Mở cửa ra thì gặp ngay Thái Cần, nàng ấy mở miệng chào Thất Nương, rồi vừa cười vừa nói: “Quần áo Đại nãi nãi bảo nô tỳ làm cho Thất tiểu thư đã xong rồi, đang ở đây, nô tỳ đặc biệt đem đến cho ngài.” Nói xong thì xoay người bảo tiểu nha hoàn phía sau mang quần áo vào trong.
Hôm trước Thất Nương đã nghe Thái Cần đề cập đến việc này rồi, vốn tưởng đó chỉ là lời khách sáo, không ngờ nàng ấy thật sự may quần áo xong, nhất thời nàng thực cảm thật thụ sủng nhược kinh, quả thật còn bất ngờ hơn so với việc được Hứa thị tặng cây trâm vàng ròng hôm trước. Thái Cần là đại nha hoàn bên cạnh Hứa thị, chi phí ăn mặc ngày thường còn có chút sang quý hơn so với tiểu thư nhà bình thường, nhóm thiếu nãi nãi trong phủ cũng phải khách khí với nàng ấy mấy phần, quý nhân như vậy, lại tự tay may quần áo cho mình thật khiến Thất Nương vừa lo lắng vừa kinh ngạc.
“Thất tiểu thư nhanh vào nhà mặc thử quần áo xem có vừa không. Nếu rộng chật chỗ nào, nô tỳ cũng tiện bề sửa lại.”
Thất Nương cười nói: “Thái Cần tỷ tỷ làm thì đương nhiên vừa rồi, có rộng một chút cũng không sao, chờ muội lớn một chút sẽ mặc vừa thôi.” Xong, lại mang vẻ mặt cảm kích nói: “Mấy vị tỷ tỷ vất vả rồi, thật ngại quá.” Nàng đang suy nghĩ có nên lấy bạc vụn ra để cảm ơn các nàng ấy không, thì Thái Cần đã híp mắt cười rộ lên, vẻ mặt chân thành nói: “Thất tiểu thư không cần để ý, có thể may quần áo cho ngài là vinh hạnh của bọn nô tỳ. Đại nãi nãi vẫn khen ngài suốt, còn nói thật tiếc là ngài không phải khuê nữ của bà ấy nữa….”
Thất Nương nghe vậy thì lập tức giật mình, bỗng nhiên hiểu được đôi chút ý đồ của Thái Cần. Nhưng nàng lại không dám tin, mục đích của Hứa thị không phải là tìm một bé trai làm con thừa tự sao? Thái Cần là người cẩn thận, sao lại nói ra lời dễ gây hiểu nhầm như vậy được.
Thấy Thất Nương im lặng không nói gì, Thái Cần lập tức biết là Thất Nương đã nghe ra dụng ý của mình, nên nàng cũng không úp mở che giấu nữa, trực tiếp nói thẳng: “Chắc là Thất tiểu thư cũng đã nghe ra dụng ý trong lời của nô tỳ rồi. Đại nãi nãi vô cùng xem trọng ngài, nên bảo nô tỳ đến đây dò la ý tứ của ngài trước. Nếu ngài không có ý kiến, thì sáng mai hai vị nãi nãi bên nhà sẽ tuyên bố với người trong tộc.”
Thất Nương do dự một lúc lâu, khẽ cắn môi, cuối cùng hỏi: “Đại nãi nãi, thẩm ấy — sao lại chọn muội? Không phải nói là tìm một ca nhi sao?”
Thái Cần cười rộ lên, nói: “Muốn tìm con thừa tự là ý của Lão thái thái trong phủ, thật ra cũng không phải nhất định tìm một người làm đời sau của Đại lão gia, mà là thấy Đại nãi nãi ở một mình sẽ rất cô độc, nên mới có ý tưởng này. Đãi nãi nãi đã quan sát mấy ngày, vẫn chưa thấy ai phù hợp, duy nhất chỉ có tỷ đệ của Thất tiểu thư là hợp ý ngài ấy. Thất tiểu thư không biết đấy thôi, Đại nãi nãi thích nhất những bé gái thanh tú, nên gặp được ngài đã thấy hợp ý vô cùng, nên mới bảo nô tỳ sang đây hỏi ý ngài trước. Nô tỳ nghĩ, trước sau ngài cũng theo Thụy thiếu gia vào kinh, nếu có Đại nãi nãi giúp đỡ, đương nhiên sẽ tốt hơn rất nhiều so với việc chỉ có tỷ đệ các ngài nương tựa vào nhau rồi. Hơn nữa Đại nãi nãi còn nói, ngài cũng đừng lo lắng việc sau này không còn là người của Tứ phòng, vì dù sao vẫn đều là con cháu Lư gia cả, chỉ là có thêm một người thương yêu ngài thôi.”
Thất Nương vẫn còn đang do dự, nhưng Trương mama đang nghe lén sau vách rốt cục không nhịn được nữa, chống gậy bước ra ngoài nói: “Tiểu thư đừng trách lão nô lắm miệng, nếu Đại nãi nãi đã có ý tốt như vậy, thì ngài cũng đừng chối từ. Kẻo lại làm buồn lòng Đại nãi nãi, vậy thì thật không hay. Hơn nữa, sau này thiếu gia vào kinh, tuy nói là có Hầu gia trông chừng, nhưng dù sao ông ấy vẫn là một đại nam nhân, luôn phải bận rộn nhiều việc, sẽ không tránh được việc chăm sóc cậu ấy không chu toàn. Nếu có Đại nãi nãi hỗ trợ, thì cuộc sống của tiểu thiếu gia cũng sẽ tốt hơn.”
Thái Cần nghe vậy, cũng lập tức phụ họa theo: “Trương mama nói rất đúng, Thất tiểu thư đừng do dự nữa. Không phải nô tỳ khoe khoang, chứ Đại nãi nãi là người rất hiền lành, lớn nhỏ trong phủ không ai không khen bà ấy cả, bà ấy đã bảo nô tỳ đến đây, thì nhất định là rất có duyên với Thất tiểu thư rồi. Với lại hạ nhân trong viện đều là người của Đại nãi nãi, tuyệt đối không khó sống chung. Ngài cứ đến thì sẽ hiểu thôi.”
Tuy hiểu rằng các nàng nói rất có lý, nhưng mà, tưởng tượng đến việc mình bị đem làm con thừa tự dưới gối người khác, phải gọi một nữ nhân khác là mẫu thân, Thất Nương vẫn cảm thấy không được tự nhiên và cũng rất khó chấp nhận. Hứa thị cũng vì lo lắng đến điều này nên mới bảo Thái Cần đến báo trước với Thất Nương một tiếng, cũng đỡ việc đến lúc đó lại trở tay không kịp.
“Thất tiểu thư cũng không cần phải quyết định ngay đâu ạ.” Thái Cần thấy thế, cũng không thúc giục nàng, chỉ dịu dàng khuyên nhủ: “Còn không thì chờ Thụy thiếu gia về, ngài cùng cậu ấy thương lượng lại xem sao. Dù sao thì trước mắt Đại nãi nãi vẫn chưa trở về ngay. Khi nào Thất tiểu thư quyết định xong, thì báo với nô tỳ một tiếng là được.”
Nàng ấy đã nói đến vậy rồi, Thất Nương chỉ có thể đáp ứng. Trương mama bảo Thất Nương ở lại, rồi nói là bà muốn tiễn Thái Cần ra về. Thất Nương biết bà có chuyện muốn nói với Thái Cần, cũng không vạch trần mà im lặng gật đầu.
Sau khi Trương mama tiễn Thái cần ra về xong, vừa vào nhà đã nói ngay: “Lão nô hiểu nhất thời trong lòng tiểu thư còn rối rắm, nhưng bây giờ, chúng ta phải suy nghĩ cẩn thận một lần mới được. Nếu ngài làm con thừa tự dưới gối của Hứa phu nhân, không nói đến tương lai sau này của ngài, mà còn với tương lai của tiểu thiếu gia cũng rất có lợi.”
Thấy Thất Nương vẫn cau mày như trước, Trương mama khẽ cắn môi, cuối cùng vẫn mở miệng, thở dài nói: “Đến nước này, lão nô cũng không dám giấu ngài nữa. Theo ngài thì tại sao nhiều năm nay lão thái gia và lão thái thái (Càfé: ông bà ngoại của Thất Nương) chưa từng cho người đến đây thăm hỏi? Không phải vì họ không quan tâm đến tiểu thư và tiểu thiếu gia đâu, mà là bởi vì — bởi vì họ đã sớm qua đời rồi. Bành gia, đã bị tịch biên gia sản từ lâu!” Trương mama kể đến chuyện ngày xưa, hai mắt đã lập tức đỏ lên, nước mắt lại ào ạt tuôn xuống.
Thất Nương kinh ngạc nhìn bà, ngây người một lúc, mới chậm rãi hỏi: “Mama nói rõ hơn đi, rốt cục là chuyện gì xảy ra?”
