Hai người về lại khoảng sân viện vừa nãy thợ săn ném gà rừng vào. Ông lão đang ở trong bếp đun nước, Thạch Hãn Hải đi vào phòng ngủ ngồi bên cạnh bàn một lúc, lại không chịu ngồi yên mà khơi cho ánh đèn trong tầm tay sáng thêm.
Nhưng chưa đợi ông ta mở hồ sơ, lão “pháo đốt” trong viện lập tức bật tanh tách thúc giục đại nhân đi ngủ sớm, đến gà cũng kêu loạn theo. Thạch Hãn Hải chỉ đành tắt đèn đi rồi dựa vào đầu giường, nhưng vẫn không ngủ nổi. Ông ta căng tai nghe động tĩnh bên ngoài, chờ cho cửa phòng cách vách “kẽo kẹt” đóng lại, gà trở về ổ, mới lại rón rén đi xuống bếp tìm trong lồng hấp một chiếc màn thầu lạnh, kẹp cùng dưa muối ăn cho đỡ đói.
Liễu Huyền An lên tiếng: “Thân thể đại nhân đang mệt mỏi, nên ăn chút đồ mềm ấm dễ tiêu hóa, nếu không dạ dày sẽ lại đau.”
Thạch Hãn Hải đang tâm sự đầy mình, lúc này nghe thấy tiếng người nói chuyện phía sau vẫn chưa ý thức được là sai chỗ nào, còn thở dài trả lời: “Bá tánh trong thành liên tục bị bệnh, ta làm gì có ——” Nói đến đây ông ta mới lấy lại phản ứng, xoay người lại. Ngoài cửa xuất hiện một vị công tử trẻ tuổi dung mạo cực kỳ tuấn tú, áo trắng dài nhiễm ánh trăng tựa như tiên nhân bước ra từ trong bức họa.
Nhưng giống tiên thì giống, Thạch Hãn Hải chưa hồ đồ đến mức tin thật sự có thần tiên hạ phàm trừ ôn. Ông ta lùi ra sau nửa bước, thấp giọng quát hỏi: “Ngươi là người phương nào?”
“Tại hạ họ Liễu, từ Bạch Hạc Sơn Trang ——” Liễu Huyền An không thể nói cho xong câu, bởi vì Thạch Hãn Hải nghe được bốn chữ “Bạch Hạc Sơn Trang” mắt đã trừng to thành hai viên bi, mặt cũng đỏ lên vì kích động, là ví dụ sống động nhất cho cái gì gọi là “Mừng rỡ như điên”. Ông ta ném màn thầu vào chén dưa muối, vội vàng nắm tay Liễu Huyền An, giọng run lên: “Bạch Hạc Sơn Trang, thần y, thần y đến rồi, cuối cùng cũng mời được! Tốt, tốt quá, bá tánh khắp thành rốt cuộc được cứu rồi.”
Tay Liễu Huyền An bị ông ta bóp đến muốn sái khớp, giật hai ba lần vẫn không thể rút tay về, mà Thạch Hãn Hải vẫn tiếp tục thao thao bất tuyệt: “Vì sao chỉ có mình thần y ở đây. A Khánh đâu, hắn đi đâu rồi?” Vừa nói vừa nhìn ra sau lưng y, thấy bên ngoài còn một bóng đen nữa, vội dạy bảo, “Ngươi đứng ngốc ở đó làm gì? Mời thần y về cũng không nói trước với ta một tiếng, mau đi thu dọn phòng cho khách đi!”
Liễu Huyền An giải thích: “Hắn không phải A Khánh, chúng ta cũng không phải do vị tên A Khánh mời đến, chỉ là vừa khéo đi ngang qua thành Xích Hà mà thôi.”
“À, hóa ra là bạn của thần y, thất lễ thất lễ.” Thạch Hãn Hải tiến lên hai bước, định đón luôn đối phương vào cửa.
Lương Thú lạnh nhạt nói: “Thạch đại nhân nên thu tay lại trước đã.”
Hắn đi ra khỏi chỗ khuất bóng, hắc y trường kiếm, toàn thân mang sát khí hung ác lạnh lùng, so với khí độ thần tiên dưới trăng của Liễu Huyền An có thể gọi là một trời một vực. Tay Thạch Hãn Hải cũng cứng lại, sửng sốt nửa ngày, trong đầu mới nổ “đùng” một tiếng. Ý thức được mình đang đối diện với nhân vật tầm cỡ thế nào, ông ta cuống quít quỳ xuống đất hành lễ, “Hạ quan thái thú thành Xích Hà Thạch Hãn Hải, tham kiến Kiêu Vương điện hạ.”
Lương Thú bất ngờ: “Ngươi từng gặp bổn vương?”
“Đúng vậy.” Thạch Hãn Hải cung kính đáp, “Hai năm trước hạ quan từng đi qua thành Thải Tước, đúng lúc Vương gia cũng ở đó.”
“Đứng lên đi.” Lương Thú chỉ vào một cái ghế, “Ngồi xuống nói chuyện.”
Thạch Hãn Hải hoảng hốt: “Hạ quan nào dám.”
“Bổn vương cho ngươi ngồi thì cứ ngồi.” Lương Thú sẵng giọng, “Nói nghe xem, chuyện trong thành Xích Hà rốt cuộc là thế nào?”
“Ôn dịch, nhưng tìm không ra nguyên nhân, đã xảy ra được một thời gian dài.” Nói đến đây, Thạch Hãn Hải không để ý đến nghi thức xã giao nữa, chỉ thấy xấu hổ, “Mấy tháng trước, một người phụ nữ bán dưa đột ngột bệnh chết trong thành, lúc ấy có đại phu nói cái chết của bà ta rất kỳ quặc, là một loại bệnh hắn chưa từng gặp qua, nhưng ta lại không quá để trong lòng.”
Ngay sau đó, chồng người phụ nữ kia, con trai, cháu chắt liên tục bị bệnh, hàng xóm cũng xuất hiện bệnh trạng tương tự, lúc này quan phủ mới xem là chuyện nghiêm trọng. Dựa theo cách thức trị liệu ôn dịch trước đây, bọn họ tập trung toàn bộ người bệnh chuyển đến núi Đại Khảm ngoài thành, dựng phòng ốc tạm, lại phái đại phu đi thăm khám chữa trị.
Ban đầu đúng là ôn dịch đã được khống chế, hơn nữa cũng có vài người bình phục lẻ tẻ. Nhưng rồi rất nhanh sau đó dịch bệnh lại bùng lên một đợt mới, triệu chứng lúc này càng hung hiểm hơn, thậm chí đến đại phu cũng ngã bệnh. Đúng vào thời khắc khó khăn, may mắn có vị đại phu họ Đỗ mà Thạch Hãn Hải kết bạn ngày trước đi ngang ghé vào thành, lúc này tình thế mới chuyển biến tốt đẹp.
“Đại phu họ Đỗ?”
“Tên hắn là Đỗ Kinh.” Thạch Hãn Hải nói, “Cùng quê quán ở Tây Bắc, lại tha hương từ nhỏ lớn lên ở vùng Tây Nam giống ta cho nên quan hệ thân thiết hơn người thường, có một đoạn thời gian thường xuyên cùng nhau uống rượu. Nhà hắn… cũng mở y quán ở Miêu Cương.”
Nói đến đây Thạch Hãn Hải hơi do dự, bởi vì y giả Trung nguyên trước nay luôn không thích Miêu y, thường xuyên mắng chửi bọn họ chỉ giỏi sử dụng tà thuật bùa ngải, không có gì đáng nhắc tới, vài quan địa phương thậm chí trông thấy còn đuổi đi. Liễu Huyền An nhìn ra tâm sự của ông ta, chủ động mở miệng trấn an: “Bất luận phương pháp hành nghề có gì khác nhau, một khi đứng trên phương diện ‘trị bệnh cứu người’ thì đều ngang hàng. Thạch đại nhân chớ băn khoăn, xin cứ tiếp tục nói.”
“Đúng vậy, đúng là Đỗ đại phu đã giúp ta một ơn huệ lớn.” Thạch Hãn Hải nói, “Lần này hắn lên miền bắc là để học tập y thuật Trung nguyên, cho nên vừa vặn dẫn theo rất nhiều đệ tử. Nghe đến nơi này bùng phát ôn dịch đã lập tức triệu tập mọi người lại mới lấp hết được chỗ trống trong thành.”
Liễu Huyền An nhớ lại mấy vị đại phu trong phường chế dược ban nãy, có vài người ăn mặc không giống người Trung nguyên.
Đúng lúc mở y quán, đúng lúc dẫn theo rất nhiều đệ tử, lại đúng lúc bắt gặp ôn dịch.
Lương Thú âm thầm lắc đầu, tiếp tục hỏi: “Sau khi hắn tới đây, ôn dịch lập tức bị khống chế?”
