Huyết Mỹ Nhân

Chương 30: Sinh ly tử biệt



Sau một tiếng kêu “Vu”, mũi thần tiễn đã hóa thành một làn ánh sáng đen, rời khỏi cây cung nhanh như điện chớp, không những đã bắn gãy được cành cây thông và mũi tên còn cắm sâu vào trong vách đá già nửa.

Cách ba mươi trượng, mũi tên lại mạnh đến như vậy khiến Mộ Quang kinh ngạc đến ngẩn người ra, nhìn cây bảo cung với vẻ không nỡ buông tay.

Nhất Minh chờ Mộ Quang lấy lại mũi tên thần, liền mỉm cười nói tiếp:

– Quang nhi, vì sư phụ kiếm thấy bảo cung thần tiễn, mới vội đi núi Kỳ Liên bắt con phải dời khỏi nơi đó ngay, từ giờ trở đi con khỏi cần xử dụng cây cung vàng thường để khỏi bị Âm Tố Mai bắt bớ nữa.

Thấy sư phụ nói như thế, Mộ Quang hớn hở vô cùng, ôm lấy cây bảo cung như người mới tìm kiếm thấy vật báu vậy. Nhất Minh thấy thế vừa cười vừa nói tiếp:

– Con có biết tại sao đến giờ sư phụ mới tặng cho con bộ cung tên quý báu này không?

Mộ Quang cảm động ứa nước mắt ra đáp:

– Có lẽ ân sư quá thương con, sợ con được bảo cung thần tiễn có thể mừng rỡ quá mà làm giảm mất sự chăm chú luyện tập hai môn tuyệt nghệ kia đi.

Nhất Minh vừa cười vừa gật đầu đáp:

– Đây là dụng ý của sư phụ, nhưng Huyết Hà U Cốc con khổ luyện từ đó đến nay, tuy đã luyện thành công pho Nhất Nguyên Thần Kiếm rồi, còn Đảng Ma Thần Âm thì con mới có chín thành hỏa hầu thôi, sư phụ vẫn chưa được hài lòng.

Mộ Quang gượng cười hỏi:

– Có phải ân sư hiềm môn Đảng Ma Thần Âm con chưa luyện tập đến nơi đến chốn đấy không? Nhưng...

Nhất Minh xua tay lia lịa, lắc đầu mỉm cười nói tiếp:

– Tuyệt học cao thâm như thế, trong một thời gian ngắn, mà con đã luyện tập được chín thành hỏa hầu như vậy, đã là đáng khen rồi, khi nào sư phụ lại trách mắng con một cách hồ đồ như thế nữa. Sở dĩ sư phụ bảo chưa hài lòng, vì điểm con chưa làm đúng mức đấy thôi.

Mộ Quang không hiểu sư phụ nói như thế là có ý nghĩa gì, rất ngạc nhiên.

Nhất Minh thấy thế vừa cười vừa hỏi lại:

– Có phải con không hiểu ý nghĩa lời nói của sư phụ đấy không?

Mộ Quang gật đầu bẽn lẽn đáp:

– Con ngu xuẩn không hiểu được gì hết, xin ân sư chỉ giáo cho.

Nhất Minh mỉm cười hỏi tiếp:

– Quang nhi, trong các nhân vật võ lâm đương thời, ai đã tặng cho con ngoại hiệu ấy.

Mộ Quang hổ thẹn đến mặt đỏ bừng:

bẽn lẽn đáp:

– Ngọc Địch Kim Cung Thần Kiếm Thủ.

Nhất Minh nhanh nhầu cười và hỏi tiếp:

– Ngoại hiệu ấy oai vệ lắm, sư phụ rất hài lòng, bây giờ con đã có cái cung Âm Trầm Trúc, bẩy mũi tên Xạ Dương Thần Tiễn, con có thể phù hợp với hai chữ Kim Cung rồi, con lại học được pho Nhất Nguyên Thần Kiếm có thể xứng dáng với hai chữ Thần Kiếm rồi. Duy còn hai chữ Ngọc Địch thì con chưa học được pho tuyệt nghệ đó, như vậy chả là không phù hợp với với biệt hiệu của con là gì?

Mộ Quang ngẫm nghĩ giây lát, mới trả lời rằng:

– Quang nhi có một người bạn gái tên là Lệnh Hồ Sở Sở đã tặng cho con một cây sáo ngọc với truyền thụ một pho Hàn Tương Bát Thức kể cũng khá tinh diệu.

Nhất Minh giả bộ giận dữ đỡ lời:

– Sư phụ muốn con còn giỏi hơn Lệnh Hồ Sở Sở, sao con được nàng ta truyền thụ cho một pho địch pháp như thế đã cảm thấy hài lòng lắm rồi? Huống hồ sư phụ đã thấy con biểu diễn pho Hàn Tương Bát Thức rồi, tuy khá tinh diệu thực, nhưng tất cả chỉ có tám thức thôi, vẫn chưa đủ so tài cùng các cao thủ võ lâm.

Mộ Quang sực nghĩ ra một kế, mỉm cười hỏi:

– Có phải ân sư muốn truyền thụ cho con một pho Ngọc Địch khác đấy không?

Nhất Minh lắc đầu thở dài nói:

– Sư phụ không kịp...