Trương mama lau nước mắt, hít mũi trả lời: “Ai mà biết chuyện gì xảy ra đâu chứ? Trước kia bỗng dưng lão thái gia nhìn trúng lão gia, rồi vội vã đem phu nhân gả cho ông ấy, cũng đồng thời đem đại đa số tài sản đưa cho phu nhân, rồi cẩn thận dặn dò lão gia, có chuyện gì cũng tuyệt đối không được về kinh. Kết quả, lão gia vừa mới đến huyện Sơn Dương được nửa năm, Bành gia đã xảy ra chuyện. Lão nô tình cờ nghe phu nhân nói qua, nói là Bành gia bị người ta hãm hại, đáng thương lão thái gia và lão thái thái, lớn tuổi như vậy, thế nhưng….thế nhưng phải chết trong lao ngục….”
Đây là lần đầu tiên Thất Nương nghe được chuyện ngày xưa, nhất thời cảm thấy vô cùng khiếp sợ, trong đầu hỗn loạn không biết làm sao.
Trương mama tiếp tục đẫm lệ nói: “Lúc lão gia còn trên đời, mặc dù không hề quay lại kinh thành, nhưng những năm ấy, không lúc nào không nhớ đến việc lật lại bản án cho lão thái gia, chỉ là vẫn chưa làm được mà thôi. Kết quả, vụ án của lão thái gia còn chưa có tin tức, lão gia và phu nhân đã xảy ra chuyện rồi. Mà nay, mọi thứ chỉ có thể trông cậy vào tiểu thiếu gia—”
Thất Nương chưa bao giờ biết rằng, thì ra bờ vai của Thụy ca nhi lại phải gánh lấy trọng trách nặng nề đến vậy. Cậu còn nhỏ như vậy, lại đơn thuần thiện lương, không biết nói dối, không có tâm cơ, nhưng mà, một ngày nào đó, cậu sẽ phải lớn lên, phải thay đổi chính mình, phải đem tất cả những phẩm chất thuần khiết của mình tiêu diệt, trở thành người thâm trầm, tâm cơ, thậm chí biến thành một người khác. Nếu có thể, Thất Nương tình nguyện nhận hết tất cả nhừng điều đó vào người.
Nhưng mà, cuối cùng nàng vẫn chỉ là một nữ nhi, thứ duy nhất nàng có thể làm là đáp ứng thỉnh cầu của Trương mama, trở thành con thừa tự của Hứa thị, sau đó là thành Đại tiểu thư danh chính ngôn thuận của Hầu phủ, mới có thể giúp đỡ cho Lư Thụy được.
Cũng không biết Trương mama nói với Lư Thụy thế nào, mà khi nghe nói Thất Nương được Hứa thị nhìn trúng, Thụy ca nhi còn thực sự vui mừng, vẻ mặt ngây thơ nhìn Thất Nương nói: “Vậy thì tốt rồi, Hứa thẩm thẩm rất hiền, cả Thái Cần tỷ tỷ cũng dịu dàng nữa.”
Thất Nương không nói gì, chỉ mỉm cười nhìn cậu.
Vài ngày sau, tin tức Hứa thị chọn Thất Nương đã truyền đi khắp Lư gia, lập tức, mọi người đều lao vào bàn tán thảo luận, phần đông còn lại thì đố kỵ ghen ghét, thậm chí còn chạy đến chỗ Hồ thị nói huyên thuyên, muốn bôi nhọ Thất Nương, nhưng đều bị Hồ thị đuổi ra ngoài.
Cũng có người âm thầm suy đoán, bảo là không biết tỷ đệ Thất Nương bỏ bùa mê gì cho Hứa thị, suy tới đoán lui, vẫn không tìm ra nguyên cớ được. Mã thị của Tam phòng nghe được tin tức, tức giận đập ném mọi thứ trong phòng, suy nghĩ một lúc lâu, lại dẫn theo Lư Hồng đến chỗ Hồ thị, lời lẽ bóng gió ý bảo mang theo Lư Hồng vào kinh để người khác biết mặt. Hồ thị trước sau vẫn không tiếp lời bà ta. Mã thị đành phải đi về tay không, tức giận không sao tả được.
Nhưng mà, mặc cho đám người Lư gia âm thầm động tay động chân thế nào, Thất Nương và Thụy ca nhi vẫn bình chân như vại, đến tận cuối tháng Lư Chi An nhận được thư từ kinh thành, mới vội vội vàng vàng chuẩn bị về kinh.
Không biết trong kinh xảy ra chuyện gì, mà Lư Chi An cũng không đợi mọi người về cùng, chỉ mang theo vài thị vệ về kinh trước. Hứa thị và Hồ thị dẫn đoàn nữ quyến về sau.
Mà nay thân phận của Thất Nương đã không còn như xưa nữa, tuy rằng chưa được chính thức viết tên vào gia phả, nhưng hạ nhân Hầu phủ đã đối đãi với nàng như Đại tiểu thư chính thức của Hầu phủ rồi, nên ngoài Trương mama danh chính ngôn thuận theo sát bên cạnh, Hứa thị còn đưa thêm nha hoàn Thái Lam bên cạnh cho nàng.
“Lần này ra ngoài, nương chỉ dắt theo vài người, đợi khi về phủ, con lại chọn thêm vài đứa nữa để cùng với Thái Lam hầu hạ con.” Hứa thị vẫn mang nụ cười dịu dàng trên mặt, ánh mắt yêu thương. Vốn dĩ Thất Nương vẫn có chút lo lắng, nhưng nhìn thấy bà như vậy, cảm giác không được tự nhiên trong lòng cũng dần mất đi.
“Tối nay nghỉ lại trong thành Thặng Châu, sáng sớm ngày mai mới lên thuyền trở về. Thất Nương—không, Bích Khả đã đi thuyền bao giờ chưa?” Hứa thị hỏi.
Thất Nương gật đầu, “Lúc bé con và Thụy ca nhi đã từng đi thuyền rồi ạ. Nhưng đều là thuyền nhỏ, không lớn lắm. Lúc bọn con trở về có thấy qua thuyền lớn, hình như có những mấy tầng thì phải.”
“Đúng đó ạ”, Thái Cần là nha đầu thân cận nhất của Hứa thị, nên lá gan cũng tương đối lớn, lại thấy Hứa thị tươi cười, nên mới nói chen vào: “Lần này trở về, chúng ta cũng ngồi thuyền lớn như vậy, chỉ có người trong phủ thôi, không có người ngoài. Nên nếu tiểu thư ngồi trong khoang thuyền mà thấy buồn chán, có thể ra ngoài hít thở không khí, ngắm nhìn phong cảnh xinh đẹp nữa ạ. Hai bên bờ sông liễu xanh như họa, mặt nước xanh ngọc bập bềnh, ngẫu nhiên còn có vài cánh chim vụt qua…”
Thất Nương không nhịn được bắt đầu tưởng tượng.
Sáng sớm hôm sau, vừa đến bến tàu, đã có hạ nhân đến chỗ Hồ thị hỏi ý kiến, bảo là có người muốn đi nhờ thuyền.
“Là đại ca nhi của Thiệu gia sao?” Hồ thị nghe hạ nhân bẩm báo xong, cười hỏi: “Nếu là Đại ca nhi thì được!”
Người nọ cười đáp: “Đúng thật là Đại công tử của Thiệu gia ạ.”
Hồ thị nhìn Hứa thị cười nói: “Tẩu xem, vận may của chúng ta tốt thật đấy, ở đây thế mà lại gặp được Trọng ca nhi – người mà không dễ gì gặp được trong kinh. Chốc nữa lại hoa mắt, sợ là cả Dập ca nhi nhà chúng ta cũng không bằng đâu.”
Hứa thị che miệng cười: “Xem muội kìa, coi chừng dọa sợ người ta đấy. Dù sao thì cũng là thanh niên, da mặt mỏng lắm đấy!”
Hồ thị không cho là đúng nói: “Không ngại không ngại, cũng không phải có mình chúng ta thích nhìn.”
Thất Nương mơ hồ ngồi nghe, không biết hai bà đang nhắc đến ai.
Hứa thị thấy thế, mới giải thích: “Người sắp đến là Đại thiếu gia của phủ Quốc Công, chỉ mới mười mấy tuổi, đã là tài tử nổi tiếng khắp kinh thành. Chỉ là—” bà dừng lại, giọng nói nhỏ hơn một chút, “Đôi mắt của Thiệu gia Đại công tử….không được tốt, không nhìn được, nên cũng không cần phải quá tránh né đâu.”
Người mù sao?
Thất Nương hơi bất ngờ một chút. Vừa rồi nghe cách nói và lời lẽ của Hồ thị, vị công tử kia chắc hẳn không chỉ là tài tử, mà ngoại hình cũng phải đẹp lắm, còn không, Hồ thị sẽ không dễ dàng đồng ý như vậy.
Người mà khiến “ai cũng thích nhìn” lại là người mù, thật đáng tiếc.