Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 3 - Chương 18: Tỉnh dậy ta cười với thân ta



Năm Càn Nguyên thứ mười sáu đã tới trong những cuộc phong ba lúc nghỉ lúc dừng như thế. Hoàng hậu chủ trì lục cung, thù cũ đã qua, người mới thì không đáng để lo lắng, tôi vẫn tiếp tục sống yên ổn trong hậu cung, làm một phi tử đắc sủng của Huyền Lăng. Mỗi khi rảnh rỗi, tôi thường triệu Ôn Thực Sơ tới, nhờ hắn giúp điều dưỡng thân thể, mong sớm có thai. Cái chết của Mộ Dung Thế Lan khiếnôi hiểu rằng tình yêu trong chốn cung đình này quá ư bạc bẽo, chẳng đáng tin bằng cốt nhục của bản thân.

Thế rồi Ôn Thực Sơ liên tục ra vào Tồn Cúc đường, một mặt điều dưỡng thân thể cho tôi, một mặt chữa trị vết thương cho My Trang.

Không biết vì sao, vết thương vốn phải lành lại rất nhanh của My Trang mãi mà chẳng khỏi, gần như cứ cách vài ngày lại tái phát một lần. Ôn Thực Sơ hết sức đau đầu nhưng lại chẳng thể tìm ra nguyên nhân, chỉ đành cố gắng cẩn thận chữa trị.

My Trang không trách hắn, chỉ nói: “Chắc tại thân thể ta nhạy cảm quá mà thôi, thực làm phiền Ôn đại nhân phải chạy đi chạy lại!”

My Trang chẳng hề để tâm tới việc tôi thường xuyên được Huyền Lăng triệu tới sủng hạnh, tôi vì ở chung với tỷ ấy nên ban đầu còn có chút thấp thỏm, bất an, nhưng dần dần không còn suy nghĩ nhiều nữa.

Mùa đông năm nay rất lạnh, tuyết rơi không ngừng, tôi thường xuyên cùng Huyền Lăng nắm tay ngắm cảnh tuyết, mỗi lần kéo dài cả nửa ngày. Khi đó, tâm trạng y hết sức bình yên, tuy không nói gì nhưng bên khóe miệng luôn thấp thoáng nụ cười.

Có lần, tôi ngồi kiệu đi giữa trời tuyết đến Đông thất ở Nghi Nguyên điện. Huyền Lăng đang cầm bút chuẩn bị vẽ tranh, nhìn thấy tôi thì bèn đặt cây bút vào tay tôi, nói: “Cảnh tuyết nàng nhìn thấy trên đường tới đây chắc hẳn rất đẹp, vẽ cho trẫm xem được không?”

Vẽ tranh vốn không phải là sở trường của tôi nhưng Huyền Lăng đã nhất quyết như vậy, tôi cũng không tiện thoái thác. Lòng thầm máy động, tôi liền mở tờ giấy Tuyên Thành trắng tinh ra, không hề động bút, cười tủm tỉm nói với y: “Thần thiếp đã vẽ xong rồi, Tứ lang thấy sao?”

Y cười rộ. “Nàng đúng là vừa nghịch ngợm vừa lười nhác, một nét chưa vẽ mà lại nói đã vẽ xong rồi, há chẳng phải là đùa bỡn trẫm sao?” Tôi mỉm cười tựa đầu vào vai y, đáp: “Bây giờ tuyết lớn mênh mang, mà tuyết vốn màu trắng, thần thiếp chẳng cần động bút, cảnh tuyết cũng đã hiển hiện trên giấy rồi.”

Y vỗ tay, cười vang.

Rồi tôi tới Ỷ Mai viên hái hoa mai về, có mai đỏ, mai trắng, mai xanh, muôn màu muôn vẻ, sau đó lại ngắt từng bông hoa mai bỏ vào chiếc bình lưu ly tròn trong suốt ở Đông thất, trong bình có đựng nước tuyết tan chảy, nhìn trong veo không có một hạt bụi nào, mùi hương thanh tân của hoa mai kết hợp với sự trong trẻo của nước mang tới một cảm giác vô cùng dễ chịu. Tôi lại khom người vớt những cánh hoa lên ngắm nhìn, lấy nó làm vui, Huyền Lăng thì đứng một bên lặng lẽ nhìn tôi.

Ai cũng nói rằng tôi được sủng ái nhất trong hậu cung, nhưng sự sủng ái đó chẳng qua chỉ là những giây phút bình yên và vui vẻ ở bên nhau thế này.

Từ sau hôm tận mắt nhìn thấy cái chết của Hoa Phi, không rõ tại sao tôi cứ luôn cảm thấy bất an. Có lúc rõ ràng là đang tươi cười trò chuyện với Huyền Lăng, trái tim tôi bỗng nẩy lên, khuôn mặt diễm lệ dính đầy máu tươi của Hoa Phi hiển hiện ngay trước mắt, rùng rợn vô cùng. Sau cơn kinh hãi, tôi bất giác cảm thấy nghi hoặc, liệu sau này kết cục của tôi có giống ả ta không? Suy nghĩ ấy giống như đã mọc rễ trong trái tim tôi, cứ thỉnh thoảng lại hiện lên, làm tâm tư tôi rối bời, phá tan cuộc sống vốn hết sức bình lặng của tôi.

Hoán Bích sau khi biết chuyện liền cười, nói: “Nương nương thực cả nghĩ quá rồi, Mộ Dung thị hống hách, nương nương thì cẩn thận, lại đang được sủng ái, sao có thể giống ả ta được?”

Tôi thở dài một tiếng, chậm rãi nói: “Ngày đó chẳng phải ả ta cũng được sủng ái nhất hậu cung sao?”

Hoán Bích cắn môi suy nghĩ một lát, sau đó nói: “Ả ta thua ở chỗ không có con trai. Nếu nương nương làm được điều này, địa vị hẳn sẽ vững chắc.”

Tôi hơi cau mày. “Chuyện đâu có dễ dàng như vậy, cần phải có thời gian mới được.”

Hoán Bích suy nghĩ một chút, cuối cùng ghé tai tôi, nói: “Chi bằng hãy lén đi tìm một số phương thuốc có thể khiến người ta có thai.”

Tôi đỏ bừng hai má, gí ngón tay vào trán nàng ta một cái nói: “Chỉ biết nói bừa thôi, đợi sau này ta gả muội đi rồi, xem muội còn dám ăn nói linh tinh nữa không?”

Hoán Bích thẹn thùng xoay người lại. “Nô tỳ chỉ đưa ra chủ ý giúp nương nương thôi, chủ ý không tốt thì nương nương không nghe theo là được, việc gì phải trêu chọc người ta.”

Tôi cố nhịn cười, kéo tay nàng ta lại, nói: “Cái gì mà trêu chọc, cùng lắm chỉ một, hai năm nữa là muội sẽ không thể ở lại bên ta nữa rồi… Chẳng lẽ muội định đi theo ta cả đời sao?”

Hoán Bích nghiêng đầu lắng nghe, đột nhiên nghiêm túc nói: “Nô tỳ xin nói thật với nương nương, nô tỳ không muốn lấy chồng, chỉ muốn bầu bạn với nương nương thôi. Nơi này tuy tốt nhưng cũng có chỗ không tốt, nương nương sống một mình ở đây thì khổ sở quá!”

Tôi lặng im, hồi lâu sau mới gượng cười, nói: “Toàn nói bừa thôi, đợi sau này có tuổi rồi thì chẳng ai thèm cưới muội nữa đâu.”

Hoán Bích không nói gì thêm, chỉ nhìn lớp diềm giấy hình sáu chữ phúc dán trên cửa sổ, lặng lẽ nói một câu chẳng liên quan: “Tuyết cứ rơi thế này, đến bao giờ mới kết thúc đây?”

Hậu cung bình lặng, triều chính cũng rành mạch phân minh. Có vết xe đổ của Nhữ Nam Vương, lần này Huyền Lăng khá cẩn thận với các công thần, không ban cho quá nhiều thực quyền, chỉ tặng thêm lụa là, vàng bạc.

Con gái của các công thần vào cung hầu hạ đều không được tấn phong quá nhanh, cũng không được sủng ái quá mức.

Tôi cẩn thận để ý, thấy Phúc Quý nhân hiền hòa, Thụy Quý nhân điềm đạm, bốn vị quý nhân ở trong cung không ngừng minh tranh ám đấu với nhau, cũng chẳng còn tâm tư nghĩ đến điều gì khác. Cận Tịch từng hỏi tôi có nên thu lấy một, hai người về phe mình không, tôi mỉm cười, đáp: “Cứ để bọn họ nội đấu với nhau đi, đợi khi nào chỉ còn lại kẻ mạnh, ta sẽ xem xét tình thế mà chọn người để dùng.”

Cận Tịch hiểu ý: “Gia tộc của Kỳ Quý nhân và gia tộc của nương nương sắp kết thành thông gia, nếu đến lúc vạn bất đắc dĩ, nô tỳ có thể nghĩ cách giúp đỡ nàng ta.”

Tôi khẽ gật đầu. “Bây giờ nàng ta như cá gặp nước, chúng ta tạm thời không cần nhúng tay vào làm gì.”

Trong số những người mới, Thụy Quý nhân Lạc thị dần được ân sủng, so sánh với Kỳ Quý nhân có thể nói là kẻ tám lạng người nửa cân. Một ngày tuyết rơi, tôi đã gặp nàng ta bên hồ Thái Dịch.

Lúc này bên hồ gió lạnh, chẳng có mấy ai qua lại, tôi vừa từ chỗ Thái hậu thỉnh an quay về, liền chọn đường gần hồ mà về cung. Nhìn thấy nàng ta dắt theo thị nữ lên bờ từ con thuyền nhỏ trên mặt hồ, tôi không khỏi thầm ngạc nhiên, liền cho người sai kiệu dừng lại.

Tuyết vẫn đang rơi, những bông tuyết nhẹ nhàng đậu xuống mặt hồ, trời đất thoáng đãng mà lạnh lẽo. Nàng ta mặc một chiếc áo choàng gấm trắng ngần, nhìn như cùng tuyết hòa làm một, chỉ để lộ khuôn mặt xinh đẹp.

Tôi hỏi: “Trời đang đổ tuyết lớn thế này, Thụy muội muội không lạnh sao?”

Nàng ta hờ hững hành lễ với tôi, nhẹ nhàng đáp: “Trời đổ tuyết lớn mới sạch sẽ.”

“Sạch sẽ?” Thái độ của nàng ta không cao ngạo, không luồn cúi, cũng không hề tỏ ra nịnh nọt vì tôi là sủng phi, nơi đáy lòng tôi bất giác nảy sinh mấy phần hảo cảm.

Nàng ta đưa mắt liếc nhìn tôi, khẽ mỉm cười, lại như chẳng phải cười. “Nương nương cảm thấy chốn hậu cung này rất sạch sẽ sao? Chỉ khi bị tuyết lớn che lấp tất cả, nơi đây mới sạch sẽ hơn một chút.”

Tôi không ngờ nàng ta lại nói vậy, sau một thoáng ngẩn ra bèn cười, nói: “Muội muội cho rằng bị che lấp thì là sạch sẽ sao? Trong lòng nếu không có bụi, dù ở đâu cũng là sạch sẽ, trong lòng nếu phủ đầy bụi, dù ở đâu cũng sẽ bẩn thỉu. Huống chi đã gọi là sạch sẽ thì không cần nhờ thứ gì che lấp cả.”

Gió thổi chiếc áo choàng của nàng ta tung bay, hé lộ một góc váy màu xanh biếc, nhìn nàng ta lúc này tựa một bông thủy tiên thanh nhã, thuần khiết giữa đầm nước biếc mùa xuân, vừa trong trẻo vừa tỏa hương thơm ngát.

