Giờ là sáng Chủ nhật và tôi vẫn đang sôi sùng sục. Với chính mình. Làm sao tôi lại có thể đần độn đến thế?
Hôm thứ Sáu tôi bị sốc đến mức không biết làm sao mà lại để Natalie kiểm soát tình huống đó. Tôi đã không đương đầu với cô ta. Tôi đã không bày tỏ bất cứ một ý kiến nào của mình. Những chuyện đó cứ vù vù trong đầu tôi như những con ruồi mắc bẫy vậy.
Giờ thì tôi biết tất cả những gì mà lẽ ra tôi đã nên nói với cô ta. Lẽ ra tôi nên nói là “Cậu không thể cứ đơn giản quay về và cư xử như chưa hề có gì chuyện xảy ra.” Và, “Thế còn lời xin lỗi vì đã bỏ mặc chúng tôi trong lúc khó khăn thì sao?” Và, “Sao cậu dám nhận xằng chuyện tìm được Clare Fortescue, tất cả là công sức của tôi!”
Và thậm chí có thể là, “Vậy là cậu đã bị sa thải khỏi công việc cuối cùng đúng không? Khi nào thì cậu định nói cho tôi biết chuyện đó đây?”
Nhưng tôi đã không hề nói bất cứ điều gì trong số đó. Tôi chỉ há hốc miệng và nói yếu ớt, “Natalie! Chà! Làm sao mà cậu... Có...”
Và cô ta bắt đầu tuôn một tràng rằng cái gã ở Goa ấy hóa ra là một sở khanh chết giẫm và có quá nhiều thời gian nghỉ việc khiến người ta phát điên lên, và cô ta đã quyết định làm chúng tôi ngạc nhiên và tôi không thấy nhẹ nhõm sao?
“Natalie,” tôi mào đầu. “Mọi chuyện thật sự trở nên rất căng thẳng khi cậu đi vắng...”
“Chào mừng cậu đến với làm ăn lớn.” Cô ta nháy mắt với tôi “Căng thẳng là chuyện thường ngày mà. ”
“Nhưng cậu đã lặn mắt tăm! Bọn tôi không hề được báo trước gì cả! Bọn tôi đã phải xử lý hết mọi chuyện...”
“Lara.” Cô ta giơ bàn tay ra như thể muốn nói “Bình tĩnh”. “Tớ biết. Công việc đã rất khó khăn. Nhưng giờ thì ổn rồi. Bắt kể trong thời gian tớ vắng mặt mọi chuyện có lộn xộn lên thế nào thì giờ tớ đã về đây để sắp xếp lại gọn ghẽ. Chào Graham?” Cô ta quay ra với cái điện thoại. “Natalie Masser đây. ”
Và cô ta cứ thế cả buổi chiều, gọi điện liên tục không ngừng nghỉ, vì thế tôi không thể xen vào dù chỉ một lời. Khi ra về vào buổi chiều tối cô ta vẫn còn nói lem lẻm trên điện thoại di động, và chỉ hững hờ vẫy tay chào tôi và Kate.
Chuyện là thế đó. Cô ta đã trở về. Cô ta hành động giống như mình là sếp và cô ta chẳng làm gì sai cả và cả hai chúng tôi đều nên thật sự biết ơn cô ta vì đã trở về.
Nếu cô ta nháy mắt với tôi thêm một lần nữa, tôi sẽ bóp cổ cô ta.
Tôi đau khổ túm tóc lên thành một cái đuôi ngựa. Hôm nay tôi hầu như chẳng cố làm đẹp. Đi vãn cảnh thì cần gì một cái váy flapper. Và Sadie thì vẫn nghĩ là tôi đi chơi với Josh, vì thế lần này cô sẽ không bảo tôi phải mặc thế này thế kia.
Tôi lén nhìn Sadie trong khi đánh phấn hồng. Tôi cảm thấy mình hơi tệ một chút khi nói dối cô. Nhưng mà lẽ ra cô cũng không nên đáng ghét như thế.
“Tôi không muốn cô đi cùng tôi,” tôi cảnh cáo cô lần thứ một triệu. “Vì vậy đừng có nghĩ tới chuyện đó.”
“Tôi chẳng màng đi cùng cô!” cô vặc lại, nổi máu tự ái. “Cô nghĩ là tôi muốn bám theo cô và cái gã bù nhìn của người nói tiếng bụng đó hả? Tôi sẽ xem ti vi. Hôm nay có một vở kịch của Fred Astaire[1]. Edna và tôi sẽ có một ngày dễ chịu cùng nhau.”
[1] Một vũ công sân khấu kịch Broadway (1899-1987), từng giành giải Oscar.
“Tốt. Ờ, chuyển đến bà ấy tình cảm nồng thắm của tôi,” tôi châm chọc.
Sadie mới tìm được một bà già tên Edna sóng cách đây vài con phố chẳng làm gì ngoài ngồi xem những bộ phim đen trắng. Vậy là giờ cô tới đó suốt ngày, ngồi trên sofa cạnh Edna và xem phim. Cô bảo rắc rối duy nhất xảy ra là khi Edna có điện thoại và nói chuyện suốt cả bộ phim - thế nên giờ cô có thói quen hét “Im đi! Không buôn điện thoại nữa!” vào tai bà ta. Rồi thì Edna luống cuống hết cả lên và đôi khi còn dập máy ngay khi chưa nói hết câu.
Tội nghiệp Edna.
Tôi đánh xong phấn hồng và ngắm mình trong gương. Quần jean bó sát màu đen, giày búp bê màu bạc, áo phông và áo khoác da. Kiểu trang điểm năm 2009 thông thường. Có lẽ Ed sẽ không nhận ra tôi. Tôi nên cắm một cái lông chim lên tóc để anh có thể biết đó là tôi.
Ý nghĩ đó khiến tôi phì cười, và Sadie liếc tôi nghi ngờ.
“Có chuyện gì vui sao?” Cô nhìn tôi từ đầu đến chân. “Cô sẽ đi chơi trong bộ dạng này hả? Tôi chưa bao giờ thấy bộ quần áo nào tẻ nhạt như thế này. Josh nhìn thấy cô là sẽ thở hắt ra vì chán ngay. Nếu không phải là chính cô thở hắt ra vì chán trước.”
Ô, ha ha. Nhưng có lẽ cô ta nói đúng. Có lẽ tôi đã ăn mặc tuềnh toàng quá.
Tôi với lấy một trong những chuỗi hạt thập niên hai mươi của mình và đeo lên cổ. Những hạt màu bạc và đen nhánh đổ xuống thành mấy hàng, chạm vào nhau khi tôi bước đi, và ngay lập tức tôi cảm thấy hơi thích thú. Lộng lẫy hơn chút.
Tôi kẻ lại viền môi bằng màu đậm hơn, làm cho đôi môi hơi na ná hình dáng của thập niên hai mươi. Rồi tôi cầm lấy cái ví bấm bằng da màu bạc thập niên hai mươi và nhìn lại mình một lượt lần nữa.
“Khá hơn nhiều đấy!” Sadie nói. “Thế còn cái mũ hình chuông nhỏ nhắn đáng yêu thì sao?”
“Không, cảm ơn.” Tôi đảo mắt.
“Nếu là tôi, tôi sẽ đội một cái mũ,” cô khăng khăng.
“Ờ, tôi không muốn trông giống cô.” Tôi xổ tung tóc ra và mỉm cười với mình. “Tôi muốn trông giống tôi.”
Tôi đề nghị với Ed là chúng tôi sẽ khởi hành chuyến du ngoạn từ Tháp London, và khi ra khỏi ga tàu điện ngầm bước vào không khí khô lạnh, tôi cảm thấy phấn chấn lên ngay lập tức. Mặc kệ Natalie. Mặc kệ Josh. Mặc kệ chuỗi hạt. Nhìn toàn cảnh này mà xem. Thật kỳ diệu! Một phòng tuyến bằng đá cổ xưa, chọc thẳng lên bầu trời xanh ngắt suốt bao thế kỷ qua. Những người canh gác tháp thơ thẩn đi lại trong bộ y phục truyền thống màu đỏ và xanh tím than, giống như bước ra từ trong truyện cổ tích. Đây là một trong những địa điểm khiến người ta cảm thấy tự hào khi được sinh ra và lớn lên ở London. Làm sao Ed lại có thể thậm chí không buồn tới đây nhỉ? Nó như là một trong những kỳ quan của thế giới!
Có điều là, tôi không chắc mình đã từng thật sự vào tham quan Tháp London chưa. Kiểu như vào hẳn bên trong hay đại loại thế. Nhưng ý tôi là, chuyện đó khác. Tôi sống ở đây. Tôi không cần phải thế.
“Lara! Đằng này!”
Ed đã xếp hàng mua vé rồi. Anh mặc quần jean, áo khoác dài màu tím than bình thường và quàng một chiếc khăn. Anh cũng không cạo râu, thú vị thật. Tôi cứ tưởng anh là kẻ lúc nào cũng bảnh bao chải chuốt kể cả vào ngày nghỉ cuối tuần. Khi tôi tiến lại gần, anh nhìn tôi từ trên xuống dưới miệng hơi mỉm cười. “Vậy cũng có lúc cô mặc quần áo của thế kỷ hai mốt đấy chứ.”
“Rất hiếm khi.” Tôi toét miệng cười đáp lại.
“Tôi cứ đinh ninh là cô sẽ xuất hiện với một bộ váy thập niên hai mươi khác nữa. Trái lại, tôi lại kiếm được một món phụ kiện cho mình. Để đồng bộ với cô mà.” Anh lục túi áo khoác và rút ra một cái hộp nhỏ hình chữ nhật làm bằng bạc đã mòn vẹt. Anh bật nắp ra và tôi thấy một cỗ bài.
“Tuyệt quá!” tôi nói, ấn tượng. “Anh kiếm được ở đâu thế?”
“Đấu giá trên eBay.” Anh nhún vai. “Tôi luôn mang theo một bộ bài. Hàng năm 1925,” anh nói thêm, chìa cho tôi xem một cái dấu xác nhận nhỏ xíu.
Tôi không khỏi xúc động khi anh đã mất công đến thế.
“Tôi thích nó.” Tôi ngước lên khi chúng tôi tiến lên đến đầu hàng. Làm ơn cho hai vé người lớn. Để tôi trả,” tôi kiên quyết nói thêm khi Ed lôi ví ra. “Tôi là chủ nhà mà.”
Tôi mua vé và một cuốn sách tựa đề London lịch sử; và dẫn Ed tới một điểm ở trước tòa tháp.
“Đây, tòa tháp anh nhìn thấy trước mặt là Tháp London,” tôi mào đầu với cái giọng đầy hiểu biết của hướng dẫn viên du lịch. “Một trong những di tích cổ xưa và quan trọng nhất của chúng tôi. Một trong số rất, rất nhiều cảnh quan tuyệt diệu. Đến London mà không tìm hiểu nhiều hơn về những di sản tuyệt diệu của chúng tôi là phạm tội đấy.” Tôi nhìn Ed nghiêm khắc. “Như thế thật là thiển cận, hơn nữa các anh lại không hề có bất cứ thứ gì như vậy ở Mỹ.”
“Cô nói đúng.” Anh trông có vẻ bị trừng trị đích đáng khi nhìn bao quát tòa tháp. “Nó quả là ngoạn mục.”
“Nó chẳng tuyệt vời sao?” tôi nói hãnh diện.
Có những lúc được là người Anh là tuyệt nhất, và thời gian đi thăm một cái pháo đài to đùng có ý nghĩa lịch sử là một trong số đó.
“Vậy nó được xây từ hồi nào thế?” Ed hỏi.
“Ừm...” tôi ngó quanh tìm biển chỉ dẫn thông tin. Không có cái nào. Chết tiệt. Lẽ ra phải có một cái biển chứ. Tôi không thể cứ thế mà giở sách ra tra. Không phải lúc anh đang nhìn tôi chờ đợi thế này.
“Nó vào thời...” Tôi làm bộ vô tình quay đi và lúng búng cái gì đó không rõ ràng. “Thế kỷ mười...”
“Thế kỷ bao nhiêu?”
“Nó có từ...” tôi hắng giọng. “Thời Tudor [2]. Ờ... thời Stuart [3].”
“Ý cô là thời Norman [4]?” Ed gợi ý lịch sự.
[2] Một vương triều phong kiến của nước Anh (1485-1603).
[3] Một vương triều phong kiến của nước Anh (1603-1714).
[4] Thời kỳ nước Anh bị người Norman xâm chiếm (từ 1066).
“Ồ. Đúng thế, tôi đã định nói vậy.” Tôi ném sang anh một ánh mắt ngờ vực. Làm sao anh lại biết điều đó? Có phải là anh đã nghiên cứu trước không?
“Nào, ta đi lối này...” tôi tự tin dẫn Ed đi về phía trông có vẻ như chiến lũy, nhưng anh kéo tôi lại.
“Thật ra tôi nghĩ là lối vào ở đằng này, cạnh bờ sông.”
Vì Chúa. Rõ ràng anh thuộc tip đàn ông phải nắm quyền chủ động. Có lẽ anh cũng không bao giờ phải hỏi đường.
“Nghe này, Ed,” tôi nói ân cần. “Anh là người Mỹ. Anh chưa bao giờ tới đây. Ai mới là người có khả năng biết lối vào hơn, anh hay tôi?”
Đúng lúc đó thì một người canh gác tháp London đi qua và dừng lại cười thân thiện với chúng tôi. Tôi mỉm cười đáp lại, sẵn sàng hỏi anh ta lối nào mới là đúng, nhưng anh ta lại vui vẻ hỏi thăm Ed.
“Chào ông Harrison. Ông thế nào? Lại quay lại à?”
Gì thế?
Chuyện gì vừa xảy ra vậy? Ed biết những người gác tháp London ư? Làm sao Ed biết họ?
Tôi không nói nên lời khi Ed bắt tay người gác tháp London và nói, “Rất vui được gặp anh, Jacob. Giới thiệu với anh Lara.”
“Ơ... chào anh,” tôi thốt ra yếu ớt.
Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo đây? Nữ hoàng sẽ tới mời chúng tôi đi uống trà à?
“OK ” tôi lắp bắp ngay khi người gác tháp lại tiếp tục đi đường của anh ta. “Chuyện gì đang diễn ra thế?”
Ed nhìn vào mặt tôi một cái và cười phá lên.
“Nói tôi nghe đi!” tôi yêu cầu, và anh giơ hai tay lên vẻ hối lỗi.
“Tôi vô tội. Hôm qua tôi đã ở đây. Đó là một ngày làm việc dã ngoại xây dựng nhóm. Chúng tôi được trò chuyện với một vài người gác tháp London. Thú vị lắm.” Anh ngừng lại, rồi nói thêm, miệng tủm tỉm. “Đó chính là lý do vì sao tôi lại biết tháp này được xây dựng từ năm 1078. Theo lệnh William Nhà Chinh phạt. Và lối vào ở đằng này.”
“Anh có thể nói với tôi trước cơ mà!” tôi trừng mắt với anh.
“Tôi xin lỗi. Cô có vẻ hăng hái với ý tưởng đó quá và tôi nghĩ được đi quanh quanh với cô cũng rất tuyệt. Nhưng chúng ta có thể đi đâu đó khác. Cô hẳn đã xem cái này hàng triệu lần rồi. Nghĩ chỗ khác xem.” Anh lấy cuốn sách hướng dẫn London Lịch sử và bắt đầu tham khảo bảng chú dẫn.
Tôi phe phẩy hai tấm vé trong tay, nhìn một nhóm học sinh chụp ảnh cho nhau, cảm thấy giằng xé. Rõ ràng là anh đúng. Hôm qua anh đã tham quan tháp vậy thì việc quái gì chúng tôi lại phải đi quanh nó một lần nữa?
Mặt khác, bọn tôi lỡ mua vé mất rồi. Mà trông cái tháp thì thật tuyệt. Và tôi muốn xem nó.
“Chúng ta có thể đi thẳng tới St Paul’s.” Ed đang săm soi bản đồ tàu điện ngầm. “Sẽ không mất nhiều thời gian đâu...”
“Tôi muốn xem Crown Jewels,” tôi nói nhỏ.
“Gì cơ?” Anh ngẩng đầu lên.
“Tôi muốn xem Crown Jewels. Đằng nào giờ chúng ta cũng đã đến đây rồi.”
“Ý cô là... cô chưa bao giờ đi xem chúng?” Ed nhìn tôi nghi hoặc. “Cô chưa bao giờ đi xem Crown Jewels ư?”
“Tôi sống ở London mà!” tôi nói, bị chọc tức bởi vẻ mặt của anh. “Chuyện đó khác! Tôi có thể đi xem chúng bất kỳ lúc nào, khi có dịp. Chỉ là... chưa có dịp nào cả.”
“Lara, thế chẳng phải là hơi thiển cận sao?” Tôi có thể thấy là Ed rất khoái chuyện này. “Chẳng phải cô rất quan tâm tới di sản của thành phố vĩ đại của cô sao? Cô không nghĩ rằng bỏ qua những công trình tưởng niệm lịch sử, có một không hai này sẽ là phạm tội sao...”
“Im đi!” Tôi cảm thấy má mình đỏ lựng lên.
Ed dịu lại. “Thôi nào. Để tôi chỉ cho cô thấy Crown Jewels đẹp đẽ của đất nước cô nhé. Chúng tuyệt lắm. Tôi biết toàn bộ về chúng. Cô có biết rằng những vật cổ xưa nhất có từ thời Khôi phục không?”
“Thật sao?”
“Đúng thế.” Anh bắt đầu dẫn tôi đi qua đám đông. “Imperial Crown of State có một viên kim cương khổng lồ, cắt ra từ viên kim cương Cullinan nổi tiếng, viên kim cương lớn nhất từng đào được.”
“Úi trời,” tôi nói lịch sự. Rõ ràng là Ed đang nhớ lại toàn bộ bài thuyết giảng về Crown Jewels ngày hôm qua.
“Đúng.” Anh gật đầu. “Ít ra, cả thế giới vẫn đinh ninh là vậy mãi tới năm 1997. Khi nó được phát hiện ra là đồ giả.”
“Thật sao?” Tôi ngừng sững lại. “Nó là giả ư?”
Miệng Ed tủm tỉm. “Chỉ để kiểm tra xem cô có nghe không thôi mà.”
Chúng tôi xem những món đồ trang sức đó rồi những con quạ và Tháp Trắng cũng như Cái Tháp Chết Tiệt Gì Đó. Thật ra là tất tần tật các tháp. Ed cứ khăng khăng giữ cuốn sách hướng dẫn và đọc to các sự kiện lên suốt cả quãng đường. Một số điều là đúng, một số thì đúng là nhăng nhít và một số... Tôi không dám chắc. Khuôn mặt anh hoàn toàn không một chút biểu hiện gì khác ngoại trừ một ánh lóe lên rất nhỏ trong mắt và nói thật là chẳng làm thế nào mà biết được.
Khi chúng tôi kết thúc tua Vệ binh Hoàng gia, đầu tôi quay cuồng với những hình ảnh mường tượng về những kẻ phản bội và nhục hình, và tôi thấy mình không cần phải nghe thêm bất cứ điều gì về phần Khi những cuộc xử tử trở nên sai lầm khủng khiếp, không một lần nào nữa. Chúng tôi đi lang thang qua Cung điện Trung cổ, ngang qua hai anh chàng mặc trang phục Trung cổ đang viết chữ Trung cổ (tôi đoán thế), lọt vào một căn phòng có những cửa sổ lâu đài bé tẹo và một cái lò sưởi to đùng.
“OK, anh chàng thông thái. Nói cho tôi biết về cái tủ chén đi.” Tôi chỉ ngẫu nhiên vào một cánh cửa nhỏ, chả có gì đặc biệt gắn trên tường. “Walter Raleigh đã trồng khoai tây ở đó hay ở chỗ nào khác nhỉ?”
“Để xem nào.” Ed tham khảo cuốn sách hướng dẫn. “À, đúng rồi. Đây là nơi Công tước thứ bảy xứ Marmaduke cất các bộ tóc giả. Một nhân vật lịch sử thú vị, ông ta đã chém đầu nhiều người vợ của mình. Những người khác ông ta để đóng băng trong hầm lạnh. Ông ta cũng chế tạo ra phiên bản Trung cổ của máy nổ bỏng ngô hay là poppecorn, như ta biết đến.”
“Ồ vậy sao?” Tôi lấy giọng nghiêm trọng.
“Hiển nhiên là cô đã biết về máy nổ bỏng ngô đời 1583.” Ed liếc cuốn sách hướng dẫn. “Hình như Shakespeare suýt nữa đặt tên Much Ado About Nothing là Much Ado About Ye Poppecorn.”
Cả hai chúng tôi đều nhìn chằm chằm vào cái cửa gỗ sồi bé tẹo đó, sau một lát, một cặp vợ chồng già mặc áo jacket không thấm nước gia nhập với chúng tôi.
“Đó là một cái tủ đựng tóc giả,” Ed nói với người phụ nữ, mặt bà ta sáng lên vì thích thú. “Người làm tóc giả bị bắt phải sống trong cái tủ cùng với những bộ tóc giả của ông ta.”
“Thật sao?” Mặt người phụ nữ lớn tuổi xịu xuống. “Thật khủng khiếp!”
“Không hẳn,” Ed nói trang nghiêm. “Vì người làm tóc giả đó rất nhỏ.” Anh bắt đầu mô tả bằng tay. “Tí hon. Bà biết không, từ ‘tóc giả’ xuất phát từ cụm từ ‘người lùn trong tủ’.”
“Thật sao?” Người phụ nữ tội nghiệp trông có vẻ hoang mang và tôi thúc mạnh vào sườn Ed.
“Chúc chuyến thăm viếng vui vẻ,” anh duyên dáng nói, và chúng tôi đi tiếp.
“Anh xấu tính thật!” tôi nói ngay khi vừa ra khỏi tầm nghe. Ed nghĩ về câu đó một lát rồi toét miệng cười cầu hòa.
“Có lẽ tôi thế thật. Khi tôi đói. Cô có muốn ăn trưa chút không? Hay đi xem Bảo tàng Fusiliers?”
Tôi lưỡng lự vẻ ngẫm nghĩ, như thể đang cân nhắc hai lựa chọn đó xem thế nào. Ý tôi là chẳng ai có thể thích thú với di sản của mình hơn tôi. Nhưng vấn đề với bất cứ một cuộc đi tham quan nào là sau một lúc nó biến thành một cuộc lê bước tham quan và tất cả mọi di sản đều trở thành những bậc thang đá ngoằn ngoèo, những lỗ châu mai mờ mờ và những câu chuyện chặt đầu bêu cọc.
“Chúng ta có thể đi ăn trưa,” tôi nói làm như không chủ định. “Nếu giờ anh đã cảm thấy tham quan đủ rồi.”
Mắt Ed lòe lên. Tôi có cảm giác chưng hửng là anh đã đi guốc vào bụng tôi. “Khả năng tập trung của tôi rất thấp,” anh nói, chả biểu lộ cảm xúc gì. “Là người Mỹ mà. Vì vậy có lẽ chúng ta nên đi ăn.”
Chúng tôi đi tới một quán cà phê có phục vụ những món như xúp hành Georgia và thịt lợn rừng hầm nồi đất. Ed cứ nằng nặc đòi trả tiền vì tôi đã mua vé, và chúng tôi tìm được một cái bàn ở góc cạnh cửa sổ.
“Vậy anh còn muốn đi xem chỗ nào khác ở London nữa?” tôi nói nhiệt tình. “Trong danh sách của anh còn chỗ nào khác nữa?”
Ed nhăn mặt và đột nhiên tôi ước là mình chưa hề nói ra câu đó. Danh sách tham quan của anh hẳn phải là chỗ đau.
“Xin lỗi,” tôi nói lung túng. “Tôi không định làm anh nhớ lại...”
“Không! Không sao mà.” Anh xem xét cái đĩa đầy của mình một lát như thể đang giằng co xem có nên ăn hay không. “Cô biết gì không? Cô đã đúng, điều cô nói hôm trước ấy. Chuyện chết giẫm xảy ra, rồi người ta vẫn phải sống tiếp. Tôi thích câu nói của bố cô về cái thang cuốn. Tôi đã nghĩ về điều đó từ hôm chúng ta nói chuyện. Tiến tới và đi lên.” Anh đưa chiếc nĩa vào miệng.
“Thật sao?” Tôi không khỏi xúc động. Tôi phải kể với bố mới được.
“Ừm hừm.” Anh nhai một lúc, rồi nhìn tôi dò hỏi. “Mà... cô cũng bảo là cô đã chia tay. Chuyện đó xảy ra khi nào vậy?”
Thứ Sáu. Chưa đầy bốn mươi tám tiếng trước. Thậm chí chỉ cần nghĩ tới chuyện đó thôi cũng đủ khiến tôi muốn nhắm mắt lại mà rền rĩ rồi.
“Được... một thời gian rồi.” Tôi nhún vai. “Anh ấy tên Josh.”
“Và chuyện gì đã xảy ra? Tôi muốn hỏi nếu cô không phiền.”
“Không, đương nhiên là không rồi. Chỉ là... tôi nhận ra... chúng tôi không...” tôi ngừng sững lại, với một tiếng thở dài nặng nề, và ngước lên. “Đã bao giờ anh cảm thấy thật sự, thật sự ngu ngốc chưa?”
“Chưa bao giờ.” Ed lắc đầu. “Mặc dù đã có lần tôi cảm thấy thật sự, thật sự, thật sự ngu ngốc.”
Tôi không khỏi mỉm cười một thoáng. Nói chuyện với Ed làm mọi chuyện sáng sủa ra một chút. Tôi không phải là người duy nhất trên đời này cảm thấy mình giống một con ngốc. Và ít ra thì Josh cũng không ăn ở hai lòng với tôi. Ít ra thì kết cục tôi cũng không bị bỏ lại một mình ở một thành phố lạ.
“Này, chúng ta làm điều gì đó nằm ngoài danh sách của anh đi,” tôi buột mồm nói. “Tới tham quan địa điểm nào đó không có trong kế hoạch của anh ấy. Có chỗ nào không?”
Ed bẻ một mẩu bánh mì, ngẫm nghĩ.
“Corinne không muốn tới Con mắt London,” cuối cùng anh nói. “Cô ấy sợ độ cao và cô ấy nghĩ nó hơi bị ngớ ngẩn.”
Tôi đã biết là tôi không thích cô nàng này mà. Làm sao lại có người có thể nghĩ rằng Con mắt London là ngớ ngẩn được?
“Vậy sẽ là Con mắt London,” tôi nói dứt khoát. “Rồi có lẽ kế tiếp sẽ là cà phê Starbucks cổ truyền? Nó là một phong tục truyền thống của người Anh, rất lạ.”
Tôi đợi Ed bật cười, nhưng anh chỉ nhìn tôi với ánh mắt đánh giá trong khi ăn bánh mì.
“Cà phê Starbucks. Thú vị thật. Cô không tới Cà phê Lingtons sao?”
À, ra thế. Vậy là anh ta đã tìm hiểu.
“Thi thoảng. Tùy.” Tôi nhún vai phòng vệ. “Vậy... anh đã biết tôi có họ hàng.”
“Tôi đã bảo cô rồi mà, tôi đã hỏi thăm về cô.”
Mặt anh bình thản. Anh không làm những việc mà người ta thường làm khi biết về chú Bill, kiểu như nói “Ôi trời, thật đáng kinh ngạc, ông ấy ngoài đời thế nào?”
Tôi chợt nhớ ra là Ed làm ăn lớn. Hẳn là theo cách nào đó anh đã tình cờ biết chú Bill.
“Vậy, anh nghĩ gì về chú tôi?” tôi hỏi nhẹ nhàng.
“Cà phê Lingtons là một hãng làm ăn tốt,” anh đáp. “Lợi nhuận lớn. Rất hiệu quả.”
Anh lảng tránh câu hỏi. “Còn chú Bill thì sao?” tôi gặng hỏi. “Anh đã bao giờ gặp chú ấy chưa?”
“Có, tôi gặp rồi.” Anh tợp ngụm rượu. “Và tôi nghĩ Hai Đồng Xu Nhỏ là một trò câu khách rẻ tiền. Xin lỗi.”
Tôì chưa từng nghe ai nói xấc xược như thế về chú Bill, chưa có ai nói thẳng vậy vào mặt tôi. Chuyện này hơi bị thú vị đây.
“Không phải xin lỗi,” tôi nói ngay. “Cứ nói những gì anh nghĩ ấy. Nói tôi nghe đi.”
“Điều tôi nghĩ là... như chú của cô thì triệu người chỉ có một. Và tôi chắc là còn có rất nhiều nhân tố khác đã làm nên sự thành công của ông ta. Nhưng đó không phải là thông điệp ông ta đang bán ra. Ông ta đang bán ra thông điệp ‘Chuyện đó dễ lắm! Hãy trở thành một triệu phú như tôi đây này!’ ” Ed nói cộc lốc, giận dữ. “Những người duy nhất tới các buổi hội thảo đó là những kẻ ảo tưởng tự lừa dối mình, và kẻ duy nhất kiếm được tiền là chú cô. Ông ta khai thác biết bao nhiêu con người tuyệt vọng, chán nản. Chỉ là một ý kiến thôi.”
Ngay cái lúc anh vừa nói ra tất cả những điều đó, tôi đã biết là anh nói đúng. Tôi nhớ lại những người ở buổi hội thảo Hai Đồng Xu Nhỏ. Một số đã đi hàng dặm. Một số trông đúng là tuyệt vọng thật. Và nó không giống một buổi hội thảo không tốn tiền chút nào.
“Tôi đã có lần tới một buổi hội thảo ban ngày của chú ấy,” tôi thú nhận. “Chỉ để xem nó nói về cái gì thôi mà.”
“Ồ vậy sao. Và cô có ngay lập tức kiếm được một tài sản kếch xù không?”
“Đương nhiên rồi! Anh không nhìn thấy chiếc limo của tôi lần trước à?”
“Ồ, ra là của cô. Tôi cứ ngỡ là cô sẽ sử dụng trực thăng riêng cơ.” Chúng tôi cùng toét miệng cười. Tôi không thể tin được là tôi đã gọi Ed là Ngài Người Mỹ Cau Có. Anh không hay cau có lắm. Và khi anh cau có, luôn là anh đang nghĩ ra điều ngộ nghĩnh gì đó để nói. Anh rót cho tôi thêm chút rượu vang và tôi ngả người ra sau, thưởng thức cảnh tòa tháp, cảm giác nóng sực do rượu mang lại và viễn cảnh phía trước của ngày hôm nay.
“Vậy tại sao anh lại mang theo những lá bài?” tôi nói, quyết định đã đến lượt mình khơi mào. “Anh định chơi bài paxiên suốt buổi hôm nay hay sao?”
“Chơi pôkơ. Nếu tôi tìm được ai chơi cùng. Cô hẳn là chơi pôkơ cừ lắm đây,” anh nói thêm.
“Tôi chơi tệ kinh khủng!” tôi phủ nhận, “Tôi dở ẹc về mấy chuyện bài bạc và...” tôi ngừng lại khi Ed lắc đầu.
“Pôkơ không phải là bài bạc. Nó là khả năng đọc được ý nghĩ của mọi người. Những quyền năng đọc tâm trí bằng ngoại cảm từ phương Đông của cô sẽ có ích đấy.”
“À ra vậy.” Tôi đỏ mặt. “Ờ, quyền năng của tôi hình như là đã rời bỏ tôi rồi.
Ed nhướng mày. “Cô không lừa đảo tôi đấy chứ, cô Lington?”
“Không!” Tôi bật cười. “Thật sự là vậy! Tôi hoàn toàn chỉ là kẻ mới tập tọng vào nghề thôi.”
“Được rồi.” Anh chao cỗ bài điệu nghệ. “Tất cả những gì cô cần biết là, những người chơi khác có những quân bài đẹp hay xấu? Đơn giản thế thôi. Vì vậy cô hãy nhìn vào mặt các đối thủ. Và cô tự hỏi mình, ‘Có chuyện gì đang diễn ra phải không?’ Và cuộc chơi là thế.”
“ ‘Có chuyện gì đang diễn ra phải không?’ ” tôi nhắc lại. “Và làm cách nào anh biết được?”
Ed chia cho mình ba quân bài và liếc nhìn chúng. Rồi anh nhìn tôi chằm chằm. “Đẹp hay xấu?”
Ôi Chúa ơi. Tôi đâu có biết. Mặt anh không biểu hiện một chút gì. Tôi nhìn vầng trán phẳng lì của anh, những đường li ti quanh mắt, dấu vết của râu chưa cạo ngày cuối tuần, khi tìm manh mối. Có một tia lóe lên trong mắt anh, nhưng nó có thể có nhiều ý nghĩa.
“Chịu,” tôi bất lực nói. “Tôi nghiêng về... đẹp.”
Ed trông có vẻ thích thú. “Những quyền năng phương Đông của cô đã thật sự bỏ rơi cô rồi. Chúng thật kinh khủng.” Anh cho tôi xem quân bài thấp nhất. “Giờ đến lượt cô.” Anh lại chao bài lần nữa, chia quân bài và nhìn tôi nhấc lên.
Tôi có quân ba nhép, bôn cơ, và át pích! Tôi xem xét kỹ, rồi ngước lên với vẻ mặt bí hiểm nhất.
“Thư giãn đi,” Ed nói. “Đừng có cười.”
Đương nhiên rồi, anh nói tôi mới thấy miệng mình đang tủm tỉm...
“Bộ mặt cô khi chơi pôkơ thật kinh khủng,” Ed nói. “Cô có biết điều đó không?”
“Anh đang làm tôi sao nhãng!” Miệng tôi lại hơi vặn vẹo một chút, cố nén không bật cười. “Được rồi, vậy tôi có gì nào?”
Đôi mắt nâu sậm của Ed dán chặt vào mắt tôi. Cả hai chúng tôi cùng tuyệt đôi im lặng và không động đậy, nhìn nhau chằm chằm. Sau vài giây tôi có cảm giác nhồn nhộn kỳ quái ở bụng. Cảm giác... lạ lắm. Quá thân thiết. Giống như anh có thể hiểu được về tôi nhiều hơn anh nên thế. Giả bộ ho, tôi dứt ra và quay đi. Tôi uống một ngụm rượu và nhìn lại thì thấy Ed cũng đang nhấp rượu.
“Cô có một quân bài cao, có lẽ là quân át,” anh nói thản nhiên. “Và hai quân thấp.”
“Không!” Tôi đặt các quần bài xuống. “Làm sao anh biết?”
“Mắt cô vọt ra khỏi tròng khi cô nhìn thấy quân át.” Ed nói nghe khoái chí. “Nó quá rõ ràng. Giống như ‘Úi chà! Một quân cao!’ Rồi cô nhìn sang phải và trái như thể đang tự tố giác mình vậỵ. Rồi cô đặt bàn tay lên quân bài cao và nhìn tôi với ánh mắt ranh mãnh.” Giờ anh mới bắt đầu cười. “Nhớ nhắc tôi đừng đưa cho cô giữ bất cứ bí mật quốc gia nào trong thời gian tới nhé.”
Tôi không thể tin nổi. Tôi cứ nghĩ mình đã bí hiểm lắm cơ.
“Nhưng, nói nghiêm túc.” Ed lại bắt đầu chao bài. “Cái mánh đọc trí bằng ngoại cảm của cô. Nó đều dựa trên sự phân tích những đặc điểm hành vi, đúng không nào?”
“Ờ... đúng thế,” tôi nói vẻ cảnh giác.
“Thế thì nó không thể rời bỏ cô được. Hoặc là cô biết chuyện đó hoặc là không. Vậy thì đã có chuyện gì thế Lara? Chuyện là thế nào?”
Anh nhoài về phía trước vẻ chăm chú như thể đang chờ câu trả lời. Tôi cảm thấy hơi bị vạch trần. Tôi không quen với cái kiểu bị đưa vào tầm ngắm thế nàỵ. Nếu anh là Josh, hẳn tôi đã có thể đánh tháo một cách dễ dàng. Josh luôn hiểu mọi chuyện chỉ qua giá trị bề ngoài. Anh hẳn đã nói “Đúng rồi, cưng ạ” và tôi hẳn có thể nhanh chóng chuyển qua chủ đề khác và anh sẽ không bao giờ đặt câu hỏi về chuyện đó hoặc nghĩ lại về chuyện đó...
Vì Josh chưa bao giờ thực sự quan tâm đến tôi.
Điều đó chợt giội xuống tôi như một gáo nước lạnh. Một sự thấu hiểu nhục nhã, cuối cùng, ngay lập tức làm xuất hiện cảm giác và tiếng ngân vang của sự thật. Suốt thời gian bên nhau, Josh chưa bao giờ thử thách tôi, chưa bao giờ làm khó tôi, hầu như chẳng nhớ những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống của tôi. Tôi cứ nghĩ rằng chỉ là do anh vốn dễ tính và thoải mái. Tôi yêu anh vì điều đó. Tôi đã xem nó như một ưu điểm. Nhưng giờ thì tôi đã hiểu hơn. Sự thật là anh thoải mái vì anh không thật sự quan tâm. Không quan tâm tới tôi. Dù có cũng là không đủ.
Tôi cảm thấy như cuối cùng mình cũng đã bước ra khỏi một cơn mê. Tôi quá mải mê đeo đuổi anh, quá tuyệt vọng, quá chắc chắn về mình, tôi không bao giờ nhìn kỹ cái mà tôi đang đeo đuổi. Tôi không bao giờ dừng lại để hỏi xem liệu anh có đúng là câu trả lời. Tôi đúng là một con ngốc.
Tôi ngước lên thì bắt gặp đôi mắt thẫm, thông minh của Ed vẫn say sưa quan sát tôi. Bỗng dưng tôi chợt cảm thấy một cảm giác hồ hởi kỳ lạ rằng anh, một người mà tôi hầu như chưa hiểu rõ, muốn tìm hiểu nhiều hơn nữa về tôi. Tôi có thể thấy điều đó trên gương mặt anh: anh không hỏi chỉ để hỏi. Anh thật lòng muốn biết sự thật.
Chỉ có điều tôi không thể nói với anh. Hiển nhiên là vậy.
“Chuyện đó... khá là tế nhị rất khó giải thích. Khá là phức tạp.”
Tôi uống cạn ly rượu của mình, bỏ tọt miếng bánh cuối cùng vào miệng và cười tươi rói với Ed hòng đánh lạc hướng. “Đi nào. Chúng ta tới Con mắt London thôi.”
Khi chúng tôi tới Bờ Nam, nơi đây đã rộn ràng tiếng khách du lịch chiều thứ Bảy, người hát rong, quầy bán sách cũ và rất nhiều tượng sống vốn luôn làm tôi hơi sợ mất vía. Con mắt London lượn vòng tròn giống như một cái đu quay, và tôi có thể thấy mọi người trong từng cái lồng trong suốt, nhìn xuống chúng tôi. Tôi thật sự khá là phấn khích. Tôi mới tới Con mắt London có một lần và đó là khi làm một công việc với rất nhiều người say bét nhè đáng ghét.
Một ban nhạc jazz đang chơi một bản nhạc cũ của thập niên hai mươi trước đám khán giả, và khi chúng tôi đi qua tôi không khỏi trao đổi ánh mắt với Ed. Anh nhảy hai bước của điệu Charleston còn tôi xoắn chuỗi hạt kéo về phía anh.
“Cừ lắm!” một anh chàng có râu đội mũ tiến lại phía chúng tôi với một cái xô xin tiền. “Các bạn có thích nhạc jazz không?”
“Có,” tôi nói trong khi lục túi lấy tiền.
“Chúng tôi thích nhạc của thập niên 1920,” Ed nói dứt khoát và nháy mắt với tôi. “Chỉ nhạc thập niên hai mươi thôi, phải không Lara?”
“Chúng tôi sẽ tổ chức một buổi nhạc jazz ngoài trời tại vườn Jubilee vào tuần tới,” anh chàng đó hăm hở nói. “Anh chị có muốn mua vé không? Anh chị mua bây giờ sẽ được giảm mười phần trăm.”
“Chắc chắn rồi,” Ed nói, sau khi liếc tôi một cái. “Tại sao không nhỉ?”
Anh đưa tiền cho anh chàng kia, lấy hai vé và chúng tôi đi tiếp.
“Vậy,” Ed nói sau một lát. “Chúng ta có thể tới buổi nhạc jazz này... cùng nhau. Nếu cô muốn.”
“Ờ... vâng. Tuyệt. Tôi thích mà.”
Anh đưa cho tôi một tấm vé và tôi hơi lóng ngóng đút nó vào túi. Chúng tôi im lặng bước đi một lúc, cố hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Có phải anh đang đề nghị tôi hẹn hò không? Hay đây chỉ là tham quan mở rộng? Hoặc... gì nhỉ? Chúng tôi đang làm gì vậy?
Tôi đoán Ed cũng đang nghĩ y như vậy, vì khi chúng tôi nhập dòng người xếp hàng vào Con mắt, đột nhiên anh nhìn tôi với vẻ mặt hơi thích thú.
“Này Lara. Cho tôi biết chuyện này nhé.”
“Ờ... OK.” Ngay lập tức tôi cảm thấy hồi hộp. Anh lại sắp hỏi tôi về vụ ngoại cảm đây.
“Tại sao cô lại đột ngột xông vào văn phòng tôi?” Trán anh nhăn lại hài hước. “Tại sao cô lại đề nghị hẹn hò với tôi?”
Còn tệ hơn gấp triệu lần. Tôi biết phải nói sao đây?
“Đó là... một câu hỏi hay,” tôi đánh trống lảng. “Và... và tôi cũng có một câu muốn hỏi anh. Tại sao anh lại tới? Anh có thể cho tôi leo cây mà?”
“Tôi biết.” Ed trông có vẻ bối rối. “Cô muốn biết sự thật à? Nó cứ lờ mờ thế nào đó. Tôi không thể giải mã được quá trình tư duy của chính mình. Một cô gái lạ xuất hiện trong văn phòng của tôi. Giây lát sau tôi đã nhận lời hẹn hò với cô ta.” Anh quay sang nhìn tôi. “Thôi nào. Hẳn cô phải có lý do nào đó chứ. Cô đã từng thấy tôi quanh đó hay đại loại thế đúng không?”
Có chút sắc thái hy vọng trong giọng anh. Giống như anh đang hy vọng được nghe thấy điều gì đó sẽ làm cho ngày hôm nay của anh vui hơn. Đột nhiên tôi thấy tội lỗi kinh khủng. Anh không hề biết là đã bị lợi dụng.
“Đó là... một lời thách đố với một người bạn.” Tôi nhìn chằm chằm qua vai anh. “Tôi không biết tại sao mình lại làm thế.”
“Ra vậy.” Giọng anh vẫn thoải mái như trước. “Vậy ra tôi chỉ là một sự thách thức ngẫu nhiên. Nghe có vẻ không lý thú lắm đối với lũ cháu nội. Tôi sẽ kể cho chúng nghe là cô đã được người ngoài hành tinh gửi đến cho tôi. Ngay khi tôi kể cho chúng nghe về những bộ tóc giả của Công tước Marmaduke.”
Tôi biết là anh đang đùa, tôi biết tất cả chuyện này chỉ là một trò đùa. Nhưng khi liếc lên tôi có thể thấy điều đó trên mặt anh. Tôi có thể thấy sự ấm áp. Anh đã có cảm tình với tôi. Không, gạch câu đó đi, anh nghĩ là anh đang có cảm tình với tôi. Nhưng tất cả chỉ là giả. Tất cả đều là nhầm lẫn. Nó chỉ là một trò múa rối khác mà thôi. Anh đang bị Sadie điều khiển như Josh từng bị. Không một điều gì là thật, không một điều gì có ý nghĩa cả...
Đột nhiên tôi cảm thấy buồn bực đến nực cười. Tất cả chuyện này là do lỗi của Sadie. Cô đi tới đâu gây rắc rối tới đó. Ed thật sự, thật sự là một anh chàng dễ thương và anh đã bị lừa thế đủ rồi và cô đã cực kỳ quá trớn với anh và thế là không công bằng...
“Ed.” Tôi nuốt nước bọt.
“Gì cơ?”
Ôi Chúa ơi. Tôi nói gì đây? Không phải anh đang hẹn hò với tôi, anh đang hẹn hò với một con ma, cô ta đã chi phối đầu óc anh, cô ta giống như loại ma túy gây ảo giác không hề khiến người ta hưng phấn...
“Có lẽ anh nghĩ rằng anh thích tôi. Nhưng không phải thế.”
“Tôi thích.” Anh bật cười. “Tôi thật sự thích cô.”
“Anh không thích tôi.” Tôi đánh vật ở chỗ này. “Anh không tự mình nghĩ vậỵ. Ý tôi là... chuyện này không có thật.”
“Cảm giác khá là thật đối với tôi.”
“Tôi biết là vậy. Nhưng... anh không hiểu đâu...” tôi ngừng sững lại, cảm thấy bất lực. Một khoảnh khắc im lặng - rồi đột ngột Ed đổi nét mặt.
“Ồ. Tôi hiểu rồi.”
“Anh hiểu?” tôi nói ngờ vực.
“Lara, cô không cần phải làm tôi nhụt chí với một cái cớ nào đó.” Nụ cười của anh trở nên châm biếm. “Nếu cô đã thấy đủ rồi thì cứ nói. Chiều này tôi có thể đi một mình. Hôm nay rất thú vị và tôi lấy làm cảm kích về thời gian đi với cô, cảm ơn cô rất nhiều…”
“Không!” tôi nói thất vọng. “Đừng nói thế! Không phải là tôi đang cố trốn về đâu! Hôm nay tôi thật sự rất vui. Và tôi muốn leo lên Con mắt London.”
Mắt Ed quét khắp mặt tôi, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, như máy phát hiện nói dối vậy.
“Ờ, tôi cũng vậy,” cuối cùng anh nói.
“Ờ... tốt.”
Chúng tôi mải mê nói chuyện đến độ không nhận thấy khoảng trống giữa chúng tôi với hàng người phía trước ngày càng rộng.
“Tiến lên đi nào!” Anh chàng đằng sau đột ngột thúc tôi. “Sắp đến cô rồi đấy!”
“Ồ!” Tôi sực tỉnh ra. “Nhanh lên, sắp đến chúng ta rồi!” Tôi chộp lấy tay Ed và chúng tôi toét miệng cười với nhau, tất cả sự ngượng nghịu đã biến mất.
“OK, ngài Harrison.” Tôi trở lại với cái giọng hướng dẫn viên du lịch. “Giờ chúng ta sẽ được nhìn ngắm London.”
Thật tráng lệ. Tôi muốn nói là cực kỳ tráng lệ.
Chúng tôi đã lên tới điểm chóp và ngắm cả thành phố trải dài ra bên dưới như cuốn sách Từ A đen Z [5] hiện ra trong đời thực. Chúng tôi nhìn xuống những con người bé tí đang nhốn nháo bên dưới như đàn kiến, bước vào những cái ô tô con kiến và xe buýt con kiến. Tôi chỉ về phía Thánh đường St Paul, Cung điện Buckingham và tháp Big Ben vẻ rành rẽ lắm. Giờ thì tôi được đảm trách cuốn sách hướng dẫn London Lịch sử. Nó không có phần về Con mắt London nhưng dù vậy tôi vẫn cứ đọc lên các chi tiết trong đó, là do tôi bịa ra.
[5] Cuốn sách A-Z London Street Atlas.
“Cái lồng làm bằng titan trong suốt nấu chảy từ kính mắt,” tôi nói cho Ed biết. “Nếu bị ném xuống nước, mỗi cái lồng sẽ tự động chuyển thành một tàu ngầm sẵn sàng hoạt động.”
“Hẳn là phải thế rồi.” Anh gật đầu, nhìn chằm chằm ra bên ngoài lớp kính.
“Mỗi cái lồng có thể ở dưới nước mười ba tiếng...” tôi nói nhỏ dần. Tôi có thể thấy anh không thật sự nghe. “Ed?”
Anh quay người lại đối diện với tôi, lưng xoay lại với lớp tường kính của cái lồng. Khi chúng tôi được đưa lên, nắng đã tắt và những đám mây xám đặc đang tụ lại trên đầu.
“Cô có muốn biết điều này không, Lara?” Anh liếc quanh để xem chắc là không có ai đang nghe nhưng mọi người khác trong lồng đều đang dồn cả về phía bên kia để xem một chiếc thuyền cảnh sát chạy trên sông Thames.
“Có thể,” tôi cảnh giác nói. “Nếu đó là một bí mật thật sự quan trọng và tôi không được để lộ thì thôi.”
Mặt Ed hơi rung vì mỉm cười. “Cô đã hỏi tôi tại sao tôi lại đồng ý hẹn hò lần đầu tiên với cô.”
“Ồ. Chuyện đó. Ờ, cũng không quan trọng lắm đâu,” tôi vội nói. “Đừng cảm thấy là anh phải nói với tôi...”
“Không. Tôi muốn nói với cô. Nó... kỳ lắm.” Anh ngừng lại. “Tôi cảm thấy như thể có thứ gì đó trong đầu tôi nói với tôi là hãy trả lời đồng ý. Tôi càng cưỡng lại, nó càng hét to hơn. Cô có hiểu thế có nghĩa là sao không?”
“Không,” tôi nói như chảo chớp. “Không chút nào. Tôi không hiểu. Có lẽ đó là... Chúa.”
“Có lẽ vậy.” Anh chợt bật cười khe khẽ. “Có thể tôi là Moses mới.” Anh ngập ngừng. “Vấn đề là, tôi chưa bao giờ cảm thấy một sự thôi thúc, hay một giọng nói, hay là gì cũng được, dữ dội đến thế bao giờ. Hầu như khiến tôi phải đầu hàng.” Anh tiến lên thêm một bước, nói nhỏ hơn. “Và dù đó là bản năng gì - dù nó xuất phát từ một nơi sâu thẳm nào đó - thì nó đã đúng. Dành thời gian ở bên cô hẳn là điều thú vị nhất tôi có thể làm. Tôi có cảm giác giống như vừa thức dậy từ một giấc mơ hay miền quên lãng... và tôi muốn cảm ơn cô.”
“Tôi cũng mong là thế.” Giọng anh có ý tứ gì đó và tôi cảm thấy hơi xao động trước ánh mắt đăm đắm của anh.
“Vậy... ừm... anh có muốn nghe sách hướng dẫn thêm nữa không?” tôi lật nhanh qua các trang.
“Hẳn rồi.” Mắt Ed không rời khỏi mắt tôi.
“Cái lồng là... ừm...” Tôi không thể tập trung vào điều mình đang nói. Tim tôi bắt đầu đập nhanh hơn một chút. Mọi thứ chợt như sáng bừng lên. Tôi nhận thức được từng cử động của mình.
“Trục quay chuyển động... nó quay tròn...” Tôi đang lảm nhảm. Tôi gập sách lại và nhìn thẳng vào mắt Ed, cố gắng chọi lại vẻ mặt bình thản của anh; cố ra vẻ như chẳng có chuyện gì khiến tôi phải lo lắng cả.
Có điều có khá nhiều thứ đang khiến tôi lo lắng. Cảm giác nóng giần giật dồn lên mặt tôi. Tóc gáy tôi dựng đứng. Cái kiểu mắt Ed nhìn xoáy vào mắt tôi giống như muốn đi thẳng vào vấn đề, khiến tôi cảm thấy nhức nhối.
Sự thật là anh đang làm cả người tôi nhức nhối.
Tôi không hiểu làm sao trước đây tôi lại từng nghĩ trông anh chẳng đẹp trai chút nào. Chắc hẳn là lúc đó tôi bị mờ mắt.
“Có chuyện gì phải không?” Ed nói nhẹ nhàng.
“Tôi... tôi không biết nữa.” Tôi hầu như không nói nổi. “Có chuyện gì phải không?”
Anh đưa một bàn tay lên cằm tôi và chụm lại giữ lấy nó một lúc như thể khảo sát địa hình. Rồi anh ngả về trước, nhẹ nhàng dùng hai tay nâng mặt tôi lên tới sát mặt anh và hôn tôi. Miệng anh ấm và ngọt ngào và râu của anh cọ vào da tôi song anh chẳng để ý và... ôi Chúa ơi. Đúng rồi cứ thế đi. Tất cả những cảm giác nhoi nhói trong tôi chuyển thành cảm giác thôi thúc nhảy múa, hát ca. Khi anh vòng tay quanh người tôi và kéo tôi lại sát hơn, hai ý nghĩ chợt nảy ra trong óc tôi.
Anh thật khác so với Josh.
Anh thật tuyệt.
Ngay lúc này tôi chả nghĩ gì nhiều nữa. Ít ra thì cũng không thể thật sự gọi chúng là suy nghĩ được, mà là những khao khát thèm muốn thì đúng hơn.
Cuối cùng Ed dứt ra, hai tay vẫn đỡ lấy gáy tôi.
“Em biết không... cái này không nằm trong kế hoạch hôm nay,” anh nói. “Nếu em đang thắc mắc.”
“Cũng không có trong kế hoạch của em,” tôi hổn hển. “Không hề.”
Anh lại hôn tôi, và tôi nhắm mắt lại, khám phá miệng anh bằng miệng mình, hít lấy hương thơm của anh, tự hỏi vòng quay Con mắt London này sẽ kéo dài bao lâu. Như thể đọc được suy nghĩ của tôi, Ed buông tôi ra.
“Có lẽ chúng ta nên ngắm lại cảnh này thêm lần nữa,” anh nói, khẽ bật cười. “Rồi hẵng xuống đất.”
“Em nghĩ nên thế.” Tôi ngại ngần mỉm cười với anh. “Rốt cuộc thì chúng ta cũng đã trả tiền mà.”
Tay khoác tay, chúng tôi quay ra đối diện với cái tường trong suốt của cái lồng. Và tôi hét lên vì sợ.
Lơ lửng bên ngoài lồng, nhìn vào trong với cặp mắt hình viên đạn sắp nổ tung là Sadie.
Cô đã nhìn thấy chúng tôi. Cô đã thấy chúng tôi hôn nhau.
Khỉ thật. Ôi... khỉ thật. Tim tôi đột nhiên đập thình thịch. Khi tôi run lên vì kinh hoàng, cô xuyên qua lớp tường trong suốt, hai cánh mũi bạnh ra, mắt lóe lên, khiến chân tôi loạng choạng lùi lại như thể thật sự nhìn thấy một con ma đáng sợ vậy.
“Lara?” Ed nhìn tôi chằm chằm vì sốc. “Lara, có chuyện gì thế?”
“Sao cô dám?” Tiếng thét của Sadie vì bị phản bội làm tôi phải đưa tay lên bịt chặt tai. “Sao cô dám?”
“Tôi... tôi không... đó không phải...” tôi nuốt nước bọt, nhưng lời lẽ thích hợp lại không tuôn ra. Tôi muốn nói với cô là tôi không hề định làm thế, rằng chuyện không tồi tệ như cô nghĩ đâu...
“Tôi đã nhìn thấy!”
Cô chợt bật ra một tiếng nức nở thống thiết, khủng khiếp rồi quay phắt đi và biến mất.
“Sadie!” Tôi hối hả chạy tới và tóm chặt lấy bức tường trong suốt của cái lồng, ngó khắp nơi bên ngoài, cố tìm kiếm bóng dáng cô trong mây hoặc trong dòng nước chảy xiết của sông Thames hay ở giữa đám đông trên mặt đất đang đến gần.
“Lara! Chúa ơi! Chuyện gì thế?” Trông Ed cực kỳ hoảng hốt. Đột nhiên tôi nhận ra là tất cả mọi người khác ở trong lồng đều đã thôi không ngắm cảnh mà tròn mắt nhìn tôi.
“Không có gì!” tôi thốt ra. “Xin lỗi. Tôi chỉ... tôi...” Khi anh vòng tay ôm lấy tôi, tôi ngần ngại. “Ed, tôi xin lỗi... tôi không thể...”
Ngừng một lúc Ed bỏ tay ra. “Được rồi.”
Giờ chúng tôi đã chạm đất. Lo lắng liếc nhìn tôi vài lần, Ed dẫn tôi ra khỏi lồng bước xuống mặt đất rắn đanh.
“Nào.” Giọng anh vui vẻ, nhưng tôi có thể thấy là anh đang lo sợ. Có lẽ thế cũng phải. “Có chuyện gì vậy?”
“Tôi không thể giải thích được,” tôi nói đau khổ. Tôi tuyệt vọng nhìn khắp đường chân trời, tìm kiếm bất cứ một dấu hiệu nào của Sadie.
“Liệu chuyến đi tới cà phê Starbucks cổ truyền có ích gì không, Lara?”
“Xin lỗi.” Tôi ngừng nhìn quanh và hướng vào khuôn mặt lo lắng của Ed. “Ed, tôi rất xin lỗi. Tôi không thể làm... thế này. Hôm nay là một ngày tuyệt vời, nhưng...”
“Nhưng... nó không hề diễn ra theo kế hoạch ư?” anh nói chậm rãi. “Không, không phải thế!” Tôi xoa mặt. “Chuyện... phức tạp lắm. Tôi cần phải tĩnh tâm một chút.”
Tôi ngước lên nhìn anh, muốn anh hiểu. Hoặc gần hiểu. Hoặc ít ra cũng không nghĩ tôi là kẻ hoàn toàn không đáng tin.
“Không sao.” Anh gật đầu. “Tôi hiểu mà. Mọi chuyện không phải lúc nào cũng rõ ràng.” Anh do dự rồi chạm vào cánh tay tôi một thoáng. “Vậy hãy dừng ở đây. Hôm nay là một ngày tuyệt vời. Cảm ơn cô, Lara. Cô thật rộng rãi khi dành thời gian cho tôi.”
Anh rút lui trở về với phong thái trang trọng, lịch lãm vốn có của mình. Tất cả sự ấm áp và trêu cợt giữa chúng tôi đều đã lùi xa. Giống như chúng tôi là hai người quen biết nhưng xa cách. Anh đang bảo vệ chính mình, tôi đột nhiên nhận ra điều đó mà cảm thấy nhói đau. Anh đang trở lại với con đường hầm của mình.
“Ed, tôi rất muốn được gặp lại anh một dịp nào đó,” tôi nói vẻ tuyệt vọng. “Khi mà mọi chuyện đã... ổn thỏa.”
“Vâng.” Tôi có thể nhận thấy là anh không tin tôi chút nào. “Để tôi gọi cho cô một chiếc taxi nhé?” Khi anh nhìn ngược nhìn xuôi con phố, tôi lại thấy trán anh nhăn lại, giống như những nét nhỏ thất vọng.
“Không. Tôi sẽ ở lại đây một chút và đi loanh quanh, để đầu óc sáng suốt trở lại.” Tôi gượng cười. “Cảm ơn anh. Vì tất cả.”
Anh vẫy chào tạm biệt tôi, giống như chào đón vậy, rồi đi vào đám đông. Tôi nhìn theo anh, lòng tan nát. Tôi thích anh. Tôi thật sự, thật sự thích anh. Và giờ anh đang cảm thấy đau lòng. Tôi cũng vậy. Cả Sadie nữa. Rối tinh cả lên.
“Hóa ra đây là chuyện mà cô làm sau lưng tôi!” Giọng Sadie vang lên trong tai tôi khiến tôi giật nẩy và tóm chặt lấy ngực. Có phải cô đã ở đây từ nãy tới giờ? “Đồ rắn độc dối trá. Đồ đâm lén sau lưng. Tôi tới đây để xem chuyện cô với Josh thế nào. Với Josh!”
Cô xoay tít trước mặt tôi, sáng chói cả mắt, tôi lùi lại tránh.
“Tôi xin lỗi,” tôi lắp bắp. “Tôi xin lỗi vì đã nói dối cô. Tôi không muốn thừa nhận Josh và tôi đã chia tay. Nhưng tôi không phải là kẻ đâm lén sau lưng! Tôi không định để Ed và tôi hôn nhau, tôi không định làm gì cả, tôi không hề sắp đặt chuyện này...”
“Tôi không cần biết cô có sắp đặt hay không!” cô hét lên. “Cô hãy tránh xa khỏi anh ta!”
“Sadie, tôi thành thực xin lỗi...”
“Tôi đã tìm ra anh ta! Tôi đã nhảy với anh ta! Anh ta là của tôi! Của tôi! Của tôi!”
Cô tự cho là mình đúng và giận tím tái đến mức không thèm nghe tôi nói. Và đột nhiên, bên dưới cảm giác tội lỗi tôi cảm thấy trào lên một nỗi phẫn uất.
“Làm sao anh ta có thể là của cô được?” Tôi nghe thấy mình hét lên. “Cô đã chết rồi! Cô đã hiểu ra điều đó chưa? Cô đã chết! Anh ta thậm chí còn không hề biết là cô có trên đời!”
“Anh ta có biết!” Cô gí sát mặt vào mặt tôi, mắt lóe lên ánh giết chóc. “Anh ta có thể nghe thấy tôi!”
“Thì sao? Chuyện đó đâu có nghĩa sẽ có lúc anh ta gặp cô, đúng không nào? Cô là một con ma. Một con ma!” Tất cả nỗi khổ tâm của tôi trong tình huống này bùng ra thành một cơn trút giận. “Hãy nói về chuyện tự lừa dối mình đi! Hãy nói về việc không đối diện với sự thật đi, Sadie! Cô vẫn luôn bảo tôi là phải sống tiếp! Thế còn cô sống tiếp như thế nào?”
Ngay khi nói ra những lời này, tôi đã nhận thấy nó nghe thế nào; nó sẽ bị hiểu sai lệch ra sao. Và tôi ước bằng bất cứ giá nào có thể rút lại những lời đó. Một cơn rùng mình vì choáng váng lướt qua mặt Sadie. Trông cô như thể vừa bị tôi tát.
Cô không thể nghĩ là tôi định...
Ôi Chúa ơi.
“Sadie, tôi không có... tôi không...” Miệng tôi cứ lúng ba lúng búng. Tôi thậm chí còn không biết mình muốn nói gì. Đột nhiên mắt Sadie trông hõm xuống. Cô đang nhìn ra con sông như thể không còn thấy có tôi nữa.
“Cô nói đúng,” cuối cùng cô lên tiếng. Giọng nói nghe mất hết tinh thần. “Cô nói đúng. Tôi chết rồi.”
“Không cô chưa chết!” tôi nói trong đau đớn. “Ý tôi là... đúng, có thể là cô đã chết. Nhưng...”
“Tôi đã chết. Thế là hết. Cô không muốn tôi. Anh ta không muốn tôi. Ích gì chứ?”
Cô bắt đầu đi về phía cầu Waterloo và khuất khỏi tầm mắt. Bị giày vò vì mặc cảm tội lỗi, tôi vội vã đuổi theo cô và leo lên các bậc thang. Cô đã đi qua nửa cầu và tôi chạy theo để bắt kịp. Cô đứng lại, nhìn về phía Thánh đường St Paul, một cái bóng lả lướt trong ánh chạng vạng, và không hề tỏ một dấu hiệu nào là nhận thấy tôi có mặt ở đó.
“Sadie, mọi chuyện chưa kết thúc!” Giọng tôi cơ hồ tan vào trong gió. “Không có gì kết thúc cả! Tôi không nghĩ vậy đâu, chỉ tại tôi giận quá, tôi đã nói linh tinh...”
“Không. Cô đã nói đúng.” cô nói nhanh, không quay đầu lại. “Tôi cũng là kẻ tự lừa dối mình y như cô. Tôi cứ nghĩ mình có thể hưởng chút vui vẻ cuối cùng ở cuộc đời này. Tôi cứ nghĩ tôi có thể có một tình bạn. Tạo ra một sự khác biệt.”
“Cô đã tạo ra một sự khác biệt rồi!” tôi nói trong nỗi thất vọng. “Làm ơn đừng nói thế. Nghe này, hãy về nhà, chúng ta sẽ bật nhạc lên và vui vẻ...”
“Đừng cổ tỏ ra hạ cố với tôi!” Cô quay đầu lại và tôi có thể thấy cô đang run rẩy. “Tôi biết cô thật sự nghĩ gì. Cô không quan tâm đến tôi, một bà già vô dụng...”
“Sadie, thôi đi, điều đó không đúng...”
“Tôi đã nghe thấy các người nói ở đám tang!” Sadie đột nhiên bùng nổ dữ dội, và hốt nhiên tôi cảm thấy kinh hoàng đến lạnh gáy. Cô đã nghe thấy chúng tôi nói ư?
“Tôi đã nghe thấy các người nói ở đám tang,” cô nhắc lại, lấy lại được vẻ nghiêm trang. “Tôi đã nghe thấy cả gia đình nói chuyện với nhau. Không ai muốn ở đó cả. Không ai khóc thương cho tôi. Tôi chỉ là một kẻ ‘vô giá trị già khú đế’.”
Cằm Sadie bạnh ra và cô nhìn đăm đăm qua vai tôi. “Cô em họ của cô đã nói chính xác. Tôi không đạt được bất cứ điều gì trong cuộc đời mình, tôi chẳng để lại một dấu ấn gì cả, tôi không có gì đặc biệt. Tôi không hiểu tại sao mình lại cứ muốn sống, thật đấy!” Cô bật cười khô khốc.
“Sadie... xin đừng thế.” Tôi nuốt nghẹn.
“Tôi không có tình yêu,” cô nói tiếp, không lay chuyển, “hay sự nghiệp. Tôi không để lại những đứa con hay thành tựu hay bất cứ thứ gì để mà nhắc tới. Người đàn ông duy nhất tôi từng yêu... đã quên tôi.” Giọng cô đột nhiên run rẩy. “Tôi đã sống một trăm lẻ năm năm trời, nhưng không hề để lại một dấu ấn. Không hề. Tôi chẳng có ý nghĩa gì với bất cứ ai. Và giờ vẫn vậy.”
“Tôi là một con ngốc, cứ đeo bám hoài. Tôi đang chắn đường cô.” Tôi kinh hoàng khi thấy mắt cô ngấn nước.
“Không!” Tôi tóm lấy cánh tay cô, mặc dù biết chẳng có tác dụng gì. Chính tôi cũng sắp khóc. “Sadie, tôi thật sự quan tâm đến cô. Và tôi sẽ đền bù cho cô. Chúng ta sẽ lại nhảy điệu Charleston, chúng ta sẽ vui vẻ một chút, và tôi sẽ đi lấy lại chuỗi hạt về cho cô dù có phải mất mạng đi nữa...”
“Tôi không còn bận tâm đến chuỗi hạt nữa.” Giọng cô run run. “Sao phải thế? Nó chẳng là gì sất. Cả cuộc đời tôi chẳng để làm gì cả.”
Tôi kinh hoàng nhìn cô biến mất qua thành cầu Waterloo.
“Sadie!” tôi hét lên. “Sadie, quay lại! Sa-die!” Tôi nhìn tuyệt vọng xuống mặt nước tái tăm, cuồn cuộn, nước mắt trào xuống má. “Cuộc đời cô không hề vô nghĩa! Sadie, làm ơn, cô có nghe thấy tôi nói không?”
“Ôi Chúa ơi!” Một cô gái đứng cạnh tôi mặc chiếc áo khoác kẻ ca 5 đột nhiên nhìn thấy tôi và há hốc miệng. “Có ai đó vừa nhảy xuống sông! Cứu!"
“Không phải đâu!” Tôi ngẩng đầu lên, nhưng cô ta không nghe thấy, cô ta đang vấy tay ra hiệu cho đám bạn. Trước khi tôi kịp tĩnh trí lai, mọi người đã kéo đến xung quanh lan can và nhìn xuống dòng nước.
“Có ai đó vừa nhảy cầu!” Tôi nghe thấy mọi người nói. “Gọi cảnh sát đi!”
“Không phải đâu!” Tôi nói nhưng tiếng bị át đi. Một anh chàng mặc áo khoác jean đang cầm điện thoại quay mặt nước. Một người đàn ông bên phải tôi đang cởi áo khoác ra như thể chuẩn bị lặn xuống trong khi cô bạn gái nhìn với vẻ ngưỡng mộ.
“Không!” Tôi tóm lấy chiếc áo khoác của anh ta. “Dừng lại!”
“Phải có ai đó làm việc cần thiết chứ,” người đàn ông đó nói, bằng một giọng yêng hùng, liếc cô bạn gái.
Vì Chúa.
“Không có ai nhảy cả!” Tôi hét lên, khua cả hai tay. “Là hiểu lầm! Mọi chuyện ổn cả! Không ai nhảy xuống cả, nhắc lại, không ai nhảy cả!”
Người đàn ông đang cởi giày thì dừng lại. Anh chàng có chiếc điện thoại quay lại và chuyển sang quay phim tôi.
“Vậy thì cô đang nói chuyện với ai?” Cô gái mặc áo khoác kẻ ca rô nhìn tôi với ánh mắt trách móc như thể nghi ngờ tôi nói dối. “Cô hét xuống mặt nước và khóc! Cô làm tất cả chúng tôi sợ hết hồn! Cô đang nói chuyện với ai thế?”
“Tôi đang nói chuyện với một con ma,” tôi nói ngắn gọn. Tôi quay gót trước khi cô ta kịp đáp lại, và rẽ đám đông đi ra, phớt lờ những tiếng kêu ca càu nhàu.
Cô ấy sẽ trở lại, tôi tự nhủ. Khi nào bình tĩnh lại và tha thứ cho tôi. Cô ấy sẽ trở lại