Ông ta vừa nói tới đó, thấy Mộ Quang biến sắc mặt, sợ đồ đệ cưng đau lòng, nên ông ta vội đổi giọng nói:

– Sư phụ không có thế địch cao minh gì để truyền thụ cho con, chỉ muốn con hóa Đảng Ma Thần Âm vào trong tiếng địch, không phải vận khí đơn điền rú lên, mà chỉ dùng sáo ngọc thổi, như vậy con mới xứng đáng với biệt hiệu Ngọc Địch Kim Cung Thần Kiếm Thủ.

Mộ Quang cả mừng, vừa cười vừa đỡ lời:

– Ân sư nghĩ ra như vậy thực là cao diệu, con sẽ khổ công luyện tập, dồn pho Đảng Ma Thần Âm vào trong sáo ngọc.

Nhất Minh nhìn thẳng vào mặt Mộ Quang nói tiếp:

– Quang nhi, sư phụ muốn con phải hoàn thành trong một thời gian hạn định.

Mộ Quang mỉm cười hỏi:

– Ân sư cho Quang nhi một thời hạn bao lâu? Có phải cho đến trước ngày đại hội Bạch Long Đôi đấy không?

Nhất Minh lắc đầu đáp:

– Sao lại lâu như thế? Sư phụ hạn cho con trong ba ngày phải hoàn thành.

Mộ Quang rất ngạc nhiên thất kinh hỏi:

– Tại sao ân sư lại hạn định cho Quang nhi một thời gian quá ngắn ngủi như thế? Đảng Ma Thần Âm có phải là một nội gia chân khí thường là tùy theo ý muốn của mình để sử dụng vào sáo như thế đâu?

Nhất Minh cười khẩy đỡ lời:

– Hạn định cho con trong ba ngày, quyết không gia hạn, con phải mau mau luyện tập đi. Đây là sự đòi hỏi cuối cùng của sư phụ, con thể nào cũng phải gắng hết sức luyện cho kỳ được.

Mộ Quang nghe sư phụ ra lệnh như thế, đang định hỏi tiếp, thì Nhất Minh đã vào trong thạch động đóng ngay cửa hang lại và nói vọng ra rằng:

– Nếu trong ba ngày mà con luyện thành công, thì đến đây dùng tiếng sáo gọi cửa. Bằng không, còn đừng có hòng gặp lại sư phụ nữa.

Mộ Quang thấy ân sư có thái độ lạnh lùng và cương quyết như vậy, hoảng sợ đến toát mồ hôi lạnh ra, và cũng thắc mắc khôn tả, nhưng bắt buộc chàng phải dẹp những ý niệm ấy sang một bên, để nghiên cứu Đảng Ma Thần Âm đưa vào trong âm vận của cây sáo ngọc.

Nhất Minh nhìn qua khe cửa, thấy đồ đệ cưng của mình quả đã nghe lời dặn bảo khổ công luyện tập, nên lộ nụ cười an ủi, mở cái túi da lấy ba thứ ở trong ra.

Đó là một cây Tuyết Sâm đã thành hình, một lọ thuốc nước với một lá thư ngoài bìa đề:

“Phải tới ngày đại hội Bạch Long Đôi mới được mở xem”.

Vì muốn Mộ Quang chuyên tâm về võ học để làm rạng rỡ cho môn phái, Trà Nhất Minh đã tốn rất nhiều khổ tâm. Ba vật vừa lấy ra đó, vật nào cũng có tác dụng rất lớn và đã chuẩn bị từ lâu rồi.

Thành hình Tuyết Sâm là ông ta kiếm thấy ở trên tuyệt đỉnh của núi Đại Tuyết trong khi đi tìm kiếm Mộ Quang, uống nó có thể trường thọ tăng cường chân lực, ông ta không nỡ uống, mà đặc biệt để dành cho Mộ Quang khi luyện thần công, đích tay ông ta cho đồ đệ uống, trước khi chết, như vậy bất cứ Mộ Quang luyện pho thần công nào, được uống cây Tuyết Sâm ấy đều có lợi ích rất lớn.

Còn lọ thuốc nước dùng để cải trang, ông ta muốn lúc sắp chết đích tay bôi vào mặt đồ đệ cưng để xem Lệnh Hồ Sở Sở với Âm Tố Mai xem có còn đoái hoài tới Ngọc Địch Kim Cung Thần Kiếm Thủ mặt xanh như chàm và đầy thẹo nữa hay không? Sở dĩ ông ta muốn làm như thế là để đồ đệ cưng của mình khỏi bị tình nhi nữ ràng buộc, lỡ hết sự nghiệp anh hùng đi.

Nhất Minh nghĩ rất chu đáo, tự biết hàng ngày cứ cách thể truyền công như vậy, tinh lực của mình sẽ bị khô héo hết, chỗ thuốc uống để cho tinh thần phấn chấn, còn lại sáu viên, vừa đủ duy trì có ba ngày. Ba ngày sau ông ta sẽ chết, chứ ông ta không muốn để cho đồ đệ cưng đích mắt trông thấy cái chết thảm khốc của mình, hoặc hay tin dữ, thể nào cũng quá đau lòng mà tiêu tán hết hùng tâm. Ông ta biết Mộ Quang là người rất hiếu thảo, chưa biết chừng khi biết rõ mình vì y mà hi sinh tánh mạng như thế này, thế nào y cũng sẽ chết theo mình cũng nên.

Vì những lẽ đó, ông ta mới nghĩ cách đuổi Mộ Quang đi, để mình yên tĩnh và lẳng lặng chết.