“Tốt lên rất nhiều.” Thạch Hãn Hải tường thuật, “Bệnh nhân không còn vừa phát bệnh đã qua đời, có thể dùng thuốc giữ mạng. Tuy không hoàn toàn khỏe hẳn, nhưng ít ra không nguy hiểm tính mạng nữa, tốc độ lây bệnh cũng thấp dần.”
“Nghe ra thì thấy y thuật cũng không quá cao minh.” Lương Thú rút hỏa chiết thắp sáng ngọn đèn trên bàn, “Vì sao không cầu viện bên ngoài?”
“Cầu chứ, sao lại không cầu viện.” Thạch Hãn Hải thở dài thật sâu, “Ta biết đại phu thành Xích Hà không trị được ôn dịch, cho nên ngay từ ban đầu đã phái A Khánh đi cầu viện Bạch Hạc Sơn Trang, sau đó viết thư cầu viện triều đình, nhưng ——” Trước mặt Liễu Huyền An và Lương Thú, ông ta không tiện nói thẳng, nhưng tình hình thành Xích Hà đã bày ra rõ ràng, Bạch Hạc Sơn Trang không phái đệ tử đến, triều đình cũng không hồi âm cứu viện.
Liễu Huyền An nhíu mày, câu chuyện quá khác so với “tình hình thực tế” y nghe thấy dọc đường, hơn nữa người ở Bạch Hạc Sơn Trang không có khả năng làm ngơ trước ôn dịch. Nếu không phái đệ tử tới, như vậy chỉ có một loại khả năng, đó là căn bản bọn họ không nhận được thư xin giúp đỡ.
Lương Thú chưa có động thái gì, tiếp tục hỏi: “Tấu chương đưa cho Hoàng huynh, ngươi nói gì trong đó?”
“Tường thuật trận ôn dịch này từ đầu đến cuối, tình hình hiện tại trong thành, tương lai sẽ thiếu bao nhiêu lương thực cùng với những loại dược liệu nào đang có nhu cầu cấp bách.” Thạch Hãn Hải trả lời, “Cũng bẩm báo cả chuyện phong tỏa thành.”
Cái gì nên nói đều nói, hơn nữa còn tỏ rõ tính nghiêm trọng của sự việc, thế nhưng cuối cùng triều đình chỉ nhận được một phong tấu chương báo bình an tâng bốc có ấn dấu đỏ của quan thái thú thành Xích Hà.
“Tấu chương ngươi gửi đi tổng cộng bao nhiêu bức?”
“Mười tám.” Giọng Thạch Hãn Hải thấp dần, “Hạ quan biết quốc khố đang trống rỗng, bốn phương loạn lạc, quân đóng các nơi đều mong mỏi bạc lương, thật sự không nên tạo thêm ưu phiền cho Hoàng thượng. Nhưng cho dù không xin được dược liệu hay lương thực, chí ít cũng nên phái vài đại phu xuống chứ. Gần đay triều đình có phân phát gạo nhưng toàn là gạo cũ, còn bị ẩm, vận chuyển đến nơi phần lớn đều đã hư mốc hết, đồng ruộng bản địa lại bị mưa to hư hại rất nhiều, bá tánh gặp ôn dịch, đi không được mà kiếm ăn cũng không xong. Hạ quan vô năng, ngoại trừ không ngừng xin triều đình cứu viện, thật sự không nghĩ ra được cách gì khác.”
Nói đến đây giọng đã nghẹn ngào như sắp khóc, ông ta nâng tay quẹt lung tung lên mặt, lại quỳ rạp xuống: “Xin Vương gia giúp đỡ hạ quan, cứu vớt bá tánh trong thành.”
Thạch Hãn Hải nghẹn lời, ông ta không thể mở miệng trắng trợn xin gạo xin bạc, huống hồ theo như lời đồn, vị Kiêu Vương điện hạ này trong triều suốt ngày chỉ giỏi chống đối triều thần. Nhưng đại phu, ít ra đại phu vẫn có! Ông ta dường như đã tìm được cọng rơm cứu mạng, vội vàng thỉnh cầu: “Mong Vương gia để thần y lưu lại trong thành ba ngày, chỉ ba ngày là được.”
Lương Thú nhìn về phía Liễu Huyền An.
Y gật đầu: “Có thể thử một lần.”
