Giang Hồ Dạ Vũ Thập Niên Đăng

Chương 23



*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

ôi và dăm ba chuyện sư môn. trung



Hôm sau trời chưa sáng, Thái Chiêu đã dậy.

Như vô số sáng sớm ở bên cạnh cô mình, ngồi xếp bằng vận khí, ngưng thần trùng mạch, lắng nghe hơi thở nhẹ nhàng đều đặn chậm rãi của mình trong yên tĩnh, cảm nhận luồng khí chảy qua kinh mạch, từng lần một đánh vào huyệt đạo quanh người, nghe cảm giác đau đớn quen thuộc không nhanh không chậm đập vào người, đau đớn, ê ẩm sưng trướng, gân cốt phát ra tiếng nhẹ, cô từ từ chịu đựng cảm giác đau giúp mình thấy yên tâm, để cô có thể không sợ hãi đứng trước mặt bất kỳ ai. 

Tâm pháp của sáu phái Bắc Thần có nguồn gốc từ một tông, sau hai trăm năm tách ra, biến hóa phát sinh giữa các truyền thừa rất ít, trải qua nhiều đời người có thiên phú dị bẩm kiểu gì cũng sẽ cảm ngộ được tâm pháp bổn phái của mình. Nhưng về lý thuyết, chỉ cần nhập môn, tu hành ở mỗi người.

Thái Bình Thù từng nói: “Cái gọi là tu vi, sáu phần thiên chất bốn phần tu luyện. Nếu chỉ dựa vào độc môn bí tịch mà khống chế địch giành phần thắng được, thế sao Tông chủ các đời của Thanh Khuyết Tông không thể bồi dưỡng con cái mình thành nhân tài kiệt xuất trong môn để kế thừa vị trí Tông chủ chứ?”

Nghe nói, cũng là bởi vì câu nói vô tâm này mà Thái Bình Thù đắc tội cha con Doãn Đại. Song cuộc đời bà cũng đã đắc tội quá nhiều người, chưa từng để ở trong lòng.

Đương nhiên, trong bối cảnh lớn mạnh thì đệ tử sẽ có được tài nguyên tu luyện tốt hơn, tỉ như thiên tài địa bảo mà dưỡng tủy tịnh mạch, trưởng bối gia trì mà định tâm ổn tính. Nhưng hơn trăm năm qua, vẫn có rất nhiều người vô danh mang tinh thần quật khởi, chấn thước thiên hạ. Tỷ như Thích Vân Kha, là xuất phát từ nhóm đệ tử ngoại môn tầm thường nhất của Thanh Khuyết tông. 

Với mấy tình huống này, hiển nhiên Thái Bình Thù thấy thành mà vui. Từ nhỏ bà đã vui vẻ chia sẻ tâm pháp cao cấp cho mấy anh em bạn bè mới quen, chỉ cần đối phương có nhân phẩm chính trực, làm việc hiệp nghĩa, là bà đều thấy càng nhiều người có thể tu thành chính đạo càng tốt.

Vì thế, bà bị các trưởng bối cảnh cáo không chỉ một hai lần, ngay cả Pháp Không thượng nhân cũng không đứng bên bà, đã khuyên ‘Luyện thành tuyệt thế thần công thì dễ, biết được một người lại khó, thí chủ dùng tấm lòng trời quang đối đãi thiên hạ, nhưng trời vẫn luôn có mưa gió sương mù’.

Thái Chiêu mở mắt, nhận khăn nóng mềm mại Phù Dung đưa tới, lau trán thấm mồ hôi lạnh.

Cô hơi khạc thải khí, cảm giác trên người thanh lọc tự tại, lượng khí đan điền trôi chảy, trừ gân cốt hơi thấy nhức mỏi nhưng mệt mỏi bực bội hai ngày qua đã quét sạch.

Chừng hai canh giờ vận công trùng mạch, lúc này đã gần giữa trưa, Thái Chiêu hỏi Thường Ninh đang làm gì, Phỉ Thúy đáp: “Thường công tử sáng giờ không ra ngoài, ăn sáng xong đã vào phòng, còn bảo bọn tôi đừng quấy rầy ngài ấy.”

Thái Chiêu lấy làm lạ, lúc ăn trưa liền hỏi Thường Ninh, Thường Ninh yên lặng lạ thường, mãi mới đáp: “Ta tự vận công chữa thương, hình như có chỗ bổ ích.”

“Tốt nha.” Thái Chiêu không để trong lòng, quay lại hỏi Phù Dung: “Sáng nay có ai tới quấy rối không?”

Phù Dung cười đáp: “Có bốn tay lấm la lấm lét, sáng sớm cầm một túi nhện đứng dựa vào ốc xá Thường Ninh công tử. Phỉ Thúy nghĩ mấy ổng thích chúng vậy thì mới rảy ít thuốc bột lên người họ, trong vòng ba thước rắn, kiến côn trùng, chuột, đều đuổi tới họ, cuối cùng họ đành co cẳng chạy.”

Thái Chiêu hài lòng: “Phỉ Thúy làm tốt lắm, giữa trưa ăn tôm nõn nhiều chút, bổ chút.”

Phỉ Thúy xanh mặt đi ra. (minh: món tôm nõn phỉ thúy chương trước, =]])

Vừa rồi Thường Ninh như xuất thần, đến khi Phỉ Thúy rời khỏi nhà hắn mới tỉnh lại, giọng ôn hòa nói: “Phù Dung cô nương, giúp ta gửi lời đa tạ Phỉ Thúy cô nương.”

Phù Dung đáp xong rời đi, Thái Chiêu rốt cục chú ý thấy Thường Ninh không ổn lắm, hỏi hắn thế nào, Thường Ninh chỉ nói: “Trưa nay theo ta đi nhà thuốc một chuyến, ta muốn thỉnh giáo Lôi Sư bá chút chuyện.”

Hai người chốt hẹn, ăn cơm xong tản bộ tới nhà thuốc, lúc vào cửa Thái Chiêu ngó thấy trong góc khuất có một đám hàng rào trúc vàng nhỏ nhắn tinh xảo, trong đó có mười mấy con vịt nhỏ lông tơ vàng nhạt cạc cạc chạy tới chạy lui, rất đáng yêu.

Trong đó có mấy con trên đầu còn có mấy cái nơ hình bướm trắng mịn bắt mắt, Thái Chiêu ngừng chân, nhìn đám vịt con bằng ánh mắt tràn ngập yêu thương một hồi lâu.

Bước vào nhà thuốc, cuối cùng Thái Chiêu cũng gặp được Lôi Sư bá trong truyền thuyết.

Lôi Sư bá tên là Lôi Tú Minh, là một trong bảy đệ tử của Tông chủ đời trước Doãn Đại người duy nhất còn ở lại tông môn. Giống Phàn Hưng Gia, ông am hiểu luyện khí chế dược, trong một lần đại chiến nào đó với Ma giáo hơn mười năm trước đã bị trọng thương một mắt một chân, giờ phải chống nạng đi lại. 

“Là Tông chủ liều chết moi ta từ đống người chết.” Lôi Tú Minh ngồi một mình trong nhà thuốc, thân hình thon gầy mảnh khảnh, khuôn mặt đã từng tuấn tú kín cả sẹo, mắt trái che bởi miếng bịt mắt bằng gấm thêu tinh xảo.

“Cậu ấy là đệ tử sư phụ phá lệ chọn lựa, bọn ta vốn không ai nhìn ra. Thái Bình Thù nói rất đúng, cậu ấy còn mạnh hơn tất cả bảy người bọn ta.” ánh mắt Lôi Tú Minh chuyển qua người Thái Chiêu, “Khuôn mắt và trán mi rất giống Thái Bình Thù.”

Ông bỗng trầm thấp, “Giờ thì, đến cả cổ cũng chết rồi… cô mi có kể về ta cho mi nghe không?”

“Có ạ.” Thái Chiêu bình tĩnh, “Cô nói, ngài chú trọng nhất là ăn mặc mũ mão, còn hơi một tí xuân đau thu buồn, có chút chuyện nhỏ cũng giận thật lâu. Cô ‘mượn’ ngài có hai bộ y phục với một cái ngọc quan chụp tóc mà ngài giận mãi lâu không chịu nói chuyện với cô.”

“Hai bộ y phục, hai bộ y phục…” Lôi Tú Minh đưa tay sờ đống sẹo trên mặt mình, “Đó là ‘mượn’ đó hả?! Ta chỉ theo Đại sư huynh đi Bội Quỳnh sơn trang làm ít việc thôi mà, xui xẻo đụng phải cô mi đang định nữ giả nam trang đi lưu lạc giang hồ, chỉ mỗi áo ta là mặc vừa, hỏi cũng không hỏi đã cầm đi!”

