. Khi viết
xong cuốn thi truyện này về Tsangyang Gyatso thì đã vào mùa đông lạnh
lẽo, mùa đông này, Giang Nam nhiều tuyết. Khi tôi gác bút, khấn một tâm
nguyện cuối cùng: nguyện non sông tươi đẹp, thời thịnh yên vui. Sau đó
cứ luôn trầm mặc, mãi đến sau Tết, ngắm bên suối cỏ xanh mơn mởn, trong
vườn hoa mai nở rộ, mới bừng tỉnh cảm thấy phải kịp thời tranh thủ lấy
mùa xuân.
Khoảng thời gian này, tôi biết đến “Phi thành vật nhiễu II[2]”, biết trong phim có một bé gái tên Xuyên Xuyên đã đọc một bài
thơ - “Kiến dữ bất kiến”. Chính bài thơ này đã cảm động muôn ngàn người, biết bao người lệ rơi đầm đìa vì nó. Trước đó, nhiều người đều cho rằng “Kiến dữ bất kiến” là do Tsangyang Gyatso viết, và mải mê truyền xướng. Mãi đến sau này mới biết là bài thơ “Ban trát cổ lỗ bạch mã đích trầm
mặc” do một nhà thơ nữ hiện đại tên Trát-tây-lạp-mẫu Đa-đa[3] viết. Mà
linh cảm của bài thơ này đến từ một câu nói vô cùng nổi tiếng của đại sư Liên Hoa Sinh: “Ta chưa từng rời bỏ những người tín ngưỡng ta, hay thậm chí người không tin ta, tuy họ không nhìn thấy ta, các con của ta, sẽ
mãi mãi, mãi mãi được lòng từ bi của ta bảo vệ.”
[2] Phi thành
vật nhiễu II: phim điện ảnh của Trung Quốc, đạo diễn Phùng Tiểu Cương,
biên kịch Vương Sóc, các diễn viên Cát Ưu, Thư Kỳ, Tôn Hồng Lôi, Diêu
Thần, An Dĩ Hiên...
[3] Trát-tây-lạp-mẫu Đa-đa (sinh năm 1978): tên thật Đàm Tiếu Tỉnh, nữ Phật tử người Quảng Đông, hiện tu hành ở Bodhgaya, Ấn Độ.
Còn khi tôi xem được một câu thế này của Trát-tây-lạp-mẫu Đa-đa viết, cũng
cảm động sâu sắc. “Cho dù như thế, Đa-đa bằng lòng đem vinh dự quy về
Tsangyang Gyatso.” Trương Ái Linh[4] từng nói, bởi vì hiểu được, cho nên từ bi. Thứ chúng ta cứ luôn theo đuổi, chẳng phải chính là giữa người
và người thêm một phần hiểu nhau, thêm một phần trân trọng, thêm một
phần thương xót hay sao? Tin rằng Tsangyang Gyatso cũng sẽ không muốn
đòi phần vinh dự này, với tài hoa của Ngài, khí độ của Ngài, tiêu sái
của Ngài, há lại để ý cách nhìn của người đời ba trăm năm sau đối với
Ngài hay sao?
[4] Trương Ái Linh (1920-1995): nhà văn nữ của
Trung Quốc. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của bà bao gồm "Sắc, Giới" và
"Chuyện tình giai nhân".
Tsangyang Gyatso từng có được sự tôn
vinh cao nhất, được trăm ngàn tín đồ thành kính lễ bái, được nhiều cô
gái xinh đẹp trong thành Lhasa kính yêu sâu sắc, đã viết vô số bài thơ
tình đau khổ triền miên. Dù có bài thơ “Kiến dữ bất kiến” này hay không, Ngài vẫn là vị tình tăng tuyệt mỹ nhất trong lòng người đời, trên miền
đất thần bí gọi là Tây Tạng ấy, trồng đầy hoa tình. Chỉ cần người đi
ngang qua nơi ấy, thậm chí người từng đọc thơ tình của Ngài, đều sẽ
trúng độc. Nhưng nhiều người biết rõ là độc, lại chẳng hỏi có thuốc giải hay không, uống ực xuống, không oán không hối. Chẳng biết, đây rốt cuộc là sức hấp dẫn của văn chương, hay là sức hấp dẫn của tình yêu, hoặc là trong tối tăm được tính Phật dẫn dắt, một khi chìm lún, khó tự rút ra.
Thật ra, cả đời này của Tsangyang Gyatso đều bị vận mệnh sắp đặt, không thể
đi theo phương thức của mình. Vốn sinh ra ở một miền đất nhỏ tươi đẹp
gọi là Monyu, có cô gái làng bên mơ xanh ngựa gỗ bầu bạn, vốn cho rằng
có thể giữ gìn hạnh phúc bình dị này, yên ổn sống trọn đời. Tiếc rằng
Ngài lại là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 Lobsang
Gyatso, đời này phải trả cái giá mênh mang vì ước nợ của kiếp trước. Đệ
Ba Sangye Gyatso vì tiếp tục lợi dụng quyền uy của Đạt Lai thứ 5 quản lý chính vụ của Hoàng Giáo, giữ kín không phát tang mười lăm năm đối với
cái chết của Lobsang Gyatso. Còn Tsangyang Gyatso cũng đã ẩn mình mười
lăm năm, mãi đến khi Ngài vào ở trong cung Potala, tòa cung điện thần
thánh này hoàn toàn không cho Ngài kết quả mong muốn.
Tsangyang
Gyatso đã làm con cờ của Sangye Gyatso, giống một con chim bị giam cầm
trong chiếc lồng hoa lệ, không có quyền lực cao nhất, mất đi vui vẻ tự
do. Nếu không phải tìm được con đường thông đến thành Lhasa trong cung
Potala, Tsangyang Gyatso cũng sẽ không sở hữu tình yêu ghi lòng tạc dạ
ấy. Ở một quán rượu nhỏ tên Makye Ame, Phật sống Tsangyang Gyatso đã trở thành lãng tử Dangsang Wangpo, Ngài đã phải lòng cô gái Qonggyai xinh
đẹp, mới bất lực hỏi Phật: Thế gian nào có đôi đường vẹn, Chẳng phụ Như
Lai chẳng phụ nàng.
Có lẽ chính vì Tsangyang Gyatso là một nhà
sư, cho nên tình thâm của Ngài càng khiến người cảm động. Thế gian này
có nhiều tình cảm phải gồng gánh quá nhiều bất lực, muốn yêu không thể,
muốn thôi chẳng nỡ. Ai lại có thể ngồi yên trên mây, dửng dưng nhìn
xuống khói lửa phàm trần mà bản thân không vương chút bụi nhỏ. Tương
phùng đẹp đẽ chốn trần thế luôn khiến bạn và tôi tình khó cầm lòng, chỉ
là xưa nay chẳng có tình duyên nào thật sự có thể gắn bó trọn đời. Nhưng chúng ta vẫn không hề quản ngại mà yêu, đón nhận luân hồi của gặp gỡ và ly biệt, đón nhận số mệnh nhân quả duyên đến duyên đi. Hôm nay tôi là
chu sa trong lòng bạn, ngày mai trăn trở lại chân trời.
Từng có
biết bao tình yêu ghi lòng tạc dạ, đều bị chúng ta nhất nhất quét xuống
trần ai. Luôn có một số quá khứ sẽ trở thành hồi ức lâu dài, đồng thời
không thể lãng quên. Chúng ta luôn muốn có một lẽ vĩnh hằng, nhưng lại
có mấy ai bằng lòng tin tưởng vĩnh viễn. Rất nhiều người, không nề ngàn
núi muôn sông, đến Tây Tạng, nhặt nhạnh dấu chân của Tsangyang Gyatso.
Là vì họ muốn truy tìm một đáp án đã trầm mặc ba trăm năm chăng? Hay chỉ để tìm một bờ bên kia cho tình duyên không chốn đặt tên của mình? Có
những người đã quên mất đường về, kiếp này ở lại hồ Thanh Hải, làm tri
kỷ trọn đời với nước hồ, trao đổi tâm tính nhu tình với một ngọn cỏ lác. Càng có nhiều người, hối hả đi về, không kịp khấn một tâm nguyện, lại
chìm vào trong biển người mênh mang.
Đời người như bèo trôi, tụ
tán đôi đường mờ mịt. Lần này ra đi trải qua nhiều năm, muôn dặm núi
Bồng, nào đã tham vọng còn sẽ có ngày gặp lại. Sở hữu, chẳng qua là tìm
về thứ mình thất lạc, mất đi, cũng chỉ là hai tay dâng trả mọi thứ có
được. Xem trời đất lâu dài đều là bèo nước gặp nhau; xem tình sâu ý nặng đều là gió nhẹ mây nhạt. Đến một ngày kia, có lẽ chúng ta sẽ đạt đến
cảnh giới không mừng không lụy, không thêm không bớt, không lơi không
siết. Chỉ là lúc ấy, ai còn cần một vòng tay ấm ấp, ngả xuống nghỉ ngơi
linh hồn mệt mỏi? Ai lại muốn vào ở trong trái tim ai, bình lặng yêu
nhau, âm thầm thương tưởng?
Ba trăm năm đã qua, Tsangyang Gyatso
trải qua mấy lần luân hồi chuyển thế, Ngài đã tu luyện thành gì? Tôi tin rằng, người từ bi, nguyện đem bản thân héo rụng thành bùn, thiêu đốt
thành tro, dù tản mát ở bất cứ ngóc ngách nào trên thế gian này, đều có
thể thản nhiên đối diện. Một giấc phù du, chúng ta chẳng qua là ở trong
mộng, đạo diễn bản thân, lại ở ngoài mộng, lạnh lùng nhìn nhau, cùng
người trong mộng dường như người dưng nước lã.
Người mất như thế, ngàn gọi không về. Biển biếc dàu dàu, nương dâu nhợt nhạt. Đời người
chìm nổi, cỏ cây cũng có tình cảm, khói bụi cũng biết ấm lạnh. Nhưng
trái tim của chúng ta luôn không tìm được một chốn về bình yên, có thể
yên thân gửi phận. Biết bao tâm tình cần nuôi dưỡng, biết bao lời hứa
mong đợi thực hiện, còn có biết bao lỗi lầm khao khát làm lại từ đầu.
Chỉ là không trở về được nữa, thời gian cuồn cuộn, như nước chảy về
đông, chẳng thể quay đầu lại. Một mở một khép, một ly một hợp, một vui
một buồn của ba trăm năm trước cũng chỉ là chớp mắt. Có những tình cảm
rốt cuộc không thể thay thế, có những duyên phận định sẵn ngắn ngủi như
vậy.
Tsangyang Gyatso từng quỳ trước Phật, thốt ra câu hỏi hoang
mang mà tình sâu. Đại ái vô ngôn, không cầu mỗi người đều từ bi khoan
dung như Phật, chỉ mong mỗi trái tim thêm một chút hiền lành, bớt một
chút ý ác. Phải tin rằng, linh hồn của chúng ta rất đỗi yếu đuối, một
bài tình ca, một đoạn câu từ, một lối gieo vần, đều có thể khiến nó bồi
hồi xao xuyến. Đã là như thế, lại còn có điều gì không thể tha thứ, còn
có điều gì không thể chịu đựng?
Hãy hết lòng trân trọng, trân
trọng một cuộc tình duyên mà bạn và tôi sở hữu. Để núi thần hồ thánh làm chứng, nói với Tsangyang Gyatso, chúng ta cũng từng thu xếp hành tranh
đến kiếp trước tìm Ngài, dù lưu lạc cùng khốn, vẫn vì Ngài dâng hiến
trái tim ban sơ tinh khiết đẹp đẽ. Bất kể gặp gỡ hay không, chúng ta đều là những người từng được Ngài cứu rỗi. Đã yêu thích “Kiến dữ bất kiến”
như thế, thì lấy bài thơ này làm kết cuộc, giống như khởi đầu của đoạn
tình sâu ấy năm xưa.