Lá thư mật đó, bên trong nói rõ hết nguyên nhân và đơn thuốc độc đáo để rửa mặt cho hết xấu xí, và còn cho Mộ Quang biết là không phải mình cố tình lập dị hay quái đản, không cho đồ đệ được dây dưa đến tình nhi nữ, quý hồ Sở Sở hay Tố Mai mà thấy Mộ Quang rất xấu xí mà vẫn còn có lòng yêu, thì tình yêu ấy mới chân thật, và người đó mới có thể lấy làm vợ được. Ông ta còn dặn Mộ Quang phải đưa vợ vào con đường chính, để phát dương oai danh của phái Bắc Nhạc, phù trì chính khí võ lâm.

Nhất Minh còn biết khi Mộ Quang gõ cửa xin vào yết kiến, thì lúc ấy mình đã hấp hối sắp chết, nên lúc này ông ta rất cẩn thận xếp đặt mọi việc, thấy không còn chút sai lầm nào rồi mới an nhàn để đợi chờ đồ đệ cưng tới gõ cửa.

Một ngày một đêm đã qua, ngoài động và trong động đều yên tĩnh như thường.

Ngày hôm thứ hai cũng vẫn bình tĩnh như thế. Như đến tối hôm đó ngoài động có tiếng sấm rầm rộ, núi non rung chuyển, và thỉnh thoảng lại còn có các thứ tiếng kỳ dị khác nổi lên nữa.

Những tiếng động đó không làm cho Lãnh Trúc tiên sinh sắp chết đến nơi ngồi ở trong động kinh hoảng, trái lại, còn làm cho ông ta an tâm và vui lòng là khác.

Vì ông ta đã nghe ra những tiếng kêu và tiếng động đó là đồ đệ cưng cửa mình đã khổ công nghiên cứu, dồn Đảng Ma Thần Âm vào trong cây sáo để thổi ra.

Nửa đêm trước, chỉ nghe những tiếng sấm gió làm rung chuyển cả mặt đất, nhưng tới nửa đêm sau thì tiếng sáo dịu hẳn và nghe rất êm dịu.

Nhất Minh nghe thấy tiếng sáo thay đổi như vậy, lại càng mừng rỡ thêm, vì biết đồ đệ cưng của mình quả thật là nhân vật hiếm có trong võ lâm, chỉ nghe tiếng sáo này cũng đủ thấy sự tiến bộ của đồ đệ mình trong hai ngày đêm bằng người ta khổ luyện ba năm là ít.

Sáng sớm thứ ba, Mộ Quang hớn hở đến gõ cửa và kêu gọi rằng:

– Ân sư, Quang nhi xin vào yết kiến!

Nhất Minh mỉm cười đáp:

– Quang nhi cứ việc vào đây, cửa bỏ ngỏ đấy.

Mộ Quang vội đẩy cửa động hớn hở bước vào, chàng đang vui vẻ tươi cười, nhưng khi vừa vào tới trong động, thì mặt lộ vẻ kinh ngạc khôn tả. Vì mới. hai ngày hai đêm, chàng thấy Lãnh Trúc tiên sinh đã biến đổi hẳn, trông rất tiều tụy, như vậy chàng không động lòng thương ứa nước mắt ra sao được? Chàng vội tiến lên, với giọng run run hỏi:

– Ân sư, tại sao... lại thế này?

Nhất Minh mỉm cười đáp:

– Quang nhi cứ yên tâm, sư phụ chỉ thấy tâm thần mệt mỏi, cần phải nghỉ ngơi một thời gian khá lâu đấy thôi.

Mộ Quang khóc ra tiếng, nước mắt nhỏ ròng xuống như mưa và nói tiếp:

– Ôn đức của ân sư đối với Quang nhi thật là trời cao đất hậu. Quang nhi không biết lấy gì đền bù ơn đức này...

Không đợi chờ cho Mộ Quang nói xong, Nhất Minh đã mỉm cười đỡ lời:

– Nếu Quang nhi muốn đền ơn cho sư phụ không khó, chỉ cần sự luyện tập của con có thu hoạch và có kết quả rất tốt đẹp là sư phụ hài lòng rồi.

Mộ Quang hiểu ý nghĩa lời nói của ân sư mình, vội gượng cười đáp:

– Con không phụ mệnh lệnh của ân sư, đã có thể thổi sáo mà dồn ra được Đảng Ma Thần Âm rồi.

Nhất Minh chỉ xuống mặt đá, mỉm cười nói:

– Được, con thử thổi cho sư phụ xem, sư phụ muốn chọn thổi khúc “Trường sinh hành”, lợi dụng vô hình oai lực của Đảng Ma Thần Âm, khiến mặt đá này nứt thành một cái huyệt đá rộng ba thước, dài sáu thước, sâu bốn thước.

Mộ Quang biết ngay ân sư bảo mình biểu diễn như thế là có ý muốn định đào một cái huyệt cho ân sư, nên chàng mỉm cười gật đầu, đưa ngang cây sáo lên miệng, từ từ thổi luôn.

Chàng thổi khúc “Trường sinh hành” thật là du dương uyển chuyển, nghe êm tai vô cùng, âm tiết nghe rất hòa điệu, khiến ai nghe được chỉ tưởng là một khúc sáo thường thôi, chớ không sao biết được bên trong lại vô hình cương khí của Đảng Ma Thần Âm hóa thành, bất cứ vật cứng rắn đến đâu cũng có thể xuyên thủng được hết.

Chỗ mặt đá mà Nhất Minh chỉ vẫn như thường, không hể suy suyển chút nào.

Mộ Quang vùa thổi xong khúc ấy, liền đeo cây sáo ngọc bên người, mặt lộ vẻ đắc ý, vái chào Nhất Minh, vừa cười vừa nói:

– Thưa sư phụ, Quang nhi đã làm đúng như lời sư phụ dạy bảo. Xin sư phụ thử xem đá ở bên trong cái hố đó đã biến thành bột chưa?

Lúc ấy khí huyết sắp kiệt, Nhất Minh còn vận sao nổi chân khí để đẩy bột đá bay đi được, nên ông ta chỉ mỉm cười, gật đầu đáp:

– Sư phụ tin sự thành tựu của con, chả cần phải xem xét nữa. Con lại đây, con không những hoàn thành được tâm nguyện của sư phụ, mà lại còn thành công sớm hơn nửa ngày mà sư phụ đã chỉ định, thật đáng khen lắm.

Nói xong, ông ta đưa cây Tuyết Sâm thành hình cho Mộ Quang, mỉm cười nói tiếp:

– Con mau nuốt cây Tuyết Sâm này đi. Đây là di vật mà sư phụ ban thưởng cho con đây.

Mộ Quang biết Tuyết Sâm có thể làm cho người ta sống lâu và tăng thêm chân lực, nên chàng lại đưa trả cây Tuyết Sâm cho Nhất Minh với giọng nghẹn ngào đáp:

– Con không dám nhận món quà hậu hĩ này, muốn tạo cho con nên người sư phụ đã tốn nhiều tâm huyết, người rất tiều tụy, vậy xin ân sư nên dùng cây Tuyết Sâm này để lấy lại sức khỏe.

Nhất Minh sầm nét mặt lại, lạnh lùng nói tiếp:

– Quang nhi, con đã đọc sách thánh hiền, thì con phải biết thuận tức là con người hiếu đạo. Nếu con không nghe lời sư phụ thì con là nghịch đồ, sư phụ đuổi con ra khỏi môn phái Bắc Nhạc ngay.

Mộ Quang thấy sư phụ quát bảo một cách nghiêm nghị như vậy, đành phải cúi đầu xuống, ứa nước mắt ra, đưa cây Tuyết Sâm vào mồm nhai từng miếng và nuốt luôn.

Nhất Minh thấy Mộ Quang đã ăn xong cây Tuyết Sâm tỏ vẻ rất an ủi liền vẫy tay gọi:

– Quang nhi, con lại đây!

Mộ Quang quỳ ngay xuống, đi bằng đầu gối bò tới cạnh Nhất Minh.

Lãnh Trúc tiên sinh lấy lọ thuốc nước ra, đưa lên cho Mộ Quang xem, mỉm cười hỏi:

– Con thử đoán xem đây là lọ thuốc gì?

Mộ Quang không suy nghĩ gì hết, nghẹn ngào đáp:

– Chắc lại là vật báu gì mà sư phụ đã tìm kiếm ra được, muốn giúp con được thành tài thêm.

Nhất Minh lắc đầu đáp:

– Con đoán sai rồi, vật này không có bổ ích cho con, trái lại còn có hại cho con là khác.

Mộ Quang nghe nói rất ngạc nhiên, trợn đôi mắt lên nhìn Nhất Minh.

Lãnh Trúc tiên sinh đưa tay chỉ lọ thuốc, lạnh lùng nói tiếp:

– Lọ thuốc này bôi lên trên mặt sẽ khiến mặt mũi của con rất xấu xí và khó mà khôi phục lại được bộ mặt đẹp như trước.

Mộ Quang nghe nói lại hết sức kinh ngạc, ứa lệ mỉm cười gật đầu đáp:

– Quang nhi hiểu rõ thâm ý của ân sư, xin ân sư hạ thủ để cho đệ tử được toại nguyện.

Trà Nhất Minh thấy đệ tử của mình ngoan ngoãn như một con cừu non, đành phải hi sinh bộ mặt đẹp trai như vậy để chịu lòng mình, nên ông ta rất mủi lòng với giọng nghẹn ngào lại hỏi rằng:

– Có thực... con đã hiểu rõ ý định... của sư phụ, hay là... có thực con chịu để sư phụ phá hủy bộ mặt đẹp trai ấy không?

Mộ Quang cung kính đáp:

– Nếu ân sư không nỡ ra tay thì để Quang nhi tự bôi thuốc vào mặt vậy.

Nhất Minh thở dài một tiếng, gật đầu nghiến răng nói tiếp:

– Được lắm, Quang nhi, con có can đảm anh hùng như vậy, thực không hổ thẹn là đồ đệ cưng của Trà Nhất Minh này. Con... ngửng... mặt lên.

Mộ Quang không sợ hãi chút nào, ngửng mặt lên ngay và vẻ mặt rất tươi tỉnh.

Nhất Minh xé một mảnh vải vo tròn nhúng vào trong lọ thuốc nước, rồi bôi lên mặt Mộ Quang.

Nhưng thuốc chưa bôi vào mặt Mộ Quang, Nhất Minh không sao cầm lòng được, hai hàng lệ đã nhỏ ròng xuống, nhưng vẫn nghiến răng quát lớn:

– Quang nhi, con nhắm mắt lại. Bằng không... sư phụ... không sao hạ thủ được!

Mộ Quang trông thấy mặt của ân sư như thế mà chàng vẫn tươi cười, ngoan ngoãn nhắm nghiền mắt lại.

Nhất Minh gắng can đảm bôi thuốc vào má bên trái của Mộ Quang, đã có tiếng kêu “sèo” rất khẽ, Mộ Quang cảm thấy má bên trái nóng như bị phỏng. Thế là nơi đó đã có một vết sẹo thâm tím.

Nhất Minh nghiến răng bôi tiếp hết cả má bên trái của Mộ Quang, khiến nửa bộ mặt của chàng đã biến thành xấu xí ngay.

Mộ Quang vẫn ngồi yên, mặt vẫn tươi cười như thường, nhưng Nhất Minh đã nhận xét thấy trong cái cười của đô đệ mình có chút quái dị, nên ông ta càng mủi lòng thêm, thất thanh kêu gọi:

– Quang nhi!

Mộ Quang hơi hé to đôi mắt ra, mỉm cười hỏi:

– Ân sư muốn...

Với giọng run run, Nhất Minh hỏi tiếp:

– Quang nhi, nếu... sư phụ làm lầm một việc... con có hận sư phụ không?

Mộ Quang lắc đầu, mỉm cười và an ủi Nhất Minh rằng:

– Ân sư đừng đau lòng như thế. Quang nhi biết việc làm này của ân sư là vì thương con quá nỗi, có ý làm như thế để cho con đỡ bị tình cảm ràng buộc, như vậy mới nhất tâm hướng đạo được, cho nên con chưa biết nghĩ ra được cách gì để đền ơn sư phụ, thì có khi nào con lại oán hận ân sư cơ chứ?

Mộ Quang càng trả lời như thế. Nhất Minh càng mủi lòng rầu rĩ thêm. Ông ta nhìn má bên phải rất đẹp trai của chàng một hồi, lại nhìn má bên trái rất xấu xí, thất thanh thở dài một tiếng, rồi ném luôn lọ thuốc xuống đất vỡ tan tành.

Mộ Quang đang nhắm mắt đợi chờ ân sư tiếp tục ra tay bôi thuốc vào mặt mình, thì bỗng nghe thấy “Choang” một tiếng. Chàng vội mở mắt ra nhìn, thấy lọ thuốc đã bị vỡ, mảnh vỡ rải rác trên mặt đất và thuốc nước màu đen tím cũng bắn tung tóe.

Không đợi chờ Mộ Quang lên tiếng hỏi, Nhất Minh gượng cười nói tiếp:

– Quang nhi, việc làm này của sư phụ lầm hay không lầm? Có lẽ bây giờ con không sao hiểu được. Con mau nhặt nhạnh hành lý, rời khỏi nơi đây, tái nhập giang hồ, để sư phụ ở lại đây một mình suy nghĩ đã.

Mộ Quang nghe nói, ứa nước mắt ra, lắc đầu nói:

– Quang nhi không nỡ rời khỏi ân sư đi đâu cả.

Nhất Minh mỉm cười, chỉ bộ mặt tiều tụy của mình mà nói với Mộ Quang tiếp:

– Ngồi gần đây, sư phụ đã giở toàn lực ra để gây dựng cho con, sư phụ quên cả bổn thân, nên mặt mũi mới tiều tụy như thế này. Bây giờ con đã thành tài, tuy chưa dám nói là vô địch thiên hạ, nhưng không đến nỗi để người ta lên Hằng Sơn mắng chửi Trà Nhất Minh này là hồ đồ nữa. Như vậy con còn chưa hài lòng hay sao? Không để cho sư phụ được yên ổn tự lo liệu cho mình hay sao?

Lời lẽ của ông ta quá nặng nề, khiến Mộ Quang nghe thấy cũng phải giật mình đến thót một cái, và run lẩy bẩy cúi đầu xuống, không dám nói năng gì hết.

Nhất Minh thấy thế thở dài một tiếng, giơ tay ra vỗ vai Mộ Quang, mỉm cười nói tiếp:

– Quang nhi, không phải là sư phụ có ý là muốn đuổi con đi ngay đâu. Vì có con ở cạnh, sư phụ không sao tự lo liệu cho mình được chưa biết chừng sư phụ tiều tụy mà chết mất..

Mộ Quang nghe thấy Nhất Minh nói như thế, vội gạt lệ, gượng cười đáp:

– Ân sư đã nói như vậy, Mộ Quang xin vâng lời tái xuất giang hồ, để ân sư được an tâm tĩnh dưỡng.

Nhất Minh vừa cười vừa nói tiếp:

– Thế mới phải chứ. Quý hồ con ngoan ngoãn nghe lời sư phụ, thì sư phụ không còn ân hận gì cả.

Mộ Quang mỉm cười đáp:

– Tốt hơn hết xin ân sư cứ yên tâm mà tĩnh dưỡng, đừng có rời khỏi nơi đây, chờ con đi đại hội Bạch Long Đôi xong, thế nào cũng đến đây để đón rước ân sư về Bắc Nhạc.

Nhất Minh thấy đồ đệ không biết mình sắp chết đến nơi, lại càng mủi lòng thêm, nhưng ông ta không dám để lộ ra ngoài mặt, nên vẫn mỉm cười nói tiếp:

– Quang nhi cứ yên tâm, không bao giờ sư phụ rời khỏi nơi đây dâu. Con đi dự đại hội Bạch Long Đôi xong, thì quay trở lại đây đón sư phụ.

Nói xong, ông ta móc túi lấy lá thư mật ra, bảo Mộ Quang cất giữ cẩn thận và dặn chàng khi đại hội Bạch Long Đôi kết thúc rồi, mới được mở lá thư mật này ra coi.

Mộ Quang vâng lời, cất lá thư vào trong túi áo trong. Vì thấy sư phụ có vẻ quá mệt mỏi, chàng muốn sư phụ được yên nghỉ, nên vội nhặt nhạnh hành lý, cung kính vái lạy Nhất Minh rồi cáo lui ngay.

Nhất Minh gượng đứng dậy tiễn đồ đệ mình đi ra ngoài cứa hang. Mộ Quang cũng gượng làm ra vẻ vui tươi, quỳ xuống vái lạy ân sư, rồi mới quay người đi, nhưng chàng vừa quay người đi, nước mắt đã nhỏ ròng xuống. Chàng nghiến răng mím môi giở khinh công tuyệt đỉnh ra đi luôn.

Nhất Minh đứng ở cửa hang nhìn theo cho tới khi khuất bóng đồ đệ rồi ông ta mới ứa hai hàng lệ ra và từ từ vào trong hang. Trước khi trở vào, ông ta còn nhìn lại cảnh sắc ở ngoài cửa hang một lượt, tự biết mình đã hết hy vọng sống còn, nên ông ta mỉm cười rồi mới đi vào trong hang, đóng cửa hang lại, và dẫn nước ở trên vách cho từ từ chảy xuống mặt đất chỗ Mộ Quang đã dùng Đảng Ma Thần Âm làm saün mộ huyệt cho mình.

Chờ tới những bột đá ướt hết, ông ta mới ngắt nguồn nước ở chỗ vách, không cho chảy nữa, rồi mỉm cười, nằm ngửa người lên giữa chỗ bột đá đã ướt ấy, rồi nhắm nghiền hai mắt lại, tắt thở ngay.

Tất nhiên bột đá đã ướt, không sao chịu nổi sức nặng của xác người, di thể của ông ta cứ thế mà từ từ lún xuống. Khi người ông ta lún xuống dưới đáy hồ, thì những bọt đá bị dồn lên trên, tự động khép lại. Thế là Bắc Nhạc đại hiệp đã vĩnh viễn biệt trần gian, nằm ngủ một giấc nghìn năm ở trong thạch quách kỳ dị và đặc biệt ấy.

Nhất Minh đã chết, lại nói đến chuyện Mộ Quang. Chàng ra khỏi u cốc, đầu óc lúc nào cũng nghĩ đến ân sư, nên vừa đi nước mắt vừa lã chã nhỏ xuống. Khi chàng đi tới trước một cái đầm, chàng liền ngừng chân ngồi xuống để ngắm nhìn lại bộ mặt. Chàng thấy trên mặt nước đã hiện bộ mặt quái dị của mình lên, một nửa bên trái rất xấu xí, một nửa bên phải rất đẹp trai. Chàng vừa tức cười vừa mủi lòng và nghĩ bụng:

“Sao ân sư lại không hủy hết bộ mặt của mình đi, để lại nửa đẹp nửa xấu như thế này, lại càng làm cho mình bứt rứt thêm”.

Thở dài một tiếng, chàng mới nghĩ tới không biết bây giờ nên đi đâu, vì đại hội Bạnh Long Đôi còn cách bốn tháng rưỡi nữa mới tới, tất nhiên lúc này chả cần phải tới đó vội, nhưng biết đi đâu bây giờ? Và cần nhất đừng có lỡ ngày hội mới được.

Chàng lại nghĩ ân sư hủy bộ mặt của mình, e như thế là để mình đừng nghĩ tới ái tình mà quên hết sự nghiệp. Vậy mình cần phải lánh mặt mấy vị hồng nhan tri kỷ mới được.

Đã có ý định ấy rồi, Mộ Quang đi lững thững ở cạnh cái đầm, nhưng vẫn chưa nghĩ ra được, nên đi về phía Đông Tây hay là phía Nam Bắc?

Trong lúc trù trừ khó giải quyết, thì chàng thấy trên bờ đầm có một người xuất hiện. Người này là một vị công tử mặc áo lông điêu, trông rất phong lưu tao nhã Chàng ta ở phía Đông Nam, tức miền hạ du của Huyết Hà, lững thững đi lên, vừa đi vừa xem cảnh sắc hùng vĩ của núi A Nhĩ Kim này. Mộ Quang đã đoán biết thiếu niên công tử đó tuy trông gầy gò yếu ớt, nhưng chắc thế nào cũng có tài ba phi phàm. Vì không có võ học cao minh thì không ai dám đi du hành một mình ở nơi băng tuyết này.

Thiếu niên công tử nọ ngẫu nhiên trông thấy Mộ Quang nửa mặt đẹp, nửa mặt xấu xí, đã vội vái chào, mỉm cười nói:

– Nhân huynh một mình đi du ngoạn núi tuyết như thế này kể cũng có nhã hứng lắm, nhất là sau lưng áo đeo cái cung vàng ắt phải là một cao thủ xạ điêu của miền Tây Vực này?

Mộ Quang nhận thấy thiếu niên này tuy lạ mặt, nhưng ngôn ngữ cử chỉ thì hình như mình đã quen biết. Đồng thời, chàng thấy đối phương lễ phép như thế và còn khen cây cung của mình, vội cởi cây cung báu xuống quay người lại, chắp tay đáp lễ, vừa cười vừa trả lời:

– Huynh đài sành mắt lắm, cây cung này của tiểu đệ không đến nỗi thường tục, còn huynh đài khen đệ là cao thủ xạ điêu thì đệ không dám vì từ khi tiểu đệ được cây cung này tới giờ, chưa hề thử thách qua, không biết liệu có thể bắn nổi những con chim điêu của Tây Vực này hay không?

Mộ Quang quay người lại, nửa mặt trái trông rất xấu xí khiến thiếu niên nọ cũng phải thất kinh, kêu “Ủa” một tiếng, lui ngay về phía sau hai bước.

Mộ Quang biết đối phương đã thất kinh vì thấy bộ mặt xấu xí của mình đã bị phá hủy bởi chất kỳ độc, không có thuốc gì cứu chữa nổi.

Thiếu niên nọ hơi định tâm thần, chắp tay vừa vái chào lần nữa vừa cười vừa hỏi:

– Nhân huynh quý tánh danh là gì? Một bên mặt bị chất độc gì phá hủy thế?

Mộ Quang tái xuất giang hồ kỳ này là nhất tâm giương cái danh của phái Bắc Nhạc, tất nhiên chàng phải giữ nguyên tên họ, nên chàng mỉm cười đáp:

– Tiểu đệ là Nghiêm Mộ Quang, vết sẹo trên mặt là bị một thứ thuốc độc vô danh bắn phải. Cám ơn huynh đài đã có lòng hỏi thăm như thế. Chưa thỉnh giáo danh hiệu của huynh đài là gì?

Thiếu niên nọ mỉm cười, nhanh nhẩu đáp:

– Tiểu đệ là Hồng Phối Nguyên, Nghiêm huynh có phải là Ngọc Địch Kim Cung Thần Kiếm Thủ đại hiệp của phái Bắc Nhạc đấy không?

Mộ Quang kêu “Ủa” một tiếng, ngạc nhiên hỏi tiếp:

– Sao Hồng huynh lại biết biệt hiệu của tiểu đệ với tôn phái như vậy?

Phối Nguyên cười ha hả đáp:

– Đừng sợ đường đời không có bạn. Thiên hạ ai mà chả biết huynh? Đừng nói tên tuổi của Nghiêm huynh đã lừng lẫy khắp giang hồ từ lâu, mà cả hai hồng phấn tri kỷ cũng có tên tuổi oai trấn bát hoang tứ hải nốt.

Mộ Quang nghe nói càng kinh hãi thêm, nhìn thẳng vào mặt Phối Nguyên, cau mày lại tiếp:

– Sao Hồng huynh lại nói như thế? Nghiêm mỗ làm gì có hồng phấn tri âm nào?

Phối Nguyên mỉm cười đỡ lời:

– Phong lưu giai thoại của Nghiêm huynh đã lừng lẫy khắp giang hồ, huynh còn giấu diếm tiểu đệ làm chi? Âm Tố Mai với Lệnh Hồ Sở Sở, hai vị mỹ nhân có võ công tuyệt thế ấy chả có tình duyên với huynh rồi là gì?

Mộ Quang càng kinh hãi thêm, không hiểu tại sao Hồng Phối Nguyên này lại biết rõ chuyện của mình như thế, liền lắc đầu, thở dài đáp:

– Lời nói của Hồng huynh đã là chuyện quá khứ rồi. Tố Mai được liệt danh vào Thế Ngoại Bát Hung, chí hướng khác hẳn với đệ, như vậy làm sao mà ở với nhau lâu bền được? Còn Lệnh Hồ Sở Sở thì đã lấy chồng...

Phối Nguyên vội ngắt lời hỏi lại:

– Nghiêm huynh bảo Lệnh Hồ Sở Sở đã lấy ai?

Mặt lộ vẻ rầu rĩ một cách tự nhiên, Mộ Quang thủng thẳng đáp:

– Chồng của nàng tên là Gia Cát Lang, người bạn kết nghĩa của đệ.

Phối Nguyên nghe xong, lắc đầu cả cười. Mộ Quang ngạc nhiên hỏi:

– Sao Hồng huynh lại cười như thế chứ? Lời của đệ vừa nói là sự thật hoàn toàn, chứ không phải là tiểu đệ bịa đặt đâu.

Phối Nguyên mỉm cười hỏi tiếp:

– Nghiêm huynh có biết Âm Tố Mai với Lệnh Hồ Sở Sở hai vị giai nhân tuyệt vời đang đi khắp chân trời góc biển tìm kiếm huynh không?

Mộ Quang gượng cười đáp:

– Âm Tố Mai tìm kiếm tiểu đệ thì có lý, nhưng đệ đã sớm cắt đứt sợi tơ tình rồi, quyết không để cho nàng ta quấy nhiễu mình nữa. Còn Lệnh Hồ Sở Sở định tìm kiếm tiểu đệ làm chi? Mộ Quang chỉ mong nàng với Gia Cát hiền đệ được bách niên giai lão là đệ mừng rồi.

Phối Nguyên không sao nhịn được nữa, lại cười lên ha hả nói tiếp:

– Tiểu đệ có hai việc rất quan trọng muốn nói cho huynh nghe.

Mộ Quang gật đầu đáp:

– Xin huynh cứ nói. Mộ Quang tôi rất vui lòng được nghe hai việc ấy.

Phối Nguyên thở dài một tiếng, nói tiếp:

– Thế sự như bàn cờ, không đi nước nào mới là cao thủ, người ở trong cuộc bao giờ cũng u mê. Nghiêm huynh là người thông minh như thế, mà cho đến giờ phút này vẫn chưa hiểu rõ Lệnh Hồ Sở Sở tức là Gia Cát Lang hay sao?

Mới thấy Phối Nguyên nói như vậy, Mộ Quang dậm chân xuống đất một cái.

Chàng nghĩ lại những việc xưa, mới vỡ nhẽ và thở dài nói:

– Đệ... đệ ngu xuẩn thực, bây giờ được Hồng huynh nhắc nhở và hồi tưởng lại, đáng lẽ đệ phải biết Gia Cát Lang người đã kết nghĩa anh em và đi cùng với đệ hàng vạn dặm ấy chính là Lệnh Hồ Sở Sở đã có lòng đoái hoài đến đệ mới phải...

Nói tới đó, chàng bỗng tỏ vẻ kinh ngạc, đưa mắt nhìn Phối Nguyên và hỏi tiếp:

– Hồng huynh, Lệnh Hồ Sở Sở đã là Gia Cát Lang, tại sao lại còn bịa đặt lấy nhau như thế để đánh lừa đệ làm chi?

Phối Nguyên mỉm cười đáp:

– Lệnh Hồ cô nương thấy huynh rất si tình với Hứa Linh Sa và khi tới cái đồi cát, mới biết Hứa Linh Sa hãy còn sống, nên nàng không muốn đoạt người yêu của người khác, mà giả bộ tuyên bố lấy Gia Cát Lang để huynh yên tâm nhất chí yêu đương Hứa Linh Sa đấy.

Mộ Quang nghe nói cảm động đến ứa nước mắt ra lắc đầu thở dài nói tiếp:

– Bụng dạ của Lệnh Hồ Sở Sở quả thực vĩ đại thực, nhưng nàng có biết đâu Hứa Linh Sa đã có chồng con rồi.

Phối Nguyên gật đầu đỡ lời:

– Sau cô ta biết Hứa Linh Sa đã có chồng con rồi, lại sợ huynh bị đả kích nặng, nên đã đem theo hai nữ tỳ Thanh và Hồng đi khắp chân trời góc biển để tìm huynh hoài.

Mộ Quang cứ lắc đầu hoài, nhưng chàng bỗng sực nghĩ tới việc gì, lại nhìn Phối Nguyên ngơ ngác hỏi tiếp:

– Tình tiết éo le ấy, chỉ có người trong cuộc mới hay rõ như thế được? Còn huynh là người ngoài cuộc sao lại biết rõ đến như thế?

Phối Nguyên mỉm cười đáp:

– Tiểu đệ quen biết Nhiếp Tiểu Thanh cô nương, nên được cô ta kể cho hay câu chuyện ấy một cách rất tường tận.

Mộ Quang kêu “Ồ” một tiếng, rồi cúi đầu xuống không nói năng gì nữa, nhưng trong lông cảm thấy bứt rứt khôn tả:

Phối Nguyên thấy Mộ Quang như vậy, muốn làm cho chàng ta khỏi rầu rĩ, liền mỉm cười hỏi:

– Huynh có thể cho đệ mượn xem cây bảo cung ở trong tay của huynh không?

Mộ Quang liền đưa cây cung đó Cho Phối Nguyên xem.

Phối Nguyên đỡ lấy cây cưng xem qua loa một chút, bỗng thất kinh nói:

– Cây bảo cung của Nghiêm huynh quả thực phi phàm, hình như làm bằng Âm Thầm Trúc nghìn năm thì phải?

Mộ Quang rất kính phục đối phương, vì thấy đối phương vừa xem đã nhận ngay ra được lai lịch như vậy, chàng liền gật đầu mỉm cười đáp:

– Mắt của Hồng huynh sành lắm, cây cung này quả thực làm bằng Âm Trầm Trúc nghìn năm đấy. Tiếc thay thần cung hơi cứng rắn một chút.

Phối Nguyên nhanh nhẩu cười và hỏi tiếp:

– Nghiêm huynh có cho phép tiểu đệ thử kéo bảo cung của huynh để xem cây cung này cứng rắn như thế nào không?

Mộ Quang cũng muốn nhân dịp này thử xem võ công của người bạn mới quen biết này cao siêu tới mức độ nào, cho nên chàng gật đầu mỉm cười đáp:

– Được, Hồng huynh cứ việc thử đi, nhưng cung này to khác hơn cung thường, nếu mà không cẩn thận sẽ dễ bị sái gân tay lắm đấy.

Phối Nguyên chỉ dùng giọng mũi khẽ “Hừ” một tiếng, rồi vận hết công lực ra, chàng tự tin thể nào cũng kéo nổi cây cung này nên mới có vẻ không phục như thế.

Mộ Quang cũng rất biết điều, không nói gì nữa, cứ lẳng lặng xem hai cánh tay của đối phương có thần công cái thế và có đủ ba nghìn cân sức không?

Tuy Phối Nguyên không phục lắm, nhưng cũng biết cây cung này không phải là cung thường, liền vận mười thành công lực lên để thử xem cây cung này cứng rắn đến mức độ nào. Ngờ dâu chàng vừa thử một cái thì mặt đã đỏ bừng ngay.

Thì ra Phối Nguyên đã vận đến mười một thành công lực lên rồi, mà cũng chỉ kéo ra được có hai tấc thôi. Người tuổi trẻ ai mà chả hiếu thắng, nên Phối Nguyên nghiến răng mím môi giở nốt một phần chân lực cuối cùng ra dồn vào hai cánh tay.

Dù chàng đã giở nốt một thành chân lực nữa ra cũng vô ích, vẫn chỉ kéo được cây cung ra có hai tấc thôi, và hai cánh tay của chàng đã run lẩy bẩy, hình như đã chịu đựng không nổi rồi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.