Thạch Hãn Hải chưa kịp vui mừng, Lương Thú lại nhắc nhở: “Trong thành này nhiều hang hùm ổ sói, tốt nhất ngươi nên suy nghĩ kỹ. Nếu ở lại một mình, lỡ ngày nào đó bị kẻ xấu bụng dạ khó lường nuốt sống, bổn vương không cứu kịp đâu.”
Người quanh năm lăn lộn trong quan trường làm sao lại không nghe ra ám chỉ, Thạch Hãn Hải nao nao trong dạ, cẩn thận hỏi thử: “Ý của Vương gia là…?”
“Ý bổn vương là, có người đã cố ý đổi lương thực, giấu tấu chương của ngươi, lại rải tin đồn lung tung, lệnh cho khách thương lui tới thành phải đi đường vòng xa hơn, âm thầm cắt đứt toàn bộ liên hệ của thành Xích Hà với bên ngoài. Vậy mà ngươi không biết chút gì, còn ở đây khóc lóc cầu xin đại phu.” Lương Thú kéo ông ta lên khỏi mặt đất, “Đứng thẳng lên!”
Thạch Hãn Hải nghẹn họng nhìn trân trối như đang nghe sách trời, lấy một tay chống lên bệ bếp mới miễn cưỡng không lảo đảo thêm lần nữa.
Lương Thú hỏi: “Quan ấn thành Xích Hà đặt ở đâu?”
Tai Thạch Hãn Hải đã ù đi, mãi không lấy lại được tinh thần. Sau một lúc lâu mới trả lời: “Phủ nha, thư phòng phủ nha.”
“Ngoại trừ ngươi, còn ai có thể cầm quan ấn?”
“Sư gia và Đỗ Kinh.” Sắc mặt Thạch Hãn Hải trắng bệch, “Lần trước ta bị bệnh một hồi, nằm mãi trên giường không dậy nổi, có rất nhiều chuyện phải để sư gia đi làm thay. Còn Đỗ Kinh vì phải khống chế ôn dịch nên thường xuyên đi cùng hắn.”
“Chỉ có hai người này?”
“Chỉ hai người.” Thạch Hãn Hải được nhắc nhở, cuối cùng đã nhìn ra chỗ không hợp lý, “Hơn nữa tấu chương gửi triều đình, thư từ đưa đến Bạch Hạc Sơn Trang cũng đều giao cho sư gia. Hắn là người theo ta nhiều năm, xưa nay trung hậu nhân nghĩa, thế mà dám cả gan làm loạn như vậy?”
“Trước khi điều tra rõ sự tình, chớ rút dây động rừng.” Lương Thú phân phó, “Việc cấp bách là phải khống chế ôn dịch trong thành, chuyện thiếu lương thực và dược liệu, bổn vương sẽ nghĩ cách.”
“Phải, phải.” Thạch Hãn Hải liên tục gật đầu, có lẽ vì thân thể đang mệt mỏi, hoặc cũng có thể vì sợ hãi phẫn nộ những ẩn tình khuất tất đằng sau, nhất thời dạ dày lại nhói lên cơn đau. Liễu Huyền An rót cho ông ta chén nước ấm, Thạch Hãn Hải chậm rãi uống mấy ngụm, cố gắng nói: “Bệnh cũ, không quan trọng, trong phòng ta có thuốc.”
“Đêm nay đại nhân nên uống thuốc nghỉ ngơi sớm đi.” Liễu Huyền An nói, “Trên đường chúng ta đến đây vừa lúc đụng phải một người ném gà rừng vào hậu viện. Tâm ý của bá tánh, đại nhân nhất định phải hầm canh ăn lấy sức mới có thể tiếp tục làm việc.”
“Tám phần lại là Lý Hổ, hắn là thợ săn trong thành.” Thạch Hãn Hải nói, “Được, sáng mai ta nói tứ thẩm đi hầm canh.”
Ông ta còn muốn nói thêm, nhưng thân thể thật sự không khỏe, toàn thân túa mồ hôi lạnh, không còn sức chống đỡ thêm nữa.
……
Lương Thú đưa Liễu Huyền An ra khỏi thành.
Huyền Giao vẫn đứng trên sườn núi chậm rãi gặm cỏ. Lúc này trời đã sắp sáng, đường chân trời ở phương đông xuất hiện một dải trắng mờ mờ, hơi ẩm trong không khí cũng càng thêm rõ ràng. Liễu Huyền An mặc áo mỏng, lại không mang theo áo choàng, bị khí lạnh bao phủ không khỏi hắt xì mấy cái.
Lương Thú xách người lên lưng ngựa, thân thể hai người lại dán vào nhau, Liễu Huyền An lập tức thấy ấm áp lên nhiều, vì thế lại bất giác dựa vào sát hơn. Lúc này Kiêu Vương điện hạ không ý kiến gì nữa, trước mắt thành Xích Hà không có đại phu nào đứng đắn, chăm sóc tốt cho vị tiên ngủ ở Bạch Hạc Sơn Trang này là chuyện nên làm.
Huyền Giao rảo bước nhẹ nhàng trở về theo đường núi.
Liễu Huyền An vẫn luôn không nói gì, chỉ buông lỏng hai tay như cũ, suy nghĩ không biết đã bay tới phương nào. Mãi đến khi người đằng sau mở miệng, y mới lấy lại tinh thần: “Hả?”
Lương Thú lặp lại: “Ngươi có nắm chắc khống chế được trận ôn dịch này không?”
“Lên núi xem bệnh xong mới biết được.” Liễu Huyền An trả lời, “Có điều căn cứ theo miêu tả của Thạch đại nhân, lý ra không khó khăn lắm mới phải.”
“Ngươi cảm thấy lời hắn nói hoàn toàn là thật?”
“Thể lực Thạch đại nhân tương đối khỏe, nhưng lúc này đã suy kiệt mệt mỏi lắm rồi, cũng không ăn được bao nhiêu thứ tốt vào bụng.” Liễu Huyền An nói, “Tuy ta không biết gì về hắn, nhưng làm quan phụ mẫu mà cật lực làm việc đến dầu hết đèn tắt, tính mạng lung lay thì còn tham cái gì? Cho nên ít nhất ta tin hắn là người tốt, cũng tin hắn không nói dối.”
“Có hiểu biết gì về Miêu y không?”
“Có, đọc được trong sách rất nhiều.”
Sách vở trong Bạch Hạc Sơn Trang hỗn tạp nhiều loại, chính thống và không chính thống, thượng cửu lưu cùng hạ cửu lưu thứ gì cũng có. Du y, vu y, Mông y, Tạng y, thậm chí là thầy đồng chế tạo rối từ thây khô, moi tim nhiếp hồn, lấy hết ra cũng đủ nhét đầy mười kệ sách cao đến trần nhà.
Liễu Huyền An nói: “Bạch Hạc Sơn Trang không khinh thường bất kỳ trường phái y học nào, Miêu Cương cũng có rất nhiều dược liệu tốt, nếu Đỗ Kinh kia thật sự có vấn đề cũng không phải vấn đề của Miêu y, mà là vấn đề từ bản thân gã.”
“Nếu trận ôn dịch này không phải thiên tai mà là âm mưu do người khác cố ý sắp xếp, ngươi có điều tra được không?”
“Ta sẽ cố hết sức thử xem sao, nắm chắc khoảng chín phần.”
“Chỉ xem qua sách vở cũng đủ nắm chắc chín phần?”
“Ừ, xem tận hai lần.”
Các loại sách khác không có đãi ngộ tốt như vậy, chủ yếu bởi vì vu thuật Miêu Cương có nhiều điều lạ lùng kinh hãi, được Liễu nhị công tử xem thành sách giải trí giết thời gian cho nên lật ra nhiều thêm một lần, ấn tượng cũng khắc sâu hơn.
Lương Thú nghe y cường điệu “hai lần” cũng không nói gì, chỉ hỏi: “Cho nên toàn bộ số sách còn lại, ngươi chỉ xem có một lần?”
Liễu Huyền An đáp: “Đúng là thế.”
“Có khả năng đọc qua một lần không quên, vì sao không nghe Liễu trang chủ nhắc đến chuyện này?”
“Bởi vì ta chưa từng nói với cha ta.”
Liễu Huyền An rụt tay vào ống tay áo, buồn rầu thở dài: “Không có thời gian giải thích, hồi nhỏ ta bận lắm.”
Ngàn vạn quyển sách như cuồng phong khuấy động mặt biển, khơi nên sóng lớn đánh cho đầu óc Liễu nhị công tử choáng váng, cho nên mỗi ngày y phải dùng đến bảy tám canh giờ sắp xếp tầng tầng lớp lớp thế giới vào từng chỗ riêng biệt, không thể để các thế giới đánh qua đánh về.
Đôi khi y cũng ham chơi, nhưng không phải chọi dế hay đánh nhau mà là học bắt chước theo người trong sách. Ví dụ như đoan chính ngồi trên bờ tường nhìn về phương xa, nhìn một cái hết nguyên một buổi chiều. Liễu Phất Thư cảm thấy đầu óc con mình có vấn đề, nhưng kỳ thật Liễu công tử chỉ đang bắt chước theo vua Thuấn cung kính nhìn phương nam hỏi nên làm thế nào? Vô vi nhi trị*. Màn đêm buông xuống, Liễu Huyền An mới vỗ mông nhảy xuống tuần tra một vòng quanh Bạch Hạc Sơn Trang, thấy hết thảy đều gọn gàng ngăn nắp, cực kỳ vừa lòng với “Vô vi” của bản thân.
*Vô vi nhi trị: một tư tưởng của Đạo gia, ý nghĩa đại khái là lãnh đạo mọi việc thuận theo tự nhiên, ai cũng nên làm việc của mình, làm hết phận sự, đó mới là trạng thái cao nhất của lãnh đạo.
Liễu Huyền An tiếp tục: “Hơn nữa dường như có vài người không nghe hiểu lời ta nói, mà bọn họ cũng không muốn nghe.”
Thời niên thiếu Liễu nhị công tử còn mơ mơ màng màng hơn hiện tại, thường xuyên mặc áo choàng to rộng đi chân trần đứng trong rừng trúc, ngẩng đầu lên nhìn các bằng hữu ở thế giới khác, nghe bọn họ đàm luận về Thiên đạo. Để con trai mình chịu rời khỏi rừng trúc, Liễu phu nhân thường mua cho y rất nhiều món đồ chơi hoa hòe sặc sỡ, lũ trẻ nhà khác hâm mộ đến phát khóc, nhưng Liễu nhị công tử nhận mà không vui vẻ gì, trước giờ đi ngủ còn nghiêm túc dặn mẫu thân: “Con không phải là trẻ con.”
Liễu phu nhân vớt đôi chân trắng nõn của y ra khỏi bồn rửa, lấy khăn vải lau khô cẩn thận: “Thế năm nay con bao nhiêu tuổi rồi?”
“Chắc là khoảng bốn vạn tám ngàn tuổi.” Tiểu Liễu công tử bẻ ngón tay trả lời, “Sinh ra cùng nhật nguyệt, trường tồn cùng thiên địa.”
Liễu phu nhân nghe con trai ăn nói linh tinh, sầu đến mất ngủ vài đêm, tóc bạc nhiều thêm mấy sợi.
Lương Thú không nhịn được bật cười, đại khái đã đoán ra tấm lá chắn vô hình trên người đối phương là từ đâu mà có. Ngàn vạn quyển sách xếp thành một tòa tháp màu trắng cao ngất lạnh lẽo kéo y đến chốn xa xít tắp người ngoài không tài nào bước tới được, mà thế giới trên ngàn tầng mây kia hẳn là không hề giống với hồng trần náo loạn dưới này.
“Chỉ có một mình ngươi thôi sao?” Hắn đột nhiên hỏi.
Liễu Huyền An không hiểu lắm: “Hả?”
“Trong thế giới kia, chỉ có mình ngươi thôi sao?” Lương Thú lặp lại lần nữa.
Liễu Huyền An quay đầu nhìn hắn, dường như cực kỳ kinh ngạc.
Lương Thú phất roi giục ngựa.
Gió xung quanh ngày một lạnh, Liễu Huyền An bị thổi đến mặt mũi cứng đờ, vì thế càng rúc sâu vào trong ngực đối phương hơn. Trước nay y chưa từng nghĩ sẽ có người phát hiện ra bí mật của mình nhanh như vậy, qua nửa ngày mới xoay người, tóc tai hỗn độn: “Còn có rất nhiều tiên hiền thượng cổ.” Y bày ra phong thái nhiệt tình của chủ nhân một thế giới, “Lần tới ta sẽ giới thiệu Kiêu Vương điện hạ làm quen với bọn họ.”
Giữa mày Lương Thú hơi giật giật, cảm thấy bốn chữ “tiên hiền thượng cổ” này nghe qua không giống người còn sống cho lắm.
“Không cần đâu.”
“À.”
Ở nơi xa, vầng mặt trời đang từ từ dâng lên.
Biển mây quay cuồng, ráng hồng phủ khắp núi xanh.
Người ta hay nói, một đứa không hiểu gì hết mà vẫn tình nguyện hùa theo cho bạn làm khùng làm điên thì chính là chân ái rồi đó XD