Đó là cách Dellray nhìn Lincoln Rhyme khi anh ta bước vòng quanh giường. Vài người đã làm thế. Bại liệt là một câu lạc bộ trong đó họ tổ chức dạ hội với chuyện đùa, những cái gật đầu, nháy mắt. Anh biết là tôi mến anh mà, vì tôi sẽ trêu đùa với anh.
Lincoln Rhyme biết rằng thái độ này sẽ biến mất nhanh chóng.
“Nhìn này”, Dellray vừa nói vừa chỉ Clinitron. “Cảnh trong Star Trek. Chỉ huy Riker, lên tàu ngay.”
“Biến đi, Dellray”, Polling nói. “Đây là vụ của chúng tôi.”
“Tình hình bệnh nhân của ta ra sao, bác sĩ Crusher?”
Viên đại úy tiến lên phía trước, viên đặc vụ FBI cao kều cúi người xuống. “Dellray, anh nghe tôi nói không? Biến đi.”
“Ái chà, Rhyme, tôi sẽ cố kiếm cho mình một cái giường thế này. Nằm xem thế nào cũng không tệ. Nghiêm chỉnh đấy, Lincoln, anh thế nào? Mấy năm rồi còn gì.”
“Họ có gõ cửa không?” Rhyme hỏi Thom.
“Không, họ chẳng buồn gõ cửa.”
“Các anh không gõ cửa”, Rhyme nói. “Thế thì tôi khuyên các anh nên đi ra.”
“Tôi có giấy phép đây”, Dellray lẩm bẩm, búng búng vào tờ mớ giấy tờ trong túi áo ngực.
Móng tay trỏ của Amelia Sachs cậy ngón tay cái của cô tới mức gần bật máu.
Dellray nhìn quanh phòng. Rõ ràng là anh ta bị ấn tượng bởi phòng thí nghiệm ngẫu hứng của họ nhưng lại nhanh chóng che đậy cảm giác đó. “Xin lỗi. Chúng tôi tiếp quản vụ này.”
Trong hai mươi năm làm cảnh sát, chưa bao giờ Rhyme gặp tình huống tiếp quản bắt buộc như vụ này.
“Mặc mẹ nó, Dellray”, Sellitto bắt đầu. “Anh chuyển vụ này rồi mà.”
Viên đặc vụ quay khuôn mặt đen bóng của mình lại cho tới khi anh ta nhìn xuống viên thám tử.
“Chuyển? Chuyển? Tôi không hề nghe gì về vụ này. Anh có gọi điện cho tôi không?”
“Không.”
“Thế thì ai thả xu[98]?”
“Thế thì…”, Sellitto ngạc nhiên, liếc nhìn Polling. Anh ta nói: “Các anh có tư vấn. Đó là mọi thứ chúng tôi phải gửi cho anh.” Lúc này anh ta cũng đang chống chế.
“Tư vấn. Được đấy. Này, mà nó được chuyển thế nào nhỉ? Có phải bằng Pony Ex-press[99] không? Hay qua đường bưu điện? Nói tôi nghe, Jim, tư vấn qua đêm thì có ích lợi gì cho một chiến dịch đang triển khai?”
Polling nói: “Chúng tôi không thấy nhu cầu.”
“Chúng tôi?” Dellray hỏi nhanh. Như một phẫu thuật gia tìm thấy một khối vi u.
“Tôi thấy không cần thiết”, Polling vặc lại. “Tôi nói với ngài Thị trưởng nên giữ vụ này như một vụ của địa phương. Chúng tôi kiểm soát được nó. Giờ thì biến đi, Dellray.”
“Và anh nghĩ anh có thể làm xong nó cho kịp bản tin mười một giờ?”
Rhyme giật mình khi Polling quát: “Chúng tôi nghĩ gì không phải việc của anh, khốn kiếp. Vụ chết tiệt này là của chúng tôi.” Anh biết tính khí nổi tiếng của viên đại úy, nhưng chưa bao giờ được chứng kiến.
“Thực… ra, bây giờ thì vụ chiết tiệt này là của chúng tôi.” Dellray đi ngang qua cái bàn đặt thiết bị của Cooper.
Rhyme nói: “Đừng làm thế, Fred. Chúng tôi đang nắm được thằng cha này. Hãy làm việc cùng chúng tôi, nhưng đừng lấy vụ này. Đối tượng không giống với bất kỳ kẻ nào anh đã gặp.”
Dellray mỉm cười. “Hãy xem, tin mới nhất mà tôi nghe được từ vụ ‘chết tiệt’ này là gì? Các anh để một thường dân xét nghiệm pháp y.” Viên đặc vụ ném một cái nhìn về phía chiếc giường Clinitron. “Các anh để một cảnh sát tuần tra đi khám nghiệm hiện trường. Các anh bắt quân lính đi mua thực phẩm.”
Dellray trông có vẻ thất vọng. “Nhưng đó là ESU, Lincoln? Tiền của người nộp thuế cả đấy. Rồi còn cưa người ta ra, cứ như trong Texas Chainsaw[101] vậy…”
Thế quái nào mà tin này lại rò rỉ ra được? Tất cả mọi người đã thề là sẽ bảo vệ bí mật vụ cưa cắt này rồi cơ mà.
“Rồi tôi còn nghe nói quân của Haumann tìm thấy nạn nhân nhưng không vào cứu cô ta ra ngay, đúng không? Kênh Năm có mic trên đó. Nghe được cô ta kêu gào tới năm phút trước khi các anh cho người vào.” Anh ta ném cho Sellitto một cái liếc nhăn nhở. “Lon, bạn tôi, đây có phải là vấn đề mà ta vừa nói đến không?”
Họ đã đi khá xa, Rhyme nghĩ. Họ đã cảm nhận được hắn, bắt đầu học được ngôn ngữ của hắn. Bắt đầu nhìn thấy hắn. Với một chút ngạc nhiên anh hiểu ra rằng, một lần nữa anh đang làm những gì anh yêu thích. Sau bao nhiêu năm. Nhưng bây giờ có người muốn tước đoạt điều đó từ anh. Cơn giận dữ dâng lên trong anh.
“Lấy vụ này đi, Fred”, Rhyme gầm gừ. “Nhưng đừng gạt chúng tôi ta. Đừng làm thế.”
“Các anh đã mất hai nạn nhân”, Dellray nhắc.
“Chúng tôi chỉ mất một”, Sellitto sửa lại. Anh ta nhìn Polling lúc này đang cáu kỉnh. “Chúng tôi chẳng làm gì được với nạn nhân đầu tiên. Anh ta là quân bài đã hạ.”
Dobyns đứng khoanh tay, quan sát cuộc cãi vã. Nhưng Jerry Banks nhảy vào: “Chúng tôi đã nắm được cách thức hoạt động của hắn. Chúng tôi sẽ không để mất thêm ai nữa.”
“Các anh sẽ đánh mất nếu các anh tiếp tực để đội ESU ngồi nghe nạn nhân la hét.”
Sellitto nói: “Đó là…”
“Quyết định của tôi”, Rhyme nói. “Của tôi.”
“Nhưng anh là dân thường, Lincoln. Như vậy, không thể là quyết định của anh được. Đó có thể là gợi ý của anh. Đó có thể là khuyến nghị của anh. Nhưng tôi không nghĩ đó là quyết định của anh.”
Dellray lại chuyển sự chú ý sang Sachs. Mắt nhìn cô, anh ta nói với Rhyme: “Anh bảo Peretti đừng khám nghiệm hiện trường? Thật ngạc nhiên đấy, Lincoln. Sao anh lại làm một điều như thế nhỉ?”
Rhyme nói: “Tôi giỏi hơn anh ta.”
“Peretti không hài lòng lắm đâu. Không hề. Anh ta và tôi đã nói chuyện với Eckert.”
Eckert? Phòng Truyền thông? Ông ta dính dáng gì ở đây?
Anh đã hiểu ra khi liếc nhìn Sachs, nhìn vào đôi mắt xanh được bao bọc bởi những lọn tóc đỏ rối bù đang cố tình lảnh tránh ánh mắt anh.
Rhyme đóng đinh cô bằng một cái nhìn mà cô nhanh chóng lờ đi. Và anh nói với Dellray: “Xem nào… Peretti? Chẳng phải anh ta là người đã cho thông xe qua chỗ đối tượng đứng nhìn nạn nhân đầu tiên của hắn? Chẳng phải anh ta là người giải phóng hiện trường trước khi chúng tôi có cơ hội thu thập được một dấu vết quan trọng nào đó? Hiện trường mà Sachs của tôi ở đây đã nhìn thấy trước là phải chặn đường giao thông. Sachs của tôi đã làm đúng trong khi Vince Peretti và những người khác làm sai hết. Đúng thế, cô ấy đúng.”
Cô nhìn chăm chăm ngón tay cái, cái nhìn cho thấy một cảnh tượng quen thuộc, rồi cho tay vào túi lấy ra một tờ giấy thấm quấn quanh ngón trỏ đẫm máu.
Dellray tổng kết: “Đáng ra các anh phải gọi cho tôi ngay từ đầu.”
“Cút đi ngay”, Polling lầm bầm. Có gì đó xuất hiện trong mắt anh ta và anh ta cao giọng. “Cút ngay khỏi đây!” Anh ta gào lên.
Một người bình tĩnh như Dellray cũng phải giật mình lùi lại phía sau vì nước bọt bắn ra từ miệng viên đại úy.
Rhyme nhăn mặt vì Polling. Rất có thể họ sẽ cứu vớt được chút gì trong vụ này, nhưng sẽ hỏng hết nếu Polling lên cơn giận. “Jim…”
Viên đại úy lờ anh đi. “Cút!” Anh ta quát lên lần nữa. “Các anh không được lấy vụ này!” Mọi người trong phòng đầu giật bắn mình, Polling lao lên, tóm ve áo màu xanh lá của viên đặc vụ FBI rồi dồn anh ta vào tường. Sau một khắc im lặng ngạc nhiên, Dellray đẩy viên đại úy ra, đơn giản chỉ bằng một ngón tay và móc chiếc điện thoại di động. Anh ta đưa nó cho Polling.
“Gọi cho Thị trưởng. Hay sếp Wilson.”
Polling lùi xa ra khỏi Dellray theo bản năng – người thấp luôn giữ một khoảng cách với người cao. “Nếu anh muốn vụ này, anh có mẹ nó rồi đấy.” Viên đại úy bước ra cầu thang và đi xuống. Cửa trước sập mạnh.
“Lạy chúa, Fred”, Sellitto nói, “làm việc với bọn tôi. Chúng ta có thể tóm thằng khốn đó.”
“Chúng ta cần A-T của Cục”, Dellray nói, giọng anh ta nghe đầy thuyết phục. “Các anh chưa nhìn từ góc độ khủng bố.”
“Góc độ chống khủng bố nào?” Rhyme hỏi.
“Hội nghị hòa bình Liên Hiệp Quốc. Đặc tình của tôi nói, có tin đồn rằng có gì đó xảy ra tại sân bay. Chỗ hắn ta tóm nạn nhân.”
“Tôi không cho rằng hắn ta là khủng bố”, Dobyns nói. “Bất kể điều gì diễn ra trong con người hắn đều có động cơ tâm lý. Không có vấn đề ý thức hệ.”
“Nhưng, sự thật là Quantico và chúng tôi nghĩ về hắn theo một cách. Tôi đánh giá cao việc các anh nghĩ khác. Nhưng đây là cách chúng tôi xử lý vụ này.”
Rhyme đầu hàng. Sự mệt mỏi làm anh nản chí. Anh ước gì sáng nay Sellitto và viên trợ lý mặt sẹo của anh ta không đến đây. Anh ước gì anh không gặp Amelia Sachs. Anh ước gì anh không mặc cái áo sơ mi bảnh bao ngớ ngẩn này, nó chỉ làm anh thấy nghẹt cổ và tạo ra cảm giác như không có gì dưới nó.
Anh nhận thấy Dellray đang nói với mình.
“Xin lỗi?” Rhyme nhướn mày.
Dellray hỏi: “Ý tôi là, liệu chính trị có thể là động cơ của hắn không?”
“Tôi không quan tâm tới động cơ”, Rhyme trả lời. “Tôi chỉ quan tâm tới chứng cứ.”
Dellray nhìn vào cái bàn của Cooper một lần nữa. “Như vậy vụ này là của chúng tôi. Mọi người nhất trí chứ?”
“Lựa chọn của chúng tôi là gì?” Sellitto hỏi.
“Các anh hỗ trợ người tìm kiếm cho chúng tôi. Hoặc các anh có thể dừng hoàn toàn. Tất cả chỉ còn lại có thế. Giờ thì, nếu các anh không phiền, chúng tôi lấy vật chứng được rồi chứ?”
Banks ngần ngừ.
“Đưa cho họ đi”, Sellitto ra lệnh.
Viên cảnh sát trẻ tuổi nhặt những cái túi đựng vật chứng thu lượm được từ hiện trường mới đây lên, cho chúng vào trong một cái túi nhựa to. Dellray chìa tay ra. Banks nhìn vào những ngón tay gầy guộc rồi ném cái túi xuống bàn, sau đó đi ra góc xa của căn phòng – phía cảnh sát. Lincoln Rhyme là khu phi quân sự phân cách họ, Amelia Sachs đứng như trời trồng cạnh chân giường của Rhyme.
Dellray nói với cô: “Sĩ quan Sachs?”
Sau một khoảng lặng cô trả lời, mắt vẫn nhìn Rhyme: “Có?”
“Trưởng ban Eckert muốn cô đi cùng chúng tôi để báo cáo về các hiện trường vụ án. Ông ta có nói gì đó về việc cô sẽ bắt đầu công việc mới vào thứ Hai.”
Cô gật đầu.
Dellray quay lại phía Rhyme và chân thành nói: “Anh đừng lo, Lincoln. Chúng tôi sẽ tóm được hắn. Lần sau anh sẽ được nghe là hắn đã bị bêu đầu ngoài cổng thành phố.”
Anh ta gật đầu ra hiệu cho những cộng sự của mình, họ đang đóng gói vật chứng và đi xuống cầu thang. Từ ngoài hành lang, Dellray gọi Sachs. “Cô đi luôn chứ, sĩ quan?”
Cô đứng đó, hai tay nắm vào nhau như một cô học trò tại buổi dạ hội mà cô ta thấy hối hận vì đã đến.
“Tôi đi ngay.”
Dellray biến mất dưới cầu thang.
“Bọn quái vật”, Banks lẩm bẩm, vứt quyển sổ ghi chép của mình xuống bàn. “Không thể tin được, phải không?”
Sachs đung đưa trên gót chân.
“Amelia, cô nên đi thì hơn”, Rhyme nói. “Xe đang đợi cô.”
“Lincoln.” Cô lại gần giường.
“Được rồi”, anh nói. “Cô làm điều cô phải làm.”
“Tôi chẳng có gì liên quan đến khám nghiệm hiện trường”, cô buột miệng. “Tôi không bao giờ thích.”
“Và cô sẽ không còn phải làm nữa. Như mong muốn, phải không nào?”
Cô đã bắt đầu đi ra cửa, nhưng quay lại và thốt lên: “Anh chẳng quan tâm đến cái gì khác ngoài chứng cứ, đúng không?”
Banks và Sellitto bồn chồn, nhưng Sachs lờ họ đi.
“Này, Thom, cậu tiễn Amelia, được không?”
Sachs tiếp tục. “Với anh đây chỉ là trò chơi, đúng không? Monelle…?”
“Ai?”
Mắt cô tóe lửa. “Đó. Thấy chưa? Anh còn không nhớ cả tên cô ta. Monelle Gerger. Cô gái trong đường hầm... cô ấy chỉ là một phần trong câu đố của anh. Chuột bọ bò đầy người cô ấy, còn anh nói: ‘Đấy là bản chất của chúng? Đấy là bản chất của chúng? Cô ấy sẽ không bao giờ trở lại được như xưa, còn anh thì chỉ quan tâm đến mấy thứ chứng cứ quý báu của anh?”
“Khi những nhân chứng còn sống”, anh lên giọng đều đều, dạy dỗ, “vết cắn của loài gặm nhấm chỉ là những vết thương bề mặt. Ngay khi những con vật đó nhỏ nước dãi vào cô ta là cô ta đã phải tiêm phòng dại. Vậy thì thêm mấy vết cắn nữa cũng có quan trọng không?”
“Sao anh không hỏi ý kiến cô ấy?” Nụ cười của Sachs lúc này khác đi. Nó trở nên độc địa, như nụ cười của những hộ lý và trợ lý trị liệu, những kẻ căm ghét người tàn tật. Họ lúc nào cũng lượn quanh khu hồi phục chức năng với kiểu cười như vậy. Ừ, đằng nào thì anh cũng không thấy hài lòng với cô Amelia Sachs lịch sự; anh muốn một người nóng tính...
“Trả lời tôi đi chứ, Rhyme. Thực sự thì vì sao anh lại muốn tôi?
“Thom, vị khách của chúng ta không còn được chào đón nữa. Cậu làm ơn...”
“Lincoln”, người trợ lý nói.
“Thom”, Rhyme cáu kỉnh, “tôi đang bảo cậu làm việc đấy”.
“Vì tôi chẳng biết cái con khỉ gì, đúng không?” Sachs buột miệng. “Chính thế đấy! Anh không muốn một kỹ thuật viên CS thực sự vì lúc đó anh sẽ không có quyền. Còn tôi, anh có thể bắt tôi đi ra đây, ra kia. Tôi làm đúng những thứ anh cần, không hề than vãn hay oán trách.”
“À, binh biến...”, Rhyme nói, ngước mắt lên trần nhà.
“Nhưng tôi không phải lính. Ngay từ đầu tôi đã không muốn thế.”
“Tôi cũng không muốn. Nhưng giờ thì ta ở đây. Trên giường với nhau. Ồ, ít nhất là một người trong chúng ta.” Anh biết, nụ cười lạnh lùng của anh băng giá gấp nhiều lần nụ cười lạnh lùng nhất của cô.
“Vì sao, Rhyme, anh chỉ là một đứa trẻ hỗn xược được nuông chiều mà thôi.”
“Này sĩ quan, hết giờ rồi đấy”, Sellitto quát.
Nhưng cô vẫn tiếp tục: “Anh không còn làm công việc khám nghiệm hiện trường được nữa, tôi lấy làm tiếc về điều đó. Nhưng anh đang làm ảnh hưởng tới cuộc điều tra chỉ vì muốn ve vuốt lòng tự ái của mình và tôi nói như thế thật vớ vẩn.” Cô vơ lấy chiếc mũ tuần tra và lao ra khỏi phòng.
Anh nghĩ sẽ có tiếng sập cửa rất mạnh, có thể cả tiếng kính vỡ. Nhưng chỉ có một tiếng va nhẹ, rồi im lặng.
Khi Jerry Banks nhặt cuốn sổ của mình lên và lần giở nó với vẻ tập trung thái quá, Sellitto nói: “Lincoln, tôi xin lỗi. Tôi...”
“Không sao”, Rhyme nói, ngáp thật dài, hy vọng làm cho trái tim nhức nhối của anh bình ổn. “Hoàn toàn không sao.”
Mấy viên cảnh sát đứng cạnh cái bàn gần như trống trơn trong sự im lặng đáng sợ, sau đó Cooper nói: “Gói ghém đi thôi.” Anh ta nhấc hộp kính hiển vi lên bàn, bắt đầu tháo ống ngắm với sự chăm chút của một nhạc công đang tháo cây kèn saxophone của mình.
“Được rồi, Thom”, Rhyme nói. “Mặt trời lặn rồi đấy. Cậu có biết thế nghĩa là gì không? Các quầy bar mở cửa.”
Phòng chiến trận của họ thật ấn tượng. Nó vượt xa phòng ngủ của Rhyme.
Ba tá đặc vụ, máy tính và bảng điện tử như trong phim của Tom Clancy chiếm nửa tầng trong tòa nhà liên bang. Các đặc vụ trông như luật sư hay nhân viên ngân hàng đầu tư. Sơ mi trắng, cà vạt. Bảnh bao là từ đầu tiên xuất hiện trong đầu. Amelia Sachs đứng giữa phòng, nổi bật trong bộ đồng phục màu xanh hải quân, thấm đầy máu chuột, bụi bẩn và tế bào của đám súc vật đã chết hàng trăm năm.
Cô đã hết run rẩy vì cuộc cãi vã với Rhyme và mặc dù đầu óc cô quay cuồng với hàng nghìn điều cô muốn nói, ước gì cô đã nói, cô bắt mình tập trung vào những gì đang diễn ra xung quanh.
Một đặc vụ cao mặc bộ vét xám không chê vào đâu được đang hội ý với Dellray – hai người đàn ông cao lớn, cúi đầu nghiêm nghị. Cô tin rằng anh ta là Thomas Perkins, đặc vụ phụ trách văn phòng Manhattan, nhưng cô không chắc chắn lắm; quan hệ với FBI của một nhân viên Đội Tuần tra cũng không nhiều hơn của nhân viên tạp vụ hay là nhân viên bán bảo hiểm. Anh ta trông có vẻ thiếu hài hước, có năng lực và luôn luôn nhìn lên tấm bản đồ Manhattan to tướng treo trên tường. Perkins gật đầu mấy lần khi Dellray báo cáo với anh ta, sau đó anh ta bước đến chỗ cái bàn gỗ ép, trên đó đầy những cặp tài liệu, nhìn xuống nhóm đặc vụ và bắt đầu nói.
“Mọi người làm ơn chú ý… Tôi vừa nói chuyện với giám đốc và chưởng lý tại Washington. Tất cả chúng ta đều biết về đối tượng tại sân bay Kennedy. Đây là một hồ sơ không bình thường. Bắt cóc, không có yếu tố tình dục, thường thì đó không phải động cơ giết người hàng loạt. Trên thực tế, đây là đối tượng đầu tiên của loại này mà chúng ta bắt gặp tại Quận Nam. Tính đến khả năng có quan hệ với những sự kiện tại Liên Hiệp Quốc trong tuần này, chúng ta đang phối hợp với trụ sở trung tâm, Quantico và văn phòng Tổng thư ký. Chúng ta được quyền hoàn toàn chủ động trong vụ này. Mức ưu tiên cao nhất.”
SAC nhìn Dellray đang nói: “Chúng ta tiếp quản vụ này từ NYPD nhưng chúng ta sẽ dùng họ làm lực lượng hỗ trợ và nguồn nhân lực. Chúng ta có một sĩ quan hiện trường vụ án tại đây để báo cáo về hiện trường.” Ở đây, giọng Dellray khác hẳn. Không còn là ngày Nhặng nữa.
“Cô đã đăng ký vật chứng chưa?” Perkins hỏi Sachs.
Sachs thừa nhận cô chưa làm. “Chúng tôi bận cứu nạn nhân.”
Điều này làm SAC khó chịu. Nếu không khi xử án, những vụ ngon ăn thường bị đình trệ vì không đăng ký vật chứng. Đó là điều đầu tiên mà luật sư của tội phạm tóm lấy.
“Nhớ làm trước khi ra về.”
“Vâng, thưa ngài.”
Vẻ mặt Rhyme thật tệ khi anh ta đoán mình ton hót với Eckert và buộc họ phải đóng cửa. Thật tệ…
Sachs của tôi nghĩ ra, Sachs của tôi bảo toàn hiện trường…
Cô lại cậy móng tay. Thôi đi, cô nhủ thầm như cô vẫn thường làm, và lại tiếp tục chọc móng tay vào thịt. Cảm giác đau đớn thật tốt. Đó là điều mà bác sĩ trị liệu không bao giờ hiểu.
SAC nói: “Đặc vụ Dellray? Anh có thể báo cáo với mọi người cách chúng ta sẽ làm không?”
Dellray nhìn lướt qua SAC và các đặc vụ khác rồi tiếp tục: “Tại thời điểm này chúng ta có đặc vụ hiện trường đánh tất cả các nhóm khủng bố chính trong thành phố và theo đuổi bất kỳ manh mối nào mà chúng ta có để dẫn chúng ta đến nơi ở của đối tượng. Tất cả CI, tất cả đặc vụ ngầm. Điều đó có nghĩa ta sẽ làm tổn thương một số chiến dịch hiện tại, nhưng chúng tôi quyết định nó xứng đáng với rủi ro.”
“Việc của chúng ta ở đây là phản ứng nhanh. Các anh sẽ được chia thành từng nhóm sáu đặc vụ và sẵn sàng truy đuổi với bất cứ manh mối nào. Các anh phải sẵn sàng cứu con tin và hỗ trợ tấn công chiến lũy.”
“Thưa ngài”, Sachs nói.
Perkins ngẩng lên, nhăn mặt. Rõ ràng không ai có quyền làm gián đoạn buổi báo cáo trước phần hỏi đáp được phép. “Có việc gì thế, sĩ quan?”
“À, tôi chỉ có chút băn khoăn. Còn nạn nhân thì sao, thưa ngài?”
“Ai? Cô gái người Đức? Cô nghĩ chúng ta phải thẩm vấn cô ta lần nữa à?”
“Không, thưa ngài. Ý tôi là nạn nhân tiếp theo.”
Perkins trả lời: “Tất nhiên chúng ta luôn nhận thức được là có thể sẽ có những mục tiêu khác.”
Sachs nói tiếp: “Hắn đã có rồi.”
“Thật không?” SAC liếc nhìn Dellray đang nhún vai. Perkins hỏi Sachs: “Làm sao cô biết?”
“À, chính xác thì tôi không biết, thưa ngài. Nhưng hắn ta đã để lại manh mối ở hiện trường cuối cùng và hắn sẽ không làm thế nếu hắn không có nạn nhân khác. Hoặc đang chuẩn bị bắt một nạn nhân.”
“Đã ghi nhận, thưa sĩ quan”, SAC tiếp tục. “Chúng ta sẽ huy động mức nhanh nhất có thể để bảo đảm không có chuyện gì xảy ra với họ.”
Dellray nói với cô: “Chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất ta nên tập trung chủ yếu vào con quái vật.”
“Thám tử Sachs…”, Perkins bắt đầu.
“Tôi không phải thám tử, thưa ngài. Tôi là sĩ quan Đội Tuần tra.”
“Được rồi”, SAC tiếp tục, nhìn chồng tài liệu. “Nếu có thể, hãy cho chúng tôi một số điểm chính, sẽ rất hữu ích.”
Ba mươi đặc vụ nhìn cô. Có hai phụ nữ.
“Cứ nói cho chúng tôi nghe những gì cô nhìn thấy”, Dellray nói, cắn một điếu thuốc chưa đốt giữa hai hàm răng tuyệt đẹp.
Cô đưa cho họ tóm tắt về những lần tìm kiếm của cô tại hiện trường cùng kết luận của Rhyme và Terry Dobyns. Hầu hết các đặc vụ cảm thấy lo lắng về phương thức MO[102] kỳ lạ của đối tượng.
“Như một trò chơi chết tiệt”, một đặc vụ lẩm bẩm.
Một người hỏi liệu trong những manh mối đó họ có thể giải mã được thông điệp chính trị nào không?
“Thưa ngài, thực sự chúng tôi không cho rằng hắn là kẻ khủng bố”, Sachs khăng khăng.
Perkins chuyển sự chú ý đặc biệt của mình sang Sachs. “Cho phép tôi hỏi, sĩ quan, cô công nhận là hắn thông minh, đúng không?”
“Rất thông minh.”
“Hắn có thể bịp hai lần không?”
“Ý của anh là gì?”
“Cô... Tôi phải nói rằng NYPD nghĩ hắn là một trường hợp tâm thần. Ý tôi là nhân cách tội phạm. Nhưng có phải hắn đủ thông minh để khiến cô nghĩ thế hay không? Trong khi có thể điều gì khác đang diễn ra.”
“Điều gì?”
“Manh mối hắn để lại chẳng hạn. Có thể là nghi binh?”
“Không, thưa ngài. Đó là hướng dẫn”, Sachs nói. “Dẫn chúng tôi đến chỗ nạn nhân.”
“Tôi hiểu”, Thomas Perkins nhanh trí nói. “Nhưng hắn cũng có thể làm thế để đưa chúng ta ra xa mục tiêu của hắn, đúng không nào?”
Cô chưa nghĩ tới điều này. “Tôi cho rằng cũng có thể.”
“Sếp Wilson cũng đang cố lấy người từ nhóm phục vụ an ninh cho Liên Hiệp Quốc để làm vụ bắt cóc này. Đối tượng có thể đang làm mọi người bị phân tán để hắn tự do thực thi sứ mạng thực sự của hắn.”
Sachs nhớ lại là trước đây cô cũng có những ý tưởng tương tự khi nhìn thấy những nhân viên tìm kiếm trên Phố Pearl. “Và mục tiêu đó có thể là Liên Hiệp Quốc?”
“Chúng tôi nghĩ vậy”, Dellray nói. “Bọn tội phạm đứng đằng sau vụ đánh bom UNESCO ở London có thể muốn thử lại lần nữa.”
Có nghĩa là Rhyme đang đi theo hướng hoàn toàn sai. Ý nghĩ này làm gánh nặng của cô nhẹ đi đôi chút.
“Sĩ quan, giờ cô có thể kiểm tra từng chứng cứ cho chúng tôi chứ?”
Dellray đưa cho cô bảng danh sách mọi thứ cô tìm được và cô đọc từng hạng mục. Khi nói chuyện, cô nhận thấy những hoạt động sôi sục quanh mình – vài đặc vụ nhận điện thoại, một số đứng thì thầm với người khác, số khác ghi chép. Nhưng khi nhìn vào bảng danh sách, cô nói thêm: “Tôi có lấy được một dấu vân tay của hắn tại hiện trường cuối cùng”, cô nhận thấy căn phòng tuyệt đối im lặng. Cô nhìn lên. Mọi khuôn mặt trong văn phòng đều nhìn chăm chăm vào cô như một cơn sốc vừa đi qua – nếu như đặc vụ liên bang còn có khả năng bị sốc.
Cô bất lực nhìn Dellray, anh ta đang ngẩng đầu lên. “Có phải cô bảo cô vớ được một dấu tay?”
“Vâng, đúng như thế. Hắn bị rơi găng tay khi vật lộn với nạn nhân cuối cùng, khi nhặt lên tay hắn quét xuống sàn.”
“Ở đâu?” Dellray hỏi nhanh.
“Lạy Chúa”, một đặc vụ kêu lên. “Sao cô chẳng nói gì?”
“À, tôi…”
“Tìm đi. Tìm nó ngay đi!” Một người khác kêu lên.
Tiếng xì xầm lan khắp phòng.
Tay run run, Sachs lục lọi trong cái túi đựng vật chứng và đưa cho Dellray bức hình Polaroid chụp dấu tay. Anh ta giơ nó lên, nhìn thật cẩn thận. Đưa cho một người mà cô đoán là chuyên gia về dấu tay xem. “Tốt”, đặc vụ này nói. “Chắc chắn là loại A.”
Cô biết dấu tay được phân thành các loại A, B và C, và phần lớn các cơ quan thực thi pháp luật không chấp nhận loại thấp hơn. Nhưng niềm kêu hãnh của cô về kỹ năng tìm kiếm vật chứng của mình đã bị đập tan bởi sự chê bai mang tính tập thể của họ khi cô đã không nhắc tới điều đó sớm hơn.
Và mọi thứ bắt đầu nhất loạt diễn ra. Dellray chuyển nó cho một đặc vụ, người này vội chạy đến chỗ một cái máy tính phức tạp ở góc văn phòng và đặt nó lên một bề mặt cong lớn của một cỗ máy có tên gọi Optic-Scan. Một đặc vụ khác bật máy tính và gõ lệnh trong khi Dellray vội vàng nhấc điện thoại. Anh ta sốt ruột giậm chân, và cúi đầu như thể có ai đó ở đầu dây bên kia đang trả lời điện thoại.
“Ginnie, Dellray đây. Vụ này rất xương đấy, nhưng tôi cần anh cắt tất cả các yêu cầu AFIS[103] từ khu Đông Bắc để làm cái tôi gửi cho anh đây… Tôi có Perkins ở đây. Anh ấy đồng ý rồi, nếu thế chưa đủ tôi sẽ gọi cho người ở Washington… Việc có liên quan đến Liên Hiệp Quốc.”
Sachs biết AFIS được các sở cảnh sát toàn quốc sử dụng. Chính là hệ thống Dellray lúc này đang dừng lại.
Đặc vụ ngồi máy tính nói: “Quét rồi. Chúng tôi đang gửi đi.”
“Sẽ mất bao lâu?”
“Mười, mười lăm phút.”
Dellray ép các ngón tay bẩn thỉu vào nhau. “Làm ơn, làm ơn, làm ơn đi.”
Xung quanh cô là một cơn lốc các hoạt động. Sachs nghe những giọng nói về vũ khí, trực thăng, xe hơi, các nhà đàm phán chống khủng bố. Gọi điện thoại, gõ bàn phím, trải bản đồ, kiểm tra súng ngắn.
Perkins đang nghe điện, nói chuyện với những người giải cứu con tin hoặc Thị trưởng, hoặc Giám đốc. Có thể là tổng thống. Ai biết được? Sachs nói với Dellray: “Tôi không biết là dấu tay lại quan trọng đến thế.”
“Luôn là chuyện lớn. Ít nhất là khi có AFIS. Trước kia ta chỉ lấy dấu tay để diễn. Để nạn nhân và báo giới biết là chúng ta có làm gì đó.”
“Anh đùa a?”
“Không, không đùa tẹo nào. Ví dụ Thành phố New York. Cô đi tìm khan – tức là khi cô chẳng có đối tượng nào – cô đi tìm khan theo kiểu thủ công, một kỹ thuật viên sẽ mất năm mươi năm để xem hết thẻ dấu tay. Không đùa đâu. Còn tìm tự động? Mười lăm phút. Thường thì cô sẽ nhận dạng được đối tượng với xác suất khoảng một, hai phần trăm. Giờ ta đạt được gần hai mươi, hai mươi hai phần trăm. Ồ, dấu tay quý như vàng đấy. Cô nói cho Rhyme biết chưa?”
“Anh ta biết, chắc chắn thế.”
“Thế mà anh ta không khua khoắng tất cả mọi người à? Ôi trời ơi, anh chàng này đang trượt dốc.”
“Này, sĩ quan”, SAC Perkins gọi, giữ tay trên điện thoại. “Tôi muốn cô điền luôn thẻ đăng ký vật chứng. Tôi muốn chuyển vật chứng cho PERT.”
PERT. Sachs nhớ Lincoln đã từng là người được Cục thuê để làm việc này.
“Tôi sẽ làm. Chắc chắn rồi.”
“Mallory, Kemple, đưa chỗ vật chứng này đến văn phòng và đưa cho vị khách của chúng ta vài tờ biểu đăng ký vật chứng. Cô có bút không, sĩ quan?”
“Có.”
Cô đi theo hai sĩ quan sang một văn phòng nhỏ, căng thẳng bấm cây bút bi trong khi họ đi tìm kiếm và quay lại với một xấp biểu đăng ký vật chứng do Cục ban hành. Cô ngồi xuống, mở gói.
Giọng nói vang lên đằng sau cô là của Dellray phiền muộn. Một nhân cách đang cố gắng bật ra. Trên đường đến đây, ai đó đã gọi anh ta là Kỳ nhông và cô đang dần hiểu ra lý do.
“Chúng tôi gọi Perkins là Dict Lớn. Không phải là ‘dick[104]’ như cô hiểu đâu. ‘Dict’ như trong từ điển ấy. Nhưng đừng lo cho anh ta. Anh ta thông minh, hơn thế nữa dây của anh ta có thể giật đến tận Washington, là chỗ cần giật trong những vụ như thế này.” Dellray đưa điếu thuốc là lên mũi ngửi, tựa như đó là điếu xì gà hảo hạng. “Cô biết không sĩ quan, cô gian như cáo khi làm điều cô đang làm đấy.”
“Là gì?”
“Ra khỏi Ban Tội phạm Nguy hiểm. Cô không muốn nó đâu.” Khuôn mặt đen đúa gầy gò, bóng nhoáng, chỉ có chút nếp nhăn ở mắt, lần đầu tiên trông có vẻ chân thành kể từ khi cô gặp anh ta. “Việc tốt nhất cô từng làm, là chuyển sang Phòng Quan hệ Công chúng. Ở đó cô sẽ có ích và công việc không biến cô thành bụi. Chắc chắn đấy là điều sẽ xảy ra. Công việc biến cô thành bụi.”
Một trong những nạn nhân cuối cùng chịu sự áp bức điên loạn của James Schneider, chàng trai trẻ tuổi tên là Ortega, đến Manhattan từ Thành phố Mexico, nơi bạo loạn chính trị (cuộc nổi dậy của một kẻ theo thuyết dân túy bắt đầu trước đó một năm) đã làm cho công việc làm ăn trở nên khó khăn. Tuy nhiên, doanh nhân tham vọng này đã biến mất khi tới thành phố chưa được một tuần. Người ta thấy anh ta lần cuối cùng là trước cửa một quán rượu ở khu West Side, các cơ quan chức năng ngay lập tức nghi ngờ rằng anh ta lại là một nạn nhân khác của Schneider. Đáng buồn điều đó lại là sự thực.
Kẻ Tầm Xương lượn xe trên phố khoảng mười lăm phút quanh Đại học New York, Quảng trường Washington. Rất nhiều người lang thang ngoài phố, nhưng chủ yếu là trẻ con. Sinh viên theo các khóa học hè. Trẻ trượt ván. Không khí vui vẻ, lạ thường. Ca sĩ, nghệ nhân tung hứng, nhào lộn. Những thứ đó làm hắn nhớ đến “bảo tàng” dưới Phố Bowery, rất phổ biến trong những năm 1800. Đó tất nhiên không phải là những bảo tàng mà chỉ là những con đường có mái vòm, ở đó tràn ngập những buổi trình diễn hài kịch tục tĩu, triển lãm quái vật, những tên liều mạng và những người bán dạo bán đủ mọi thứ từ bưu ảnh của Pháp cho tới những mẩu gỗ trên Thánh giá thiêng liêng.
Hắn ta đi chậm lại hai lần nhưng không có ai cần đi taxi, hoặc đủ tiền để đi taxi. Hắn quay về phía nam.
Schneider buộc đá vào chân Señor Ortega[105] và lăn anh ta xuống dưới cầu cảng ra sông Hudson để nước và cá sẽ biến cơ thể anh ta thành xương. Thi thể được tìm thấy hai tuần sau khi anh ta biến mất và người ta chẳng có cách nào biết được nạn nhân bất hạnh còn sống hoặc hoàn toàn tỉnh táo khi bị vứt xuống nước hay không. Tuy nhiên, người ta vẫn nghi ngờ như vậy. Vì Schneider đã tàn bạo cắt ngắn dây trói để cho mặt của Señor Ortega chỉ cách mặt nước vài inch – tay anh ta chắc chắn đã điên loạn khua khoắng khi anh ta nhìn tầng không khí cứu tinh bên trên.
Kẻ Tầm Xