Người mặc áo vàng tra kiếm vào bao. “Đi theo tôi.”
Tôi tò mò nhìn qua ô cửa sổ đầu tiên đi qua. Thế kỷ 18 là thế này đây. Da đầu tôi bắt đầu nhồn nhột vì hồi hộp. Nhưng tôi chỉ chú ý đến cái đài phun nước ngự giữa khoảng sân trời xinh xắn mà rõ ràng tôi đã từng thấy.
Chúng tôi lên tiếp một cầu thang. Gideon nhường tôi đi trước.
“Hôm qua anh vừa ở đây?” tôi tò mò hỏi, nén giọng để người áo vàng đi trước bọn tôi vài bước kia không nghe thấy.
“Đối với họ thì đó là ngày hôm qua,” Gideon bảo. “Nhưng với tôi thì đã gần hai năm.”
“Nhưng anh đến đây làm gì?”
“Tôi trình diện nơi bá tước và phải báo cho ông biết là máy đồng hồ thứ nhất bị đánh cắp.”
“Chắc ông ấy không khoái lắm.”
Tên áo vàng làm như không hề nghe ngóng gì bọn tôi, nhưng có thể thấy tai hắn đang cố dỏng lên dưới những lọn tóc xúc xích trắng.
“Bá tước đón nhận tin này bình thản hơn tôi tưởng,” Gideon nói. “Và sau cú sốc ban đầu, ông đã rất vui mừng khi biết cỗ máy thứ hai còn hoạt động được, và như vậy chúng ta vẫn còn cơ may kết thúc mọi chuyện một cách tốt đẹp.”
“Thế cái máy đồng hồ kia hiện đang ở đâu?” tôi thì thào. “Ý tôi là ở thời điểm này, trong giờ phút này?”
“Có lẽ đâu đó trong nhà này. Bá tước không bao giờ rời nó quá lâu, vì bản thân ông cũng phải phân nhánh hồi khứ để tránh vượt thời gian không kiểm soát.”
“Chúng ta không thể cứ thế mang luôn cái máy đồng hồ ở đây về tương lai?”
“Vì nhiều lý do,” Gideon bảo. Giọng hắn đã khác đi một chút. Không còn ngạo mạn như trước, bù lại thì nghe như dỗ dành trẻ con.
“Những lý do quan trọng nhất thì đã rõ. Một trong mười hai quy tắc vàng khi sử dụng máy đồng hồ là, Đội cận vệ không bao giờ được phép làm đứt quãng sự liên hoàn. Nếu chúng ta đem cỗ máy về tương lai thì bá tước và những người vượt thời gian sinh sau ông ấy sẽ buộc phải thiếu nó.”
“Ừ, nhưng cũng không ai lấy trộm được nó.”
Gideon lắc đầu. “Đúng là đến giờ em vẫn chưa hề để ý tìm hiểu bản chất của thời gian. Sẽ vô cùng nguy hiểm khi một số chuỗi sự kiện bị đứt quãng. Tệ hại nhất là thậm chí em có thể còn không được ra đời.”
“Hiểu rồi,” tôi nói dối.
Giờ thì bọn tôi đã lên lầu một, qua thêm hai người cầm kiếm đứng canh, sau khi gã áo vàng khẩn trương khẽ nói gì đó. Khẩu lệnh là gì nhỉ? Tôi chỉ nghĩ ra được Quả nem rán măng chua. Tôi phải thay bộ óc bã đậu này đi mới được.
Hai người kia nhìn tôi và Gideon tò mò ra mặt, và khi chúng tôi vừa đi qua, lập tức họ thì thào trao đổi gì đó. Tôi thực sự muốn biết họ nói gì.
Gã áo vàng gõ lên một cánh cửa. Bên trong có một người đang ngồi sau bàn viết, cả người này cũng đội tóc giả - một bộ tóc giả màu vàng – và vận trang phục đủ màu sặc sỡ. Phần phía trên bàn viết có thể nhìn thấy chiếc áo đuôi tôm xanh lơ và áo vest in hoa chói mắt, phía dưới bàn là quần lửng gối màu đỏ cùng tất sọc vui mắt. Giờ thì tôi hoàn toàn không ngạc nhiên nữa.
“Ngài thư ký,” gã áo vàng nói. “Đây lại là người khách hôm qua, và một lần nữa, anh ta biết khẩu lệnh…”
Tay thư ký sửng sốt nhìn Gideon. “Làm sao anh biết được khẩu lệnh, khi chúng tôi vừa ấn định cách đây hai tiếng và từ đó đến giờ chưa ai rời khỏi nhà này? Mọi lối ra vào đều được canh giữ nghiêm mật. Và cô này là ai? Phụ nữ không được vào trong này.”
Tôi toan lịch sự xưng danh, nhưng Gideon đã nắm lấy tay tôi và cướp lời. “Chúng tôi cần nói chuyện với bá tước. Có chuyện gấp. Rất gấp.”
“Họ tới từ phía dưới,” gã áo vàng bảo.
“Nhưng bá tước hiện không ở đây,” tay thư ký nói. Giờ hắn đã đứng dậy và vặn vẹo tay. “Chúng tôi có thể cử người báo tin…”
“Không, chúng tôi cần nói chuyện trực tiếp với bá tước. Chúng tôi không có thời gian đợi tin truyền đi truyền lại. Hiện giờ bá tước đang ở đâu?”
“Bá tước đang tới thăm huân tước Brompton ở nhà mới của ngài tại đường Wigmore – một cuộc hội đàm quan trọng mà bá tước vừa quyết định sau cuộc viếng thăm hôm qua của anh.”
Gideon khẽ văng tục. “Chúng tôi cần một cỗ xe ngựa để tới đường Wigmore. Ngay lập tức.”
“Chuyện này thì tôi có thể thu xếp được,” tay thư ký gật đầu với tên áo vàng. “Anh trực tiếp đảm nhận nhé, Wilbour.”
“Nhưng – liệu có kịp không,” tôi chỉ nghĩ tới việc quay trở lại con đường dài dằng dặc dưới tầng hầm ẩm mốc, “nếu đi xe ngựa đến đường Wigmore...” Bác sĩ nha khoa của gia đình tôi có phòng khám ở đường Wigmore. Bến tàu điện ngầm tuyến trung tâm gần nhất ở phố Bond, nhưng từ đây đến đó sẽ phải chuyển tàu vài lần. Đấy là đi tàu điện ngầm! Còn nếu đi xe ngựa thì khó hình dung được lúc nào mới đến nơi. “Có lẽ lần sau chúng ta quay lại thì hơn?”
“Không,” Gideon đột nhiên mỉm cười với tôi. Trên mặt hắn thoảng hiện ý gì đó mà tôi không đoán được tường tận. Hứng thú phiêu lưu?
“Chúng ta còn hơn hai tiếng rưỡi,” hắn vui vẻ nói. “Chúng ta sẽ tới đướng Wigmore.”
Đi xe ngựa xuyên qua London thật hồi hộp và thú vị, hơn bất cứ chuyện gì tôi từng trải qua. Không hiểu sao tôi lại hình dung ra cảnh London không có ô tô thật bình yên. Trên phố tấp nập người đi lại với ô che nắng và mũ nón, thỉnh thoảng lại có một cỗ xe ngựa chậm rãi đi qua, không có khí thải hôi hám, không có những chiếc taxi phóng bạt mạng chực húc vào người đi bộ, ngay cả khi họ qua đường lúc đèn xanh.
Nhưng thực tế là mọi thứ không bình yên như tôi tưởng. Thứ nhất, trời đổ mưa. Và thứ hai, không ô tô và xe buýt thì giao thông vẫn cực kỳ hỗn loạn: xe kéo và xe ngựa đủ kiểu chen nhau san sát, nước bùn bắn tung tóe khắp nơi. Tuy thiếu mùi khí thải nhưng đường phố chìm trong bầu không khí không dễ chịu cho lắm, phảng phất mùi ôi thiu và đặc biệt là cứt ngựa cùng các thứ chất thải khác.
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nhiều ngựa như thế cùng một lúc. Chỉ riêng cỗ xe của bọn tôi đã được thắng bốn con đen tuyền và tuyệt đẹp. Gã áo vàng ngồi trên bệ thắng điều khiển lũ ngựa đi trong đám đông hỗn loạn với tốc độ chóng mặt. Xe xóc điên đảo, mỗi khi rẽ vào góc ngoặt tôi đều nghĩ bọn tôi sắp lật nhào. Vì sợ và vì phải chăm chăm tránh ngã chúi vào Gideon mỗi khi dằn xóc nên tôi không kịp ngắm London đang vùn vụt chạy qua bên ngoài cửa sổ. Nhưng đến khi nhìn được ra ngoài thì tôi cũng chẳng nhận ra nổi thứ gì quen thuộc, cứ như vừa tới một thành phố hoàn toàn xa lạ.
“Đường Kingsway đây,” Gideon nói. “Không tài nào nhận ra nổi, phải không?”
Cỗ xe đang liều mạng vượt qua một xe bò kéo và một xe ngựa khác, trông hao hao như xe chúng tôi. Lần này tôi không tránh nổi lực ly tâm xô ngã dúi dụi vào người Gideon.
“Gã kia chắc nghĩ mình là Ben Hur,” tôi lùi lại về góc của mình.
“Đánh xe ngựa thích lắm,” nghe cứ như Gideon đang ghen tị với gã xà ích. “Tất nhiên lái xe mui trần thì còn thích hơn. Tôi khoái một con Phaeton.”
Cỗ xe lại chao nghiêng, dần dần tôi thấy buồn nôn. Phi vụ này thực không dành cho những ai yếu dạ dày. “Tôi nghĩ là Jaguar tốt hơn,” tôi mệt mỏi nói.
Dù sao cũng phải công nhận bọn tôi tới đường Wigmore nhanh hơn tôi tưởng. Ra khỏi xe, đứng trước một ngôi nhà hoành tráng, tôi quan sát xung quanh nhưng không tài nào nhận ra nổi thứ gì thuộc thời của mình ở khu phố này, dù tôi thường phải tới bác sĩ nha khoa nhiều hơn là tôi muốn. Tuy nhiên, một thoáng quen thuộc phủ lên tất cả. Và mưa cũng đã tạnh.
Gã gia nhân mở cửa cho bọn tôi thoạt đầu nằng nặc rằng huân tước Brompton không có nhà, nhưng Gideon thuyết phục được gã tin rằng hắn biết điều ngược lại và rằng nếu không lập tức dẫn bọn tôi tới gặp cả chủ lẫn khách thì gã sẽ mất luôn chỗ làm ngay hôm nay. Hắn ấn vào tay gã gia nhân khiếp đảm kia chiếc nhẫn triện và ra lệnh gã phải nhanh chân lên.
“Anh có nhẫn triệu của riêng anh?” tôi hỏi trong lúc đứng đợi ở tiền sảnh.
“Dĩ nhiên,” Gideon nói. “Em hồi hộp lắm phải không?”
“Vì sao? Cớ gì tôi phải hồi hộp?” Chuyến xe vừa rồi vẫn còn ngấm tận xương tủy khiến trước mắt tôi không thể tưởng tượng ra điều gì gay cấn hơn. Nhưng giờ, khi nghe hắn hỏi thì tim tôi lại bắt đầu nhảy loạn. Tôi nghĩ đến những gì mẹ nói về bá tước Saint Germain. Nếu người này thực sự đọc được ý nghĩ thì…
Tôi giơ tay sờ lên mái tóc có lẽ rối tung vì chuyến xe ngựa vừa rồi.
“Vẫn gọn gàng không chê vào đâu được,” Gideon khẽ cười.
Lại trò gì nữa đây? Hắn nhất định muốn làm tôi hoang mang?
“Anh biết không, bà đầu bếp nhà chúng tôi cũng tên là Brompton,” tôi đánh trống lảng cho đỡ ngượng.
“Ừ, thế giới này vốn nhỏ,” Gideon bảo.
Gã gia nhân chạy ào từ trên cầu thang xuống. “Họ đang chờ, thưa ngài.”
Bọn tôi theo gã lên lầu một.
“Có thực là ông ấy đọc được ý nghĩ?” tôi thì thào.
“Gã gia nhân?” Gideon thì thào đáp. “Tôi hy vọng là không. Tôi vừa nghĩ trông hắn như con chồn.”
Hắn có chút máu khôi hài thì phải? Quý ngài ta-đang-trên-đường-thực-hiện-sứ-mệnh-vươt-thời-gian-cao-cả thực sự biết đùa? Tôi nhoẻn miệng cười. (Dẫu sao thì cũng nên khuyến khích điều này.)
“Không phải gã gia nhân, mà là bá tước,” tôi nói.
Hắn gật đầu. “Thấy người ta bảo vậy.”
“Ông ta có đọc ý nghĩ của anh không?”
“Nếu có thì tôi cũng không nhận ra.”
Gã gia nhân mở cửa rồi cúi rạp lưng. Tôi khựng lại. Có lẽ tôi không nên nghĩ bất cứ thứ gì? Nhưng đó là chuyện bất khả thi. Tôi vừa cố không nghĩ tới chuyện gì thì đã có ti tỉ ý nghĩ vọt ra trong đầu.
“Mời quý cô đi trước!” Gideon đẩy nhẹ tôi qua ngưỡng cửa.
Tôi bước lên trước vài bước rồi dừng lại, lưỡng lự không biết người ta chờ đợi gì ở mình. Gideon theo sau, gã hầu cúi rạp một lần nữa, trước khi khép cửa lại sau lưng chúng tôi.
Tôi và Gideon đứng trong một phòng lớn được bài trí sang trọng với những cửa sổ cao và rèm thêu mà có lẽ nếu dùng để may váy trông cũng rất đẹp.
Ba người đối diện đang nhìn bọn tôi. Người thứ nhất béo mập, vất vả lắm mới nhấc được mông khỏi ghế, người thứ hai trẻ hơn, rất vạm vỡ và là người duy nhất không đội tóc giả. Người thứ ba cao và mảnh khảnh, nét mặt tựa như người trong tranh ở phòng tài liệu.
Bá tước Saint Germain.
Gideon cúi chào, dù không thấp như gã gia nhân. Ba người kia cũng đáp lễ.
Còn tôi chẳng làm gì. Đâu có ai dạy tôi cách chào trong cái váy phồng này. Ngoài ra thì tôi thấy kiểu nhún chân chào thật ngô nghê.
“Ta không nghĩ sẽ gặp lại cậu nhanh đến thế, anh bạn trẻ,” người mà tôi cho là bá tước Saint Germain nói. Gương mặt ông ta rạng rỡ. “Huân tước Brompton, cho phép ta giới thiệu chút chít của ta? Gideon de Villiers.”
“Huân tước Brompton!” Lại cúi chào. Rõ ràng ở thời này việc bắt tay vẫn chưa thành mốt.
“Ta thấy ít ra về mặt ngoại hình, dòng họ nhà ta cũng phát triển rất tuyệt,” bá tước nói. “Rõ ràng là ta đã rất may mắn trong việc chọn lựa phu nhân. Cái mũi nhòm mồm đã thẳng hẳn ra.”
“Ôi, bá tước thân mến! Ngài một lần nữa lại định gây ấn tượng bằng những câu chuyện không sao tin nổi,” huân tước Brompton lại ngồi phịch xuống cái ghế bé xíu, đến nỗi tôi sợ nó sẽ vỡ vụn dưới sức nặng của ông ta. Ông huân tước này không chỉ hơi tròn trịa như ông George – mà thực sự phì nộn!
“Nhưng tôi không phản đối,” ông ta nói tiếp, đôi mắt húp híp ánh lên vẻ thỏa mãn. “Lúc nào nói chuyện với ngài cũng rất thú vị. Cứ vài giây lại được chứng kiến một điều bất ngờ.”
Bá tước cười, quay sang người đàn ông trẻ không đội tóc giả. “Huân tước Brompton vẫn và sẽ mãi là người đa nghi, Miro thân mến! Chúng ta phải cố tìm cách nào thuyết phục ngài tin vào công việc của chúng ta.”
Người kia đáp lại điều gì đó bằng giọng là lạ, cứng nhắc và nhát gừng, rồi bá tước lại bật cười. Ông ta quay sang Gideon. “Cháu thân mến, đây là người bạn tốt và anh em tri kỷ Miro Rakoczy của ta, trong Biên niên sử Đội cận vệ còn được biết tới dưới cái tên Báo đen.”
“Rất hân hạnh,” Gideon nói.
Tất cả lại cúi lưng.
Rakoczy – cái tên này sao nghe quen thế? Và sao nhìn người này tôi lại thấy bất an?
Bá tước hơi mỉm cười khi nhìn ông ta từ đầu đến chân. Tôi bất giác tìm nét tương đồng với Gideon hoặc ông Falk de Villiers, nhưng không thấy. Đôi mắt bá tước rất tối, còn cái nhìn của ông ta có vẻ gì đó như muốn xuyên thấu, khiến tôi ngay lập tức nghĩ đến những lời mẹ dặn.
Nghĩ! Tốt nhất là đừng nghĩ! Nhưng não tôi cũng phải làm gì đó, thế là tôi hát trong đầu bài “God save the Queen”.
Bá tước chợt đổi sang nói tiếng Pháp khiến tôi không thể hiểu ngay lập tức (cũng vì đang mải hùng hồn hát quốc ca trong đầu), nhưng sau mấy giây và bỏ qua vài lỗ hổng do vốn từ vựng nghèo nàn của tôi có thể dịch lại thế này: “Còn cô, cô bé xinh đẹp, chính là [lỗ hổng từ vựng] của [lỗ hổng từ vựng] Jeanne d’Urfé tốt bụng sao. Ta nghe nói cô có mái tóc đỏ chứ.”
Hừ, có lẽ học từ vựng là điều quan trọng nhất để hiểu ngoại ngữ, như thầy giáo tiếng Pháp vẫn thường nói. Thật tiếc là tôi cũng không biết Jeanne d’Urfé là ai, và thế nên tôi không thể đoán ra hết ý của câu này.
“Cô ấy không hiểu tiếng Pháp,” Gideon cũng nói bằng tiếng Pháp. “Và cô ấy cũng không phải là người ngài đang chờ.”
“Sao lại thế được?” Bá tước lắc đầu. “Chuyện này thật là [lỗ hổng từ vựng].”
“Đáng tiếc là người ta đã dạy nhầm người trong quá trình chuẩn bị [lỗ hổng từ vựng].”
Đúng là đáng tiếc thật.
“Nhầm? Ta thấy có vẻ như đằng nào thì toàn bộ chuyện này cũng là một sự nhầm lẫn.”
“Đây là Gwendolyn Shepherd, em họ của Charlotte Montrose, người cháu kể hôm qua.”
“Vậy đây cũng là cháu ngoại của hầu tước Montrose, [lỗ hổng từ vựng] cuối cùng. Và như vậy là em họ của [lỗ hổng từ vựng]?” Bá tước Saint Germain nhìn tôi với ánh mắt tăm tối, còn tôi lại ngân nga tiếp trong đầu.
Send her victorious, happy and glorious…
“[Lỗ hổng từ vựng] của [lỗ hổng từ vựng] chính là cái mà ta không hiểu nổi.”
“Các nhà khoa học của chúng ta nói rằng hoàn toàn có khả năng [lỗ hổng từ vựng] di truyền qua…”
Bá tước khoát tay ngắt lời Gideon. “Ta biết, ta biết! Điều này có thể đúng với những quy luật khoa học. Nhưng ta vẫn có cảm giác không ổn.”
Hoàn toàn giống cảm giác của tôi.
11.1
“Vậy là không hiểu tiếng Pháp?” lần này ông ta hỏi tôi bằng tiếng Đức. Tôi học tiếng Đức khá hơn (ít ra cũng luôn giữ được điểm B suốt bốn năm nay), nhưng ở đây cũng tồn tại những lỗ hổng từ vựng ngu xuẩn. “Sao con bé lại được chuẩn bị kém thế?”
“Cô ấy hoàn toàn không được chuẩn bị chút gì, thưa bá tước. Cô ấy không nói được bất cứ ngoại ngữ nào.” Giờ Gideon cũng nói bằng tiếng Đức. “Và xét về bất cứ mặt nào cô ấy cũng là một [lỗ hổng từ vựng] tuyệt đối. Charlotte và Gwendolyn sinh cùng ngày. Nhưng người ta nhầm tưởng Gwendolyn sinh muộn hơn một ngày.”
“Nhưng sao lại nhầm thế được?” À, giờ thì tôi hiểu được cặn kẽ từng từ. Họ đã chuyển sang nói tiếng Anh và bá tước nói rất chuẩn. “Sao ta cứ có cảm giác, Đội cận vệ thời các cháu không còn nghiêm túc trong công việc?”
“Theo cháu được biết thì câu trả lời nằm trong lá thư này.” Gideon lấy một phong thư bị gắn xi ấn dấu triện trong ngực áo ra đưa cho bá tước.
Một ánh mắt nhìn xuyên thấu tôi.
…frustrate their knavish tricks, on Thee our hopes we fix, God save us all…
Tôi lảng tránh ánh mắt tăm tối bằng cách nhìn sang hai người còn lại. Huân tước Brompton có vẻ như còn có nhiều lỗ hổng từ vựng hơn tôi (miệng ông ta hơi há trên vô số ngấn cằm, trông có chút ngu ngơ), còn người kia, Rakoczy, đang chăm chú nhìn móng tay mình.
Người này khá trẻ, trạc ba mươi, tóc đen, mặt thuôn dài. Có thể trông hắn bảnh bao hơn nếu miệng hắn không méo xệch như vừa nếm phải thứ gì đó kinh tởm, và da hắn không mai mái bệnh hoạn.
Tôi đang nghĩ xem liệu có phải trên mặt hắn thoa một lớp phấn mỏng màu xám trắng không thì đột nhiên, hắn ngẩng đầu lên nhìn tôi. Mắt hắn đen như than, tôi không tài nào phân biệt nổi ranh giới giữa đồng tử và con ngươi, và cũng không rõ vì sao trông chúng như chết rồi.
Trong đầu tôi lại tự động cất tiếng “God save the Queen” hùng tráng. Trong khi đó, bá tước bẻ dấu xi gắn phong bì, mở thư ra. Ông thở dài rồi đọc, thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn tôi. Tôi vẫn không hề nhúc nhích.
Not in this land alone, but be God’s mercies known…
Thư viết gì? Ai viết? Huân tước Brompton và Rakoczy có vẻ cũng muốn biết. Huân tước Brompton vươn cái cổ béo ú cố liếc sang trang giấy, trong khi Rakoczy tập trung quan sát nét mặt bá tước. Nhất định cái khóe miệng tỏ vẻ kinh tởm kia là tật bẩm sinh của hắn.
Rồi hắn lại quay sang nhìn tôi, khiến tôi lạnh suốt sống lưng. Đôi mắt ấy như hai hố sâu đen ngòm, và giờ tôi mới nhận ra lý do vì sao trông chúng lại như chết rồi. Chúng thiếu những ánh phản quang, những vệt lấp lánh khiến mắt mang nét sống động. Điều này không chỉ kỳ dị mà còn thực sự rùng rợn. Tôi thấy mừng vì giữa mình và đôi mắt kia ít nhất có tới năm mét khoảng cách.
“Mẹ cháu có vẻ là một người cứng đầu cứng cổ hiếm có, phải không?” Bá tước đã đọc xong và gấp thư lại. “Ta chỉ có thể phỏng đoán về động cơ của mẹ cháu.” Ông ta tiến thêm vài bước lại gần, dưới ánh nhìn như xuyên thủng, tôi thậm chí quên phắt cả lời quốc ca.
Nhưng rồi tôi nhận ra một điều mà tôi đã không trông thấy, vì quá sợ và đứng quá xa: Bá tước đã già. Ngay cả khi đôi mắt vẫn còn đầy nhiệt huyết, dáng đi vẫn thẳng và giọng nói nghe vẫn trẻ trung sôi nổi, nhưng dấu vết tuổi già vẫn không thể che lấp. Làn da nơi khóe mắt và đôi tay nhăn nheo như giấy da thuộc, những mạch máu xanh hằn rõ, mọi nếp nhăn cũng hiện lên mồn một sau lớp phấn. Tuổi già khiến ông ta mang vẻ yếu ớt mong manh, khiến tôi gần như thương cảm.
Và đột nhiên tôi không hề còn thấy sợ. Đây chỉ là một cụ già, già hơn cả bà ngoại.
“Gwendolyn không biết gì về động cơ của mẹ cô ấy cũng như những sự kiện dẫn đến tình huống này,” Gideon nói. “Cô ấy hoàn toàn không biết gì.”
“Kỳ lạ, kỳ lạ thật.” Bá tước chậm chạp đi một vòng quanh tôi. “Chúng ta thực chưa từng gặp nhau.”
Dĩ nhiên là chúng ta chưa từng gặp nhau, gặp làm sao được cơ chứ?
“Nhưng nếu không phải là hồng ngọc thì cháu đã không có mặt ở đây. Hồng ngọc sở hữu phép thuật của loài quạ, dùng cung Sol trưởng kết lại vòng tròn Hội Thập Nhị.” Ông ta đã đi xong một vòng, đứng lại ngay trước mặt và nhìn thẳng vào mắt tôi. “Phép thuật của cháu là gì, cháu bé?”
…from shore to shore, Lord make the nations see…
Hừm, tôi làm trò gì thế này? Đây chỉ là một cụ già. Tôi phải lễ phép và kính trọng ông ấy chứ không nên trân mắt ra như con thỏ bị hút hồn trước con rắn.
S.T.E.N.T
“Cháu không biết, thưa ngài.”
“Cháu có điều gì đặc biệt nào? Cho ta biết đi.”
Tôi có điều gì đặc biệt? Trừ khả năng quay về quá khứ từ hai hôm nay? Đột nhiên tôi lại nghe thấy tiếng bác Glenda văng vẳng trong tai: Từ hồi Charlotte còn bé xíu, người ta đã nhận thấy con bé là lá ngọc cành vàng. Không thể đem con bé ra so sánh với đám trẻ tầm thường được.
“Cháu nghĩ cháu không có gì đặc biệt, thưa ngài.”
Bá tước tặc lưỡi. “Cũng có thể cháu có lý. Nói cho cùng thì đó chỉ là một bài thơ. Một bài thơ với xuất xứ mù mờ.” Đột nhiên, có vẻ ông ta không còn quan tâm đến tôi và quay sang Gideon. “Cháu thân mến. Ta thực vô cùng ngưỡng mộ khi đọc thấy những gì cháu làm. Lần ra được dấu vết của Lancelot de Villiers ở Bỉ! William de Villiers, Cecilia Woodville – viên ngọc hải thủy tuyệt vời – và cả chuyện cặp song sinh mà ta chưa từng quen biết cũng đã hoàn tất. Ngài thử tưởng tượng xem, huân tước Brompton, chàng thanh niên này thậm chí còn tới Paris thăm cả Madame Jeanne d’Urfé, tên hồi con gái của Pontcarré, và còn thuyết phục được bà ấy hiến máu.”
“Ngài muốn nói đến Madame d’Urfé, người từng giúp cha tôi quen Pompadour và rốt cuộc cả với ngài?”
“Ta không biết một Madame d’Urfé nào khác,” bá tước nói.
“Nhưng Madame d’Urfé đã mất từ mười năm trước.”
“Chính xác là bảy năm,” bá tước nói. “Trong thời gian đó, ta đang ở triều đình của lãnh chúa Karl Alexander von Ansbach. Ôi, ta rất gắn bó với nước Đức. Thật đáng mừng là ở đó người ta rất quan tâm tới Hội Tam điểm và thuật giả kim. Theo như người ta nói với ta từ nhiều năm nay, ta cũng sẽ qua đời ở Đức.”
“Ngài lại đang đánh trống lảng,” huân tước Brompton nói. “Làm sao cậu này lại có thể tới thăm Madame d’Urfé ở Paris? Bảy năm trước cậu ấy vẫn còn là một đứa trẻ.”
“Tư duy của ngài vẫn đi sai luồng đấy, huân tước thân mến. Hãy hỏi Gideon xem cậu ấy diện kiến Madame d’Urfé và xin lấy máu khi nào?”
Huân tước nhìn Gideon dò hỏi.
“Vào tháng Năm năm 1759,” Gideon nói.
Huân tước cười rú lên. “Nhưng sao lại thế được. Bản thân cậu còn chưa tròn hai mươi.”
Cả bá tước cũng bật cười thích thú. “Năm 1759. Bà ấy không hề kể cho ta, mụ này tẩm ngẩm thật.”
“Cũng thời gian đó, ngài cũng đang ở Paris, nhưng cháu nhận được nghiêm lệnh không được chạm mặt ngài.”
“Vì tính liên hoàn, ta biết.” Bá tước thở dài. “Đôi khi ta ghét những luật lệ chính mình đặt ra… Nhưng lại nói về Jeanne đáng mến. Cháu có phải dùng vũ lực không? Bà ấy không muốn cộng tác với ta cho lắm.”
“Bà ấy có kể cho cháu,”Gideon bảo. “Cả việc ngài dụ dỗ và thuổng mất của bà ấy mấy cỗ đồng hồ.”
“Dụ dỗ? Bà ấy thậm chí còn không biết mình đã được thừa hưởng báu vật gì từ bà nội. Cái máy tội nghiệp, nằm chỏng chơ hư hại không ai biết đến trong một cái hộp đầy bụi trên tầng áp mái. Sớm muộn gì nó cũng bị người ta quên lãng. Ta đã cứu và đưa nó về với đúng ý nghĩa ban đầu. Và nhờ các thiên tài sau này gia nhập hội kín của ta mà hôm nay nó mới hoạt động trở lại. Gọi là một phép màu cũng không quá lời.”
“Ngoài ra Madame còn cho rằng suýt nữa bị ngài bóp cổ chết, chỉ bởi bà ấy không nhớ ngày sinh và tên thời con gái của kỵ mình.”
Bóp cổ? Nghe ghê thế!
“Ừ, đúng. Những lỗ hổng trí nhớ kiểu như thế đã khiến ta mất không biết bao nhiêu thời gian nghiên cứu cổ thư của nhà thờ, thay vì làm những việc khác quan trọng hơn. Jeanne đúng là một người cực kỳ thù dai. Cũng vì thế nên ta càng khâm phục việc cháu khiến bà ấy chịu cộng tác.”