“… Không phải cô có để lại một đóa Tuyết Liên tạ lễ sao ạ, bà nói y phục ngài phối nhìn đẹp cực.”

“Sao không dễ nhìn được, mẹ mi vừa thấy Thái Bình Thù mặc áo ta liền nói đi không đặng nữa, không phải cổ thì không gả. Sau đó mẹ mi biết cổ là gái, không nỡ trách cổ, mà lại chạy tới mắng ta một trận, bảo đều tại ta cho mượn áo làm bả hiểu lầm, thật là tai bay vạ gió, rồi bảo ta nói lý lẽ với ai đây.” Lôi Tú Minh nghiến răng nghiến lợi.

Thường Ninh đột nhiên nói: “Thì ra, quá khứ của Lôi tiền bối cũng không hoàn toàn là chuyện đau lòng.”

Lôi Tú Minh ngây ra, trên mặt hiện rõ một niềm phiền muộn: “Đúng, đích xác là không ít chuyện không biết nên khóc hay cười.”

Ông lại quay đầu nhìn Thái Chiêu: “Ta rất nhớ cô mi, lúc cổ ra đi ta nên đi đưa tiễn, nhưng thủy chung vẫn không thể hạ quyết tâm bước ra Vạn thủy thiên sơn nhai, ta hối hận ba năm nay.”

Thái Chiêu cúi đầu: “Sư bá đừng nghĩ già nghĩ non những việc này nữa ạ, người chết như đèn tắt, đưa tiễn hay không đưa tiễn, cô con không so đo đâu.”

Lôi Tú Minh nói: “Hôm trước, trước khi đi mẹ mi cố ý chạy tới gặp ta. Chẳng những đạp tung cửa của ta, còn đem thảm trạng của Vũ Nguyên Anh vẽ hình tô sắc nói hơn ba lần, cuối cùng bảo ta tiếc phúc, đừng có không biết điều, so với Vũ Nguyên Anh, mỗi ngày ta còn thở được, may mắn hơn không biết bao nhiêu.”

Thái Chiêu xấu hổ: “Đó là mẹ an ủi ngài ạ.”

“Đúng đó.” thần sắc Lôi Tú Minh giãn ra, “Bị bả rống một trận, mấy hôm nay ta tốt hơn nhiều. Ngẫm lại bảy sư huynh đệ bọn ta, ngoại trừ Nhị sư huynh Khâu Nhân Kiệt tha hương nơi xa, ta thành một phế nhân, còn lại đều đã chết hết…”

Ông chợt nhướng mày, “Có điều xác của Thất sư đệ vẫn mãi không tìm được, mấy đứa nói coi, cậu ấy có thể giống như Vũ đại ca không…”

“Không đâu ạ.” Thường Ninh ngắn gọn, “La nữ hiệp chờ trong Ma giáo hai năm, lục lọi trong trong ngoài lao ngục một lần, nếu có tin tức của tiền bối Quách Tử Quy, tuyệt đối bà sẽ không thể không nhắc tới một lời. Khi còn sống tiếng tăm Quách tiền bối kém xa Vũ Nguyên Anh đại hiệp, Ma giáo cũng không có lý nào bí mật cầm tù ông ấy nhiều năm thế.”

Lôi Tú Minh gật gù: “Cậu nói có lý.” Lại hỏi, “Nay cậu đến có chuyện gì, vết thương có gì à?”

“Tiền bối xem giúp tôi ạ.” Thường Ninh ngồi vào bên cạnh.

Lôi Tú Minh một tay sờ mạch cổ tay hắn, tay kia móc ngón trỏ và ngón giữa lên, chậm rãi vận chân khí dò xét ba huyệt vị Thiên đột, Khí xá và Thiên trung của hắn, một lát lại thăm dò ba khu Đại chuy, Linh đài và Trung xu.

“Khá hơn trước một chút, ta dò được một ít công lực phục hồi.” Lôi Tú Minh thả tay, “Chậm thì có chậm chút, nhưng cuối cùng đã có khởi sắc.”

“Vãn bối muốn hỏi không phải chuyện này.” Thường Ninh buộc vạt áo lên cổ, “Dù gì chuyện cha dạy tôi tập võ cũng chỉ chưa quá hai năm, luyện từ đầu lên cũng không sao. Vãn bối muốn hỏi, đối với Ngũ độc chưởng tiền bối biết bao nhiêu?”

“Ngũ độc chưởng?” Lôi Tú Minh khẽ giật mình, “ngươi cảm thấy độc trong người mình là Ngũ độc chưởng sao.”

“Trong hỗn loạn vãn bối đúng là đã bị đánh trúng mấy chưởng, nhưng vãn bối không rõ có phải là Ngũ độc chưởng hay không.” Thường Ninh nói, “có lẽ là phải, mà có lẽ không phải; nên mới đến thỉnh giáo tiền bối.”

Lôi Tú Minh suy nghĩ một lát, giải thích: “Ngũ độc chưởng nguyên là một công phu trong tà phái vùng đất sâu trong rừng rậm, không biết làm thế nào lại truyền vào Ma giáo, là lấy năm loại kịch độc phối hợp với tâm pháp luyện thành chưởng lực. Người trúng Ngũ độc chưởng, nhẹ thì da thịt nát rữa, nặng thì máu độc vào tim. Nghe nói Nhiếp Hằng Thành từng luyện môn công phu này, sau đó công lực của gã lớn mạnh, bèn đi luyện công phu khác bá đạo hơn.”

Thái Chiêu nghe hiểu.

Đơn giản mà nói, dưới tình huống bình thường bị đối thủ đánh trúng một chưởng chỉ bị nội thương, chỉ cần không bị chấn vỡ ngũ tạng lục phủ thì sẽ còn cứu được. Nhưng bị Ngũ độc chưởng đánh trúng, chẳng những bị nội thương còn bị trúng độc. Người trước chỉ cần trị nội thương là đủ, còn ngươi sau vừa phải trị nội thương vừa phải giải độc.

“Năm đó ta từng trị mấy người từng trúng Ngũ độc chưởng người bị thương, thường thì họ cũng không phải chết do nội thương, mà là độc phát thân vong.” Lôi Tú Minh nói.

Thái Chiêu: “Không thể giải độc sao ạ? Trong danh môn chính phái cũng không ít tiền bối rành giải độc mà.”

“Muốn giải độc, trước tiên mi phải biết bên trong có độc gì chứ, nhưng nào có ai biết là năm thứ độc gì!” Lôi Tú Minh cười khổ, “Đây chính là chỗ đáng ghét của Ngũ độc chưởng, dưới tay người khác thì dùng độc cũng không hoàn toàn giống nhau, tỷ như một đôi sư huynh đệ đi luyện Ngũ độc chưởng, nếu dùng bốn loại độc đầu giống nhau hết, đến món thứ năm, một tên dùng độc bọ cạp, tên kia đổi thành dùng Thực cốt thảo. Đã không biết độc gì, làm sao bọn ta hốt thuốc đúng bệnh được?”

“Thế Ngũ độc chưởng khó giải lắm ạ?” Thường Ninh hỏi.

“Vậy cũng không hẳn.” Lôi Tú Minh nói, “Mọi việc ắt đều có lợi và hại, dù Ngũ độc chưởng dính độc tức thì, hậu hoạn vô cùng, nhưng lại có ba nhược điểm.”

“Thứ nhất, sợ nhất gặp phải người công lực cao hơn mình lại có phòng bị trước. Nếu gặp phải hạng người này, đối phương chỉ cần ngay tích tắc trúng chưởng dùng nội lực hùng hậu bức độc tính về, người xuất chưởng sẽ bị phản phệ.”

“Thứ hai, sợ nhất bị người ta biết năm loại độc của Ngũ độc chưởng mình. Một khi đã rõ, uy lực của Ngũ độc chưởng lập tức giảm một nửa, cũng chỉ là chưởng pháp bình thường.”

“Nhớ năm đó, Nhị đệ tử Nhiếp Hằng Thành Trần Thự khai đàn lập uy, trong vòng mấy tháng ám toán mấy vị đại hiệp nổi danh võ lâm chính đạo. Gã không phải mong dồn người vào chỗ chết, chỉ đánh lén mỗi người một chưởng, chợt rút đi, để người trúng chưởng dày vò đau đớn, cuối cùng không thể trị mà chết.”

Thái Chiêu nghe đến nhập thần: “Thế rồi làm sao ạ? Các đại hiệp ấy đều chết cả sao?”

“Nếu chết hết, đã không còn Thường thế huynh của mi rồi.” Lôi Tú Minh cười nói, “Trong số những người bị thương có Thường Hạo Sinh, lúc ấy tuổi còn nhỏ, còn chưa cả lấy vợ, không cẩn thận trúng ám toán.”

Thái Chiêu quay sang nhìn Thường Ninh, “Thế làm thế nào họ khỏi hẳn.”

“Là cô mi ra tay.”

Lôi Tú Minh như chìm vào hồi ức, “Sau khi Thường Hạo Sinh trúng độc, cổ gấp không chịu được, trong ba ngày chọn lấy mười phân đà Ma giáo, tới nơi dán thiếp bố cáo, bảo Trần Thự  đừng làm rùa đen rút đầu ra ứng chiến, một đối một, không tìm ai giúp đỡ. Trần Thự một ngày không ra, là một ngày đám tặc tử Ma giáo đừng nghĩ yên bình. Ha ha, cái trận đó, lính tôm tướng cua Ma giáo hễ nghe thấy chữ ‘Thái’ là đau đầu.”

“Cô không sợ Ma giáo trả thù Lạc Anh Cốc sao ạ?” Thái Chiêu nghe mà thấy sợ.

Thường Ninh cười: “Thứ nhất, lúc đó còn chưa có Lạc Anh trấn náo nhiệt của cô, thứ hai, trong Lạc Anh cốc bấy giờ chẳng có mấy người, Ma giáo muốn đi quấy rối thì cứ đi, cùng lắm thì đốt cây đốt nhà, quay về cô của cô xây mới lại thôi. Trái lại Ma giáo là Nhiếp Hằng Thành khổ tâm xây dựng mấy mươi năm, mỗi phân đàn giấu không ít tiền tài.”

Thái Chiêu cười ngượng ngùng vài tiếng.

Lôi Tú Minh tiếp tục nói: “Có điều tên tiểu nhân gian trá Trần Thự sao chịu quang minh chính đại ứng chiến chứ, gã công khai tiếp lấy chiến thư, ngầm chạy tới chỗ bố trí tỷ võ bố trí cạm bẫy. Ai ngờ cô mi chờ đợi chính là thế này, cổ dẫn người đón đầu mai phục bên ngoài, vừa lúc đuổi kịp đám Trần Thự đang lúc bố trí cạm bẫy, thế là cả đám đánh đì đùng một trận.”

“Trong lúc kịch chiến, cô mi cố sức dụ Trần Thự ra Ngũ độc chưởng, trong tích tắc trúng chưởng dùng nội lực tự thân bức độc tính về. Thực ra chiêu này quá mức nguy hiểm, vì cô mi chưa từng đánh nhau với Trần Thự bao giờ, chưa biết mạnh yếu lẫn nhau, may mà công lực cô mi nhỉnh hơn. Sau khi Trần Thự trúng độc, vội vội vàng vàng định giải độc cho mình, không khỏi lơi lỏng đề phòng, cuối cùng để cô mi điều tra rõ năm loại độc nào. Rồi sau đó ta chạy đi giúp Pháp Hải thượng nhân một tay, nhanh chóng tìm giải dược, cứu mạng mọi người.”

Tưởng tượng năm đó Thái Bình Thù hiệp can nghĩa đảm lẫm liệt uy phong, Thái Chiêu thấy tinh thần thanh thản: “… Cô thật không tầm thường.”

“Nói nhảm, không phải vậy thì sao nhiều người chịu nghe cổ chứ hả.” Lôi Tú Minh chỉnh cô, “Sau khi mẹ mi biết cô mi mạo hiểm đến thế, khóc đến suýt lụt Trường Xuân tự.”

Đoạn dừng, ông tiếp, “Năm đó, cô mi còn chưa tròn mười bảy. Nhiều tiền bối chính đạo đều đã bó tay chịu hàng, còn cổ nói là làm. Sau khi sư phụ lão nhân gia biết, liên tiếp mấy ngày đều nhắc ‘hậu sinh đáng sợ’.” Thật ra lúc ấy Doãn Đại còn lầu bầu ‘Sinh con gái phải như Thái Bình Thù’, cặp sinh đôi xinh đẹp họ Doãn đến đây rất hận Thái Bình Thù.

“Sau đó Trần Thự ra sao?” Thường Ninh chợt hỏi.

Lôi Tú Minh đã tỉnh táo lại, giễu nói: “Đã luyện thành Ngũ độc chưởng sẽ không thể đổi độc tính khác, nếu ai ai cũng đã hợp với thuốc giải khắc chế độc chưởng của gã thì môn công phu kia dĩ nhiên lập tức thành gân gà, muốn tranh thủ luyện món khác cũng không kịp. Sau đó, gã chết trong tay Chu Trí Trăn đại ca, là người trong Tứ đại đệ tử của Nhiếp Hằng Thành xuống hoàng tuyền sớm nhất.”

“Sư bá mới bảo Ngũ độc chưởng có ba nhược điểm, vậy còn cái thứ ba?” Thái Chiêu chợt nghĩ đến.

Lôi Tú Minh cười: “Nhược điểm thứ ba là đắt. Người dùng kịch độc luyện công, dù sao cũng phải bảo vệ tính mạng mình trước, khi luyện công cần rất nhiều thuốc quý bảo vệ tâm mạch tránh độc tính ăn mòn. Bởi thế, không có tiền tuyệt đối đừng luyện Ngũ độc chưởng.”

Thường Ninh nhíu mày: “Tiền bối nhắc đến hai người, Nhiếp Hằng Thành luyện Ngũ độc chưởng nửa chừng thì đi luyện công phu khác, Trần Thự thì bị vạch trần nội tình, hai người đều không luyện tiếp. Vãn bối hết sức tò mò, nếu cứ luyện tiếp Ngũ độc chưởng này, đến cuối cùng có thể uy lực đến cỡ nào nhỉ? Có thể nào dù không đánh trúng đối thủ, cũng làm đối phương trúng độc không?”

Thần sắc Lôi Tú Minh nghiêm chỉnh lại: “Chuyện này ta chỉ từng nghe đồn. Nghe nói trăm năm trước ở vùng đất phía Nam có vị cao thủ, luyện Ngũ độc chưởng đến lô hỏa thuần thanh*, khi xuất chưởng chưởng phong cũng mang độc. Khi hai bên tỷ võ, chỉ cần dây dưa thêm lát, đối thủ sẽ vì hút phải khí độc mà chết có điều chưa ai từng thấy tận mắt.”

(*) thuần thục thượng thừa, tương truyền Đạo gia luyện đan, nhìn vào lò, thấy ngọn lửa lê màu xanh, coi là đã thành công, ví với sự thành thục của học vấn, kĩ thuật

Thường Ninh lặng thinh hồi lâu, xá dài: “Đa tạ Lôi tiền bối giải thích nghi hoặc vãn bối. Tiếp đến, vãn bối định tự vận công chữa thương, xem có chuyển biến tốt đẹp không.”

Nói xong hắn bái tạ Lôi Tú Minh rồi mới gọi Thái Chiêu quay về. Lúc ra ngoài nhà thuốc hắn đứng lại đợi, ngửa đầu nhìn trời mà kinh ngạc đến ngẩn ra, không biết đang nghĩ gì.

Lôi Tú Minh nhìn bóng lưng hắn, thấp giọng nói: “Sao mi không hỏi nó làm nào vận công chữa thương?”

Thái Chiêu cười cười: “Cô con nói, nếu mình tin tưởng một người, vậy thì tất nhiên người ấy sẽ không cần nói lý với con, còn như đã không tin, hắn nói gì cũng chỉ là hoang ngôn bịa đặt thì hỏi có ích gì. Bác Lôi, sao người không hỏi đi?”

Giọng Lôi Tú Minh do dự: “Năm đó Thường Hạo Sinh từng trúng Ngũ độc chưởng, ta đang nghĩ, có lẽ nào cậu ấy để lại tâm pháp nào đó, có thể khắc chế Ngũ độc chưởng không?”

“Nghe rất có lý, nhưng đó là tâm pháp độc môn của Thường gia, người ngoài không tiện hỏi ạ.” Thái Chiêu như cười như không.

Lôi Tú Minh sừng sộ: “Được rồi, mi giỏi che chở thằng nhãi đó lắm. Mong Thường Hạo Sinh trên trời có linh, để con cậu ấy mau khỏi hẳn, tiết kiệm cho ta mỗi ngày khỏi phải nấu canh thanh hỏa khử độc cho nó.”

“Con nói nè, thuốc bổ không bằng ăn bổ, bác Lôi việc gì phải nấu canh giải nhiệt khử độc chứ, chi bằng nấu mấy chung cháo vịt giải nhiệt. Mới nãy con vào, nhìn thấy đám vịt nhỏ trong xó kia rất vui, hay là đem nấu cháo đi.”

Lôi Tú Minh:???!!!

“… Cút ra ngoài cho ta!”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.