Cặp mắt hơi lóe sáng, nàng ta khom người hành lễ với tôi. “Tần thiếp thụ giáo. Nhưng nếu rơi vào giữa bụi trần, tần thiếp nguyện ôm cành khô mà chết[1].” Tôi nhìn ánh mắt trong veo không một gợn sóng của nàng ta, bất giác tự thẹn mình thua kém.

[1] Lời này lấy ý từ một câu thơ trong bài Họa cúc của Trịnh Tư Tiêu, tả về sự cương liệt của hoa cúc.

Trong ngày “rồng ngẩng đầu” mùng Hai tháng Hai, trời hình như trong xanh hơn một chút. Huyền Lăng ở cung của Hoàng hậu, triệu tôi và Lăng Dung tới trò chuyện cùng.

Tôi đến muộn, vừa tới cửa đã lập tức có cung nữ hiểu chuyện vén rèm lên để tôi đi vào, một luồng khí ấm từ trong điện phả ra, vô cùng ấm áp và thoải mái. Mấy người Huyền Lăng đều đã ở đó, đang ngồi quanh lò sưởi vừa bóc hạch đào ăn vừa trò chuyện.

Lăng Dung nhìn thấy tôi tới, liền cười hì hì, nói: “Tỷ tỷ đến muộn rồi, phạt tỷ bóc vỏ hạch đào nhưng không được ăn.”

Tôi vừa xoa tay vừa cười, nói: “Bên ngoài lạnh quá, ta vốn dùng lò sưởi cầm tay nhưng mới đi được nửa đường nó đã nguội, bèn quay lại đổi cái khác, ai ngờ lại trễ thế này.”

Huyền Lăng gọi tôi lại, nắm lấy bàn tay tôi, cất giọng thương yêu: “Tay nàng đúng là lạnh quá, mau sưởi ấm một chút rồi hãy ăn hạch đào.”

Hoàng hậu cười ôn tồn, nói: “Đúng đấy, nếu bụng dạ đang lạnh mà đã ăn đồ ăn, dạ dày sẽ không thoải mái đâu.”

Tôi vội vàng tạ ơn, sau đó bèn ngồi xuống chiếc ghế nhỏ ở ngay bên dưới Huyền Lăng.

Sau khi nói chuyện phiếm một hồi, Hoàng hậu cười tủm tỉm, nói với Huyền Lăng: “Hai năm nay trong cung có nhiều biến cố, việc tuyển tú lại bị trì hoãn, hiện giờ các vị trí phi tần trong cung đang thiếu rất nhiều, Hoàng thượng có muốn chọn thêm vài vị muội muội vào để lấp những chỗ trống ấy không?”

Huyền Lăng chậm rãi nhai một miếng nhân hạch đào, nói: “Hoàng hậu nói ta nghe xem.”

Hoàng hậu nói vanh vách: “Dựa theo thể chế của hậu cung, Quý, Thục, Hiền, Đức tứ phi mỗi loại có một người, kế đến là Tam phu nhân, Tứ phi, Cửu tần, Ngũ quý tần, những ngôi vị còn lại không có số lượng cố định. Hiện giờ quý tần có hai người, phi cũng có hai người, coi như không có vấn đề gì lớn. Nhưng Cửu tần lại chỉ có một mình Lý Tu dung. Quý, Thục, Hiền, Đức tứ phi tuy còn trống nhưng thân phận cực cao, có thể từ từ lựa chọn, còn ngôi vị phu nhân thì xưa nay vốn không lập nhiều.”

Huyền Lăng khẽ “ồ” một tiếng, nói: “Những người khác trong Cửu tần thì không có gì, nhưng chiêu nghi thì nhất định phải lập, đó là người đứng đầu trong Cửu tần.”

Hoàng hậu nói tiếp: “Bên dưới quý tần cũng còn nhiều vị trí trống lắm.”

Huyền Lăng đưa mắt nhìn tôi, nói: “Vậy xin Hoàng hậu hãy chọn ngày lành tháng tốt tấn phong cho Hoàn Quý tần đi.” Rồi lại hỏi: “Tứ phi giờ mới chỉ có hai người đúng không?”

Tôi hiểu ra ý tứ của y, vội nói: “Thần thiếp kinh nghiệm còn nông cạn…”

Hoàng hậu tươi cười rạng rỡ cắt ngang lời tôi: “Đây không phải là vấn đề kinh nghiệm hay không kinh nghiệm, không phải cứ sống trong cung đến già là người nào cũng được phong làm phi đâu. Hoàn Quý tần đức hạnh xuất chúng, tất nhiên không có vấn đề gì.” Nàng ta chậm rãi nói với Huyền Lăng: “Có điều, Quý tần vào cung chưa lâu là một nhẽ, hơn nữa vẫn chưa sinh nở, nếu ngày sau sinh con được phong làm phi thì mới là một niềm vinh dự cực lớn.”

Hoàng hậu thấy Huyền Lăng có vẻ trầm ngâm, bèn nói thêm: “Chi bằng hãy lập làm Cửu tần trước được không?”

Huyền Lăng vứt một hạt dẻ vào trong ngọn lửa, mùi thơm lập tức tỏa ra sau một tiếng nổ giòn tan, rồi y vỗ tay nói: “Vậy hãy y theo lời Hoàng hậu, trước tiên phong làm chiêu nghi đã.”

Tôi vội vàng quỳ xuống tạ ơn, Lăng Dung vui mừng ra mặt nói: “Chúc mừng tỷ tỷ!”

Huyền Lăng quay sang cười nói với Lăng Dung: “Sao nàng biết mình không có việc mừng?” Rồi lại nhìn Hoàng hậu nói tiếp: “Hãy phong cho An Tần làm phân nghi tòng tứ phẩm đi.” Thoáng trầm ngâm, y bổ sung thêm: “Nhớ để nàng ấy và Hoàn Quý tần được tấn phong cùng ngày, coi như là chung vui.”

Ngày hôm sau, Hoàng hậu đã chọn xong ngày tấn phong, là ngày Mười hai tháng Hai.

Tôi đi theo Huyền Lăng tới thư phòng trong Nghi Nguyên điện, lẳng lặng nhìn y xem tấu chương. Mấy khóm trúc mảnh mai bên ngoài bị trúc đè phát ra những tiếng ngâm nga khe khẽ, tiếng tuyết tan rơi xuống tí tách vang lên, mặt đất vì thế mà trở nên có chút ẩm ướt và lầy lội.

Dường như có một số chân tướng trên thế gian này luôn không được đẹp và khiến người ta không cách nào chấp nhận nổi, chi bằng hãy giấu chúng đi để không ai hay biết.

Huyền Lăng xem xong một bản tấu chương, đột nhiên lộ vẻ không vui, nói: “Có thần tử tấu rằng Huyền Tế ở trong ngục thường xuyên cất lời oán hận, gọi trẫm là ‘tiểu nhân’, dùng tính mạng vợ con để uy hiếp hắn.”

Tôi khẽ nở nụ cười, nói: “Kẻ thắng làm vua, kẻ thua làm giặc, hắn từng là thân vương tôn quý, giờ đây trở thành kẻ tù nhân dưới thềm, cất lời oán hận cũng là điều khó tránh.” Sau đó liền ngoảnh lại hỏi: “Hoàng thượng định xử trí thế nào?”

Trong mắt y lóe lên tia hung quang, tôi lập tức hiểu ngay ý tứ, bèn gật đầu, nói: “Hoàng thượng làm thế cũng chẳng có gì đáng để chê trách, dù sao Huyền Tế cũng là kẻ loạn thần tặc tử, giết đi thực là lẽ thường tình.” Thoáng ngừng một chút liền cất tiếng hỏi: “Nhưng hôm nay Hoàng thượng tức giận như vậy chỉ là vì lời oán hận của Huyền Tế sao?”

Y đưa mắt nhìn tôi: “Hoàn Hoàn, thứ trẫm thật sự để tâm là miệng lưỡi của thiên hạ.”

Quả nhiên là vậy. Đôi hàng lông mày hơi dãn ra, tôi dịu dàng nói: “Vậy xin Hoàng thượng hãy ban cho con trai của Huyền Tế là Dư Bạc một tước vị chỉ có hư danh. Huyền Tế oán giận Hoàng thượng dùng tính mạng vợ con hắn để uy hiếp, nhưng Hoàng thượng lại ban ơn đức sâu dày, không để vợ con hắn hết nơi bấu víu, như vậy thiên hạ cũng chẳng thể chê trách được nữa rồi.”

Huyền Lăng lộ vẻ trầm ngâm. “Dư Bạc còn ít tuổi…” Nhưng rất nhanh sau đó đã cười rộ. “Trẫm thích nó còn ít tuổi như thế.”

Hôm sau lên triều, Huyền Lăng hạ lệnh cho phép con trai của Huyền Tế là Dư Bạc kế thừa ngôi vị Nhữ Nam vương của phụ thân. Đương nhiên Dư Bạc mới có bảy tuổi, chức Nhữ Nam vương này chẳng qua là hư danh, chỉ có thể dựa vào đó để nhận lấy một ít bổng lộc sống qua ngày mà thôi.

Cận Tịch tỏ ra khá khó hiểu. “Tại sao nương nương lại…”

Tôi ngắt lời nàng ta, cất giọng cảm khái nói: “Ngày đó ta mất con, thất sủng, trong cung có nhiều người như thế, nhưng ngoài Kính Phi và My Trang ra thì chỉ có một mình Nhữ Nam Vương phi không thân không thích tới thăm ta. Mặc kệ khi đó nàng ta có mục đích gì, dù sao cũng là tặng than giữa trời tuyết rơi. Bây giờ ta đắc chí còn nàng ta thì lỡ vận, lại nghe nói nàng ta đã trở thành thứ dân, phải nuôi nấng con trai, con gái thực vất vả vô cùng, ta có thể giúp được thì hãy giúp một chút. Ít nhất bây giờ con trai của nàng ta cũng đã có tước vương, cuộc sống sẽ dễ chịu hơn.”

Cận Tịch lẳng lặng gật đầu, nói: “Thì ra nương nương muốn báo đáp ân tình ngày đó.”

Tôi khẽ mỉm cười, còn một tâm tư khác thì lại không nói ra. Tao ngộ của Hoa Phi khiến tôi càng thêm thương cảm vì sự bạc bẽo của cái gọi là tình ái trong chốn hậu cung, mà Nhữ Nam Vương tuy kêu căng, hống hách, nhưng vì vợ con lại có thể không tiếc bản thân mình, chịu lấy tính mạng ra bao bọc bọn họ. Tuy rất bất mãn với hắn nhưng tôi lại không thể không sinh lòng cảm phục về điều này.

Đêm trước ngày sắc phong, tôi nghỉ lại Đông thất ở Nghi Nguyên điện.

Ánh trăng bàng bạc, lạnh lẽo từ ngoài cửa sổ chiếu vào, như sương như tuyết, nhưng được ánh nến đỏ mịt mờ trong điện phủ lên, bất giác sinh ra mấy tia ấm áp.

Tôi tựa mình trong lòng Huyền Lăng, long diên hương trong lò tỏa ra từng làn khói trắng vương vất, tựa như những sợi tơ nhỏ, chậm rãi lan tỏa khắp bốn phía.

Huyền Lăng khoác hờ một chiếc áo ngủ trên người, trong điện bây giờ ấm áp như mùa xuân, cũng không lạnh lắm. Y ôm tôi vào lòng, ôn tồn nói: “Đường Lê cung đã được sửa xong, giờ Thân một khắc[2] ngày mai, lễ sắc phong của nàng hoàn tất, sau đó có thể quay về ở tại Đường Lê cung như xưa rồi.”

[2] Khoảng ba giờ ba mươi phút chiều.

Tôi khẽ lướt ngón tay trên cằm y, cười nói: “Thực đã ấm ức cho Kỳ Quý nhân rồi, phải dọn qua chỗ Hân tỷ tỷ, Hoàng thượng muốn đến thăm muội ấy cũng không tiện.”

Y cười rộ. “Có gì mà tiện với không tiện, điều quan trọng là trẫm có muốn tới thăm nàng ta hay không mà thôi!” Y ngừng cười, đặt tay lên bờ vai tôi, nói: “Trẫm đã nghĩ rồi, Đường Lê cung cứ nên để một mình nàng ở là tốt nhất. Có lần trẫm tới thăm nàng, Kỳ Quý nhân cũng ở bên cạnh, thực không hay chút nào.”

Tôi mỉm cười điềm đạm. “Tứ lang vốn vì thích Kỳ Quý nhân nên mới để muội ấy tới ở với thần thiếp, sao bây giờ lại không để muội ấy quay lại như vậy, chỉ sợ sẽ khiến muội ấy để bụng đấy!”

Nét mặt mang theo mấy phần chân thành, Huyền Lăng nói rành rọt từng từ: “Sau này Đường Lê cung chỉ dành cho một mình nàng ở thôi, mỗi dịp xuân về trẫm sẽ uống rượu với nàng trong vườn hoa hải đường, lại nhìn nàng múa điệu Kinh Hồng giữa những bông hoa lê rơi đầy đất, mùa hè thì cùng nàng ngắm hoa sen ở Thái Bình hành cung.”

Tôi thầm xúc động, ánh mắt chứa chan tình, mỉm cười tiếp lời y: “Mùa thu, Hoàn Hoàn sẽ cùng Tứ lang ủ rượu quế, mùa đông thì cùng chàng ngắm những bông tuyết bay đầy trời.”

Y dường như có chút thổn thức, cất giọng chân thành: “Đúng vậy, trẫm sẽ ở bên nàng và nàng cũng sẽ ở bên trẫm.”

Một nỗi niềm mừng vui và cảm động khó tả bất giác trào dâng, tôi vùi đầu vào lòng y, cảm thấy ngọt ngào vô hạn.

Tôi khẽ nói: “Đúng thế, Hoàn Hoàn sẽ mãi mãi ở bên Tứ lang.”

Y “ừm” một tiếng, hình như đang lẩm bẩm một mình: “Hoàn Quý tần? Hoàn Hoàn, Hoàn Hoàn.”

Tôi định ngẩng đầu lên nhưng cánh tay y rất mạnh mẽ, ghì chặt đầu tôi vào lồng ngực rắn chắc. Không khí có chút ngột ngạt, trong khoang mũi tôi toàn là mùi của cơ thể y.

Hoàn Hoàn? Trước đây, hình như y cũng từng gọi tôi như vậy. Tôi cảm thấy hơi mỏi mệt, liền ngáp dài một cái, từ từ chìm vào giấc ngủ.

Đêm đã về khuya, tôi chợp mắt rồi mà vẫn mơ mơ màng màng, loáng thoáng nghe thấy phía đằng xa có tiếng đồng hồ nước tí tách không ngớt vang lên, tiếng sau dài hơn tiếng trước. Tuy xuân đã về nhưng tuyết vẫn chưa ngừng rơi, đêm đen sâu thẳm thực dài biết mấy. Trong phòng vì có lò sưởi và chậu than nên ấm áp vô cùng, duy có tiếng gió rít gào bên ngoài cửa sổ là nhắc người ta rằng sự ấm áp ấy không hề chân thực.

Tôi cứ nửa tỉnh nửa mê, vòng ôm rất chặt của Huyền Lăng khiến tôi nóng tới rỉ mồ hôi, định giãy giụa cho lỏng ra một chút nhưng rốt cuộc vẫn không đành lòng, thế là cứ im lặng chịu đựng sự nhớp nháp.

Ngày mai là ngày tôi được tấn phong, có điều tôi chẳng cảm thấy mừng vui chút nào, tấn phong hay không không quan trọng, điều quan trọng là trong lòng người kề bên tôi đây có một chút chân tình với tôi.

Huyền Lăng đang chìm trong giấc mộng, xoay người khẽ cựa quậy, cánh tay vẫn ôm chặt lấy thân thể tôi, khẽ cất tiếng lẩm bẩm: “Hoàn Hoàn.”

Dường như y đang gọi tôi, tôi bất giác tỉnh táo hơn nhiều, ôm lấy cánh tay y, cũng khẽ gọi: “Tứ lang.”

Y vẫn đang ngủ say, bàn tay đưa tới bên cổ tôi nhẹ nhàng mơn trớn, những đường chỉ tay lõm xuống rõ ràng, giọng nói dạt dào tình cảm như biển rộng: “Ta đi tìm nàng khắp nơi.” Trong giấc mơ, chỉ khi ở trong giấc mơ, y mới gọi tôi là “Hoàn Hoàn” như thế, một ting “Hoàn Hoàn” chan chứa biết bao tình cảm chân thành. Sống mũi tôi bất giác cay sè, rồi cảm xúc ấy dần lan tỏa khắp cơ thể, trái tim tôi như bị bao phủ bởi sự dịu dàng.

Y là vua một nước, y thực sự đối xử với tôi như vậy, đối xử với tôi bằng sự chân thành của y sao? Trong giấc mơ mà vẫn không ngừng nhớ đến tôi. Nước mắt từng giọt, từng giọt tuôn rơi, lặng lẽ ngấm vào trong chiếc gối lụa mềm, cảm giác ấm nóng và ẩm ướt ấy dán sát lên bờ má, sau đó thì lạnh dần. Chính sự lạnh lẽo ấy đã nhắc nhở tôi rằng tôi không hề nghe nhầm.

Trên người y có mùi long diên hương sâu thẳm, từng chút từng chút, tràn ra ngoài mang theo sự khắc cốt ghi tâm. Kề sát bên, tôi ngửi thấy trên huyệt thái dương của y còn có mùi dầu bạc hà lạnh đến thấu xương, lạnh đến đắng chát, từng chút từng chút tràn vào trong mũi, khiến trái tim tôi bỗng như bị ngâm giữa lòng nước lạnh giá của mùa xuân. Tôi đưa tay ôm chặt lấy cổ y, khẽ cất tiếng lầm bầm: “Tứ lang, thiếp sẽ mãi ở đây.” Không biết y có nghe thấy không nhưng cánh tay lại vô thức ôm tôi chặt hơn. Giữa căn phòng ấm áp như mùa xuân, tôi nhắm mắt lại, chìm vào giấc ngủ trong sự mừng vui ngập lòng.

Khi tôi thức giấc, Lăng Dung đã chờ sẵn bên ngoài Nghi Nguyên điện, giờ hãy còn sớm, nàng ta khẽ mỉm cười, nói: “Muội đặc biệt tới đây chờ tỷ tỷ cùng đi thỉnh an Hoàng hậu nương nương đấy!”

Huyền Lăng đứng sau lưng tôi, vừa rửa ráy xong xuôi, lúc này vẫn còn hơi mơ màng buồn ngủ, nói: “Trẫm lên triều đây!”

Tôi nhún gối hành lễ. “Thần thiếp cũng phải tới cung của Hoàng hậu thỉnh an, cung tiễn Hoàng thượng.”

Y đưa mắt nhìn lướt qua Lăng Dung, sau đó lại chăm chú nhìn tôi, khẽ nói: “Hoàn Hoàn, đêm nay nàng lại tới đây nhé!”

Tôi đỏ bừng hai má, khẽ gật đầu, vội vàng thúc giục: “Hoàng thượng mau đi đi, buổi triều sớm không thể chậm trễ được đâu.”

Tôi ngoảnh lại, thấy Lăng Dung nở một nụ cười sâu xa thoáng mang theo chút nghi hoặc, bất giác lại càng bối rối.

Vì thời gian còn sớm, vẫn chưa có các phi tần khác tới thỉnh an, chúng tôi phải đợi một lúc rồi Hoàng hậu mới ra ngoài, nói: “Hai người đến sớm thật.”

Tôi và Lăng Dung tươi cười cung kính nói: “Bọn thần thiếp tới đây để thỉnh an và tạ ơn Hoàng hậu.”

Hoàng hậu vui vẻ, hòa nhã nói: “Tạ ơn cái gì, các ngươi được tấn phong ấy là nhờ bản thân các ngươi phẩm hạnh đoan chính, lại được Hoàng thượng sủng ái mà thôi.”

Lăng Dung dùng khăn tay che miệng khẽ cười, nói: “Nếu xét tới sự sủng ái, bây giờ ai mà so được với Hoàn tỷ tỷ. Sáng nay thần thiếp tới Nghi Nguyên điện chờ tỷ tỷ cùng đi thỉnh an, ai ngờ lại là đường đột.”

Tôi cả thẹn, vội ngăn nàng ta lại: “Lăng Dung…”

Nàng ta lại cười, nói với tôi: “Tỷ tỷ xấu hổ gì chứ, Hoàng hậu yêu quý chúng ta nhất mà.” Thấy Hoàng hậu mỉm cười, nàng ta lại nói tiếp: “Sáng sớm hôm nay, thần thiếp nghe Hoàng thượng gọi tỷ tỷ là ‘Hoàn Hoàn’ đấy!”

Tôi “úi chao” một tiếng, hai bờ má bất giác nóng bừng, vội nói: “Hoàng hậu nương nương chớ nghe An muội muội nói năng bừa bãi.”

Hoàng hậu dường như ngây ra trong khoảnh khắc, bên khóe miệng dần xuất hiện một nụ cười lạnh lẽo thoáng nét bi thương. Nụ cười đó càng nồng đậm, ý giễu cợt càng thể hiện rõ ràng. “Hoàn Hoàn?” Nàng ta nhẩm lại lần nữa: “Hoàn Hoàn.” Giọng nói dường như mang theo sự lạnh lẽo đến thấu xương, không hề chân thực, có lẽ chỉ là ảo giác của tôi mà thôi.

Hoàng hậu vốn không bao giờ nói chuyện bằng giọng điệu như thế, nàng ta luôn khoan thai, nho nhã, đoan trang, hiền thục, đúng tư thế của một bậc mẫu nghi thiên hạ. Và chỉ sau một khoảnh khắc ngẩn ngơ, Hoàng hậu đã khôi phục dáng vẻ thường ngày, chậm rãi mỉm cười cất tiếng: “Hoàng thượng gọi ngươi như vậy nhất định là thực sự sủng ái ngươi rồi!”

Lăng Dung thấy hai má tôi đỏ bừng, vội tươi cười xin lỗi: “Muội chẳng qua nhất thời mau miệng, tỷ tỷ đừng trách muội đấy nhé!”

Trong lòng tôi thoáng xuất hiện một tia nghi ngờ, Lăng Dung xưa nay chưa bao giờ là hạng người mau mồm mau miệng như thế.

Tôi đang định trách cứ vài câu, Lăng Dung đã lộ vẻ lo lắng và tự trách, nói: “Sau này muội không dám nữa đâu.”

Hoàng hậu đứng một bên, cười nói: “Đều là tỷ muội với nhau trong cung, nói đùa vài câu thì có là gì.” Thoáng dừng một chút, lại nói tiếp: “Lễ tấn phong cho An Tần thì đơn giản không có gì, còn Quý tần ngươi hãy về cung đợi đi, lễ phục dùng khi sắc phong còn chưa ổn lắm, đợi sau giờ Ngọ, bản cung sẽ sai người đưa tới cho ngươi.”

Tôi kính cẩn vâng lời, sau đó liền cáo từ rời đi.

Sau buổi trưa, trời ấm hơn một chút, tôi và My Trang ngồi chụm đầu, kiểm tra vết sẹo lưu lại trên cánh tay tỷ ấy sau vụ bỏng lần trước. My Trang hờ hững nói: “Vết sẹo to quá, đúng là khó coi chết đi được!” Nói rồi liền định buông tay áo xuống.

Tôi vội nói: “Rốt cuộc đã thành sẹo rồi, khó coi một chút cũng không sao, quãng thời gian trước cứ mưng mủ suốt, làm muội sợ chết đi được.” Sau đó lại khẽ cười. “Lăng Dung từng tặng muội thứ này tốt lắm, dùng để khử sẹo hữu hiệu vô cùng.” Tôi chỉ vào má mình, nói tiếp: “Vết thương do bị mèo cào trước đây của muội bây giờ đã khỏi hẳn rồi này.”

Tỷ ấy tỉ mỉ nhìn kĩ, lát sau liền cười, nói: “Đúng là đã khỏi rồi. Có điều vết thương trên mặt muội dù sao cũng nhỏ, còn vết sẹo của ta to thế này, e là không ăn thua đâu.”

Tôi nói: “Chỗ muội giờ hãy còn một ít, tỷ cứ dùng tạm đã. Nếu có tác dụng, đợi sau lễ sắc phong của Lăng Dung, muội sẽ bảo muội ấy điều chế thêm một ít rồi đưa đến đây, tin rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi.” Sau đó liền nói với Lưu Chu: “Thư Ngân Giao mà lúc trước An tiểu chủ đưa tặng còn không, mau đi tìm tới đây cho ta.”

Lưu Chu cười hì hì, nói: “Nếu là thứ khác thì nô tỳ có lẽ còn không biết, sợ là đã bị đốt cháy trong vụ hỏa hoạn lần trước rồi cũng chưa biết chừng, nhưng Thư Ngân Giao là vật quý hiếm, nô tỳ lại thấy chiếc bình đó đẹp nên đã cất rất cẩn thận, giờ sẽ mang tới ngay.”

My Trang khẽ nở nụ cười. Tôi nói: “Tỷ xem có khéo không kìa, đến ông trời cũng thành tâm không muốn để vết sẹo này làm hỏng vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn của tỷ.” My Trang làm bộ hờn giận cốc đầu tôi một cái, sau đó không kìm được bật cười.

Lưu Chu rất nhanh đã quay trở lại, nói: “Ôn thái y tới rồi, muốn thăm mạch cho Thẩm Tiệp dư.”

My Trang mỉm cười, nói: “Mau mời vào đây.” Rồi lại quay sang nói với tôi: “Muội cứ luôn chê y rắc rối, đến mạch cũng không cho người ta xem, chỉ bảo y đến xem cho ta. Bây giờ thì hay rồi, y ngày nào cũng đến làm phiền ta.”

Tôi thè lưỡi, làm bộ không để ý đến. Bên trong chiếc bình tròn tráng men đựng Thư Ngân Giao kia là một thứ thuốc cao trong suốt, mát rượi và tỏa mùi thơm dịu nhẹ, My Trang cầm lên ngửi thử rồi nói: “Thơm quá, vừa ngửi đã biết ngay là đồ tốt.”

Đương lúc trò chuyện thì Ôn Thực Sơ tiến vào, hắn ngồi xuống chỗ đối diện, bắt mạch cho My Trang, thấy tôi cầm bình Thư Ngân Giao trong tay, như vô tình mà hữu ý liếc qua mấy bận, rồi nói: “Xin hỏi nương nương, đây là thứ gì vậy?”

Tôi đưa cho hắn, nói: “Là Thư Ngân Giao dùng để xóa sẹo.”

“Ồ?” Hắn dường như khá có hứng thú, liền đón lấy xem kỹ càng một lượt, sau đó lại dùng ngón tay út khều một chút, bôi ra mu bàn tay và ngửi thử. Tôi hồ nghi hỏi: “Có gì không ổn sao? Bản cung đã dùng quá nửa bình, không cảm thấy có chỗ nào không thoải mái cả.”

Sắc mặt Ôn Thực Sơ có vẻ hơi cổ quái nhưng lại không nói ra được lý do gì, hồi lâu sau mới cất tiếng: “Vi thần nhất thời còn chưa thể xác định, không biết nương nương có thể cho thần mang về nghiên cứu kĩ càng không?”

Tôi biết hắn xưa nay luôn thận trọng, lại rất để tâm tới những việc có liên quan đến tôi, thế là lập tức gật đầu đồng ý. “Được, xin thái y hãy xem cẩn thận giúp bản cung.”

My Trang thấy tôi đột nhiên tỏ ra nghiêm túc như vậy, liền ngạc nhiên hỏi: “Sao thế?”

Tôi thầm thắc thỏm, một tia bất an và sợ hãi trào dâng, không hiểu sao cứ luôn cảm thấy có chỗ nào đó không đúng lắm.

My Trang khẽ nắm lấy bàn tay tôi, hỏi với giọng quan tâm: “Muội sao thế? Chẳng lẽ thân thể không thoải mái? Lát nữa phải tới Thái miếu tham dự lễ sắc phong rồi đấy!”

Tôi cố gắng trấn định tâm thần, cười nói: “Muội không sao.”

Thế nhưng tôi còn chưa kịp nghĩ nhiều, thời gian cử hành lễ sắc phong đã tới. Sau khi làm xong mọi lễ nghi trong Thái miếu, dựa theo quy định, tôi phải tới cung của Hoàng hậu nghe Hoàng hậu dạy bảo, sau đó thì tạ ơn Hoàng thượng và Hoàng hậu.

Mới đi được nửa đường, Lưu Chu chợt kêu lên “úi chao” một tiếng, nói: “Nương nương, thế này…”

Tôi cúi xuống nhìn, thấy không biết từ bao giờ, trên tà váy của bộ lễ phục mà tôi mặc đã xuất hiện mấy vết rách dài cỡ một tấc. Tôi thầm cảm thấy sợ hãi, lễ phục dùng khi sắc phong chẳng khác gì đồ ngự ban, sao có thể để bị hư hại được?

Đợi lát nữa đến trước mặt Hoàng thượng và Hoàng hậu, nếu bị phát hiện, há chẳng phải là tội lớn? Tổng quản phủ Nội vụ là Khương Trung Mẫn lúc này cũng đi theo bên cạnh, mà lễ phục vốn do phủ Nội vụ của y cấp, xảy ra vấn đề gì y cũng không thoát khỏi can hệ, bất giác lo lắng đến xanh mặt.

Sau một thoáng kinh sợ, tôi rất nhanh đã bình tĩnh trở lại, nói: “Có thể tìm người đến vá lại không?”

Khương Trung Mẫn đáp: “Lễ phục dùng khi sắc phong là do mấy người thợ giỏi dùng chỉ vàng chỉ bạc làm ra, lượng chỉ chỉ đủ dùng cho một bộ trang phục này thôi, nếu muốn tìm thêm e là phải mở cửa nhà kho, mà như thế thì rầm rộ quá!”

Tôi lắc đầu, nói: “Không được!”

Thời gian trôi qua từng chút, Hoán Bích nói: “Không thể chậm trễ thêm nữa, nếu đễ lỡ thời gian, chỉ e nương nương sẽ bị Hoàng thượng và Hoàng hậu trách phạt thêm đấy.”

Khương Trung Mẫn lo lắng chạy qua chạy lại, mồ hôi rỉ đầy đầu, đột nhiên vỗ đùi đánh bốp một cái, mừng rỡ nói: “Hai ngày trước, cung của Hoàng hậu có mang tới một chiếc áo dài nhờ vá giúp, thoạt nhìn thì khá có kiểu cách của một bộ lễ phục, tuy không giống lắm với bộ đồ trên người nương nương bây giờ nhưng nếu chỉ dùng tạm thời thì hẳn là không vấn đề gì.”

Tôi thoáng do dự. “Liệu có ổn không?”

Khương Trung Mẫn nói: “Chiếc áo đó trông hơi cũ, chắc đã may từ mấy năm trước rồi, chỉ e Hoàng hậu nương nương trước đây đã từng mặc qua, do đó cũng không nôn nóng đến đòi, sau khi vá xong đã để ở chỗ nô tài được hai, ba ngày rồi, chắc không có vấn đề gì lớn.” Y thấp giọng nói tiếp: “Hiện giờ chỉ có cách dùng tạm chiếc áo đó thôi.”

Lưu Chu vốn hấp tấp, liền thúc giục: “Nếu có thể dùng được, sao còn không mau đi lấy?”

Tôi vội ngăn lại: “Không được, xiêm y của Hoàng hậu ta sao có thể tùy tiện mặc chứ, như thế há chẳng mắc tội vô lễ?”

Cận Tịch là người có nhiều kinh nghiệm nhất ở đây, thấy sự tình khẩn cấp liền cau mày suy nghĩ một chút, sau đó nói: “Nếu là lễ phục của Hoàng hậu thì nhất quyết không được mặc, nhưng nếu chỉ là đồ thường thì tạm dùng chắc cũng không có vấn đề gì lớn, chỉ là nương nương cần phải thỉnh tội với Hoàng hậu. Dù sao trước đây khi tấn phong quý tần, nương nương cũng từng vì thời gian quá gấp mà phải dùng áo váy của Kính Phi nương nương, coi như đã có tiền lệ rồi.”

Khương Trung Mẫn suy nghĩ một chút rồi nói: “Đó quả đúng là đồ thường, hơn nữa e rằng còn là xiêm y của Hoàng hậu nương nương khi còn làm phi tử, được may bằng gấm Khổng tước, bên trên thêu hình địch phượng[3] chứ không phải hình phượng hoàng.”

[3] Một giống chim mà theo quan niệm của người Trung Quốc thì không cao quý bằng phượng hoàng.

Cận Tịch thở phào một hơi. “Vậy thì ổn rồi!”

Khương Trung Mẫn không dám sai người khác, đích thân vội vã chạy đi, rất nhanh đã quay trở về phục mệnh.

Thứ y mang đến quảà một chiếc áo rất đẹp, dài chạm đất, may bằng gấm Khổng tước và có những đường nét hoa văn rực rỡ, bên trên còn có hình thêu hoa lạc tiên và địch phượng, trong sự hoa lệ lại có mấy phần thanh nhã, mà nhìn kích thước cũng khá hợp với cơ thể tôi.

Lưu Chu tấm tắc nói: “Đúng là xiêm y của Hoàng hậu có khác, cũ mấy thì vẫn là đồ tốt.”

Hoán Bích vội vàng thay áo cho tôi, nói: “Nương nương nhanh lên một chút, kẻo lại khiến Hoàng thượng và Hoàng hậu sốt ruột.”

Lúc này tôi cũng không để ý được nhiều, vội thay xiêm y rồi ngồi vào trong chiếc xe Địch phượng ngọc lộ. Rèm xe buông xuống, tôi nghe thấy Cận Tịch cất tiếng thở dài vẻ đầy nghi hoặc từ phía sau: “Sao lại quen mắt thế nhỉ?”

Tôi không có thời gian rảnh để suy nghĩ về lời của nàng ta, trong lòng thầm mong mình đừng tới trễ quá.

Thế nhưng cũng có một tia nghi hoặc trào dâng trong tôi, dường như có chỗ nào đó có vấn đề rất lớn, chỉ là bây giờ tôi không còn nhiều thời gian để suy đoán nữa thôi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.