Gideon mỉm cười. “Cũng không dễ gì. Nhưng có lẽ cháu đã tạo được ấn tượng khả tín. Ngoài ra thì cháu còn nhảy điệu Gavotte với bà ấy. Và còn cực kỳ kiên nhẫn nghe bà ấy phàn nàn về ngài.”
“Thật bất công. Chả gì ta cũng đã mai mối cho bà ấy cuộc tình nồng thắm với Casanova. Và ngay cả khi hắn chỉ nhắm vào túi tiền của Jeanne thì vẫn có khối phụ nữ phát ghen lên với bà ấy. Ta cũng chia sẻ cỗ máy đồng hồ với bà ấy như người một nhà. Nếu không có ta thì…” Bá tước quay trở lại với tôi, khuôn mặt sáng bừng hào hứng. “Thật đúng là một mụ già vô ơn, cụ kỵ của cháu. Tiếc là không được trời phú cho nhiều trí tuệ. Ta nghĩ bà ấy chưa bao giờ hiểu được điều gì xảy ra với mình, mụ già đáng thương. Ngoài ra bà ấy còn hờn dỗi vì chỉ được làm ngọc hoàng yến trong Hội Thập Nhị. Vì sao ông là ngọc bích còn tôi chỉ là viên hoàng yến ngớ ngẩn, bà ấy bảo ta thế. Người danh giá thời nay đâu có đeo ngọc hoàng yến.” Ông ta cười khúc khích một mình. Ta thực sự muốn biết bà ấy còn vượt thời gian bao nhiêu lần khi về già. Cũng có thể không thèm lần nào. Dù sao bà ấy cũng chưa bao giờ là một người vượt thời gian nổi trội. Có khi cả tháng trời bà ấy không biến đi lần nào. Ta nghĩ gien này ở phái nữ trì trệ hơn của chúng ta, hệt như trí tuệ phụ nữ kém nhanh nhạy so với nam giới. Cô bé đồng ý với ta chứ?”
Thật đúng là một lão già trọng nam khinh nữ, tôi nghĩ trong khi cụp mắt xuống, nói năng vớ vẩn lại còn ra vẻ nguy hiểm. Ôi trời! Tôi có điên không? Lẽ ra tôi không nên nghĩ gì hết!
Nhưng rõ ràng tài đọc ý nghĩ của bá tước không tốt lắm, bởi ông ta tiếp tục khoái chí cười rinh rích. “Cô bé này không thích nói chuyện thì phải?”
“Cô ấy chỉ hơi nhát thôi ạ,” Gideon bảo.
Bị làm cho nhát thì đúng hơn.
“Làm gì có đàn bà nhút nhát,” bá tước phản đối. “Đằng sau mỗi cái chớp mắt ra vẻ nhút nhát thực ra luôn ẩn giấu sự thiểu năng.”
Tôi càng lúc càng tiến tới kết luận không phải sợ người này. Ông ta chỉ là một lão già ngạo nghễ, khinh thường phụ nữa, thích nghe chính mình diễn thuyết.
“Xem ra ngài không trọng thị phụ nữ lắm,” huân tước Brompton lên tiếng.
“Đâu phải thế!” bá tước phản đối. “Ta rất yêu phụ nữ. Thật đấy! Ta chỉ không tin rằng dạng trí tuệ mà họ sở hữu có thể giúp nhân loại tiến xa hơn. Bởi vậy trong hội của ta không có chỗ cho họ.” Ông ta tặng vị huân tước một nụ cười rạng rỡ. “Cũng phải nói thêm, đối với nhiều quý ông thì đây chính là lý do quan trọng nhất khiến họ xin làm thành viên đấy, thưa huân tước Brompton.”
“Nhưng phụ nữ lại mê ngài! Cha tôi luôn kể cho tôi nghe các chiến tích của ngài trên tình trường. Không chỉ ở London mà còn cả Paris, nghe nói các bà các cô đều luôn luôn sẵn sàng phủ phục dưới chân ngài.”
Bá tước lập tức sa vào ký ức mơ màng về thời còn là thần tượng của phải yếu. “Huân tước thân mến, không quá khó để làm phụ nữ mê muội và bảo gì nghe nấy. Đàn bà thì ai cũng như ai. Nếu không phải bận rộn với sự nghiệp cao cả thì có lẽ từ lâu ta đã soạn ra cẩm nang cho cánh đàn ông, khuyên họ ứng xử đúng cách với đàn bà.”
Rõ rồi. Tôi cũng đã nghĩ ngay ra một nhan đề phù hợp. Bóp cổ để thành công. Hoặc: Lảm nhảm cho đến khi phụ nữ quy phục. Suýt nữa tôi bật cười. Nhưng khi nhận thấy đang bị gã Rakoczy chăm chú quan sát, tâm trạng bỡn cợt của tôi ngay lập tức biến mất nhanh như lúc nó xuất hiện.
Tôi phát điên mất thôi! Cặp mắt đen của Rakoczy đóng đinh ánh nhìn của tôi trong một giây. Tôi cụp mắt nhìn xuống nền nhà khảm đá trước mặt, cố chống lại cảm giác kinh hoàng đang đe dọa chế ngự tôi. Chắc chắn bá tước không phải là người tôi phải dè chừng ở đây, nhưng không vì thế mà tôi được phép có cảm giác an toàn.
“Toàn là những chuyện kỳ thú,” huân tước Brompton nói, mấy ngấn cằm rung lên khoái trá. “Không nghi ngờ gì nữa, ngài và những người bạn đồng hành của ngài quả thực là những diễn viên xuất chúng. Như cha tôi vẫn nói, chuyện của các người khiến người ta há hốc mồm, bá tước Saint Germain kính mến. Nhưng tiếc là ngài không thể đưa ra một minh chứng nào. Cho tới bây tôi chưa được chứng kiến tài nghệ của ngài, dù chỉ một lần duy nhất.”
“Tài nghệ?” Bá tước kêu lên. “Ồ, huân tước thân mến, ngài quả là đa nghi. Lẽ ra ta đã hết kiên nhẫn với ngài từ lâu nếu không cảm thấy nợ cha ngài một nghĩa cử - Chúa phù hộ ông ấy! Và nếu ta không phải dựa vào tiền và ảnh hưởng của ngài đến thế.”
Huân tước cười hơi gượng gạo. “Chí ít thì ngài cũng thành thật.”
“Không có người đỡ đầu thì thuật giả kim làm sao tồn tại.” Bá tước quay phắt sang phía Rakoczy. “Chắc chúng ta sẽ còn phải cho ngài huân tước đáng kính chứng kiến chút tài nghệ của chúng ta, Miro. Ông ấy là người chỉ nhìn mới tin. Nhưng trước hết ta cần nói riêng vài lời với đứa cháu chút chít của ta và viết một lá thư gửi trưởng hội kín của ta ở tương lai đã.”
“Ngài cứ dùng phòng giấy sát vách,” huân tước chỉ vào cánh cửa phía sau lưng. “Còn tiết mục biểu diễn tài nghệ thì ta luôn nóng lòng chờ xem.”
“Đi nào, con trai.” Bá tước nắm lấy tay Gideon. “Còn một số chuyện ta cần hỏi cháu. Và một số chuyện cháu cần biết.”
“Bọn cháu chỉ còn độ nửa tiếng,” Gideon nhìn chiếc đồng hồ gắn vào túi áo vest bằng sợ dây chuyền vàng. “Chậm nhất tới lúc đó bọn cháu phải quay về Temple.”
“Nửa tiếng là đủ,” bá tước bảo. “Ta viết rất nhanh, và có thể đồng thời làm cả hai việc – vừa nói vừa viết.”
Gideon khẽ cười. Có vẻ như hắn thấy vị bá tước này thật vui nhộn, và hình như hắn hoàn toàn quên mất sự hiện diện của tôi ở đây.
Tôi đằng hắng. Đang đẩy cửa, hắn quay lại nhướn mày dò hỏi.
Tôi cũng trả lời bằng câm lặng, bởi không thể nói to: “Đừng để tôi một mình với lũ người này.” Gideon lưỡng lự.
“Con bé sẽ chỉ làm phiền chúng ta,” bá tước nói.
“Em đợi tôi ở đây nhé,” Gideon nói, dịu dàng một cách khó tin.
“Huân tước và Miro sẽ ở bên cháu trong mấy phút tới,” bá tước nói. “Các ngài có thể hỏi cô bé đôi chút về tương lại. Đây là dịp độc nhất vô nhị đấy. Cô bé tới từ thế kỷ 21, hỏi nó về tàu tự động chạy dưới lòng đất London, hoặc về những cỗ máy biết bay màu bạc gầm rú như ngàn con sư tử và vượt đại dương ở độ cao nhiều cây số.”
Huân tước cười nhiều đến nỗi tôi thực sự lo cho cái ghế. Mọi ngấn mỡ trên người ông ta đều rung rinh. “Còn gì nữa không ạ?”
Tôi không đời nào chịu ở lại một mình với gã Rakoczy. Nhưng Gideon chỉ mỉm cười, bất chấp ánh mắt cầu khẩn của tôi.
“Tôi quay lại ngay đây mà,” hắn bảo.
******************************
Như đã hẹn, viên Tourmaline đen, Paul de Villiers, hôm nay đã tới năm 1992 để phân nhánh hồi khứ trong phòng tài liệu. Nhưng lần này anh ta không đến một mình. Cô bé tóc đỏ đi cùng quả quyết mình là Lucy Montrose, cháu ngoại môn sinh Lucas Montrose. Mọi nét ở cô bé đều giống Arista Bishop (thuộc dòng ngọc thạch, mẫu quan sát số bốn) một cách kinh ngạc. Chúng tôi dẫn họ tới thư phòng của Lucas. Giờ thì tất cả đều biết Lucas sẽ cầu hôn Arista chứ không phải Claudine Seymore như mọi người đều cầu chúc cho anh ấy. (Mặc dù phải công nhận Arista di chuyển tốt hơn và chơi tay ve rất cừ.)
Thật kỳ lạ khi được cháu chắt tới thăm trước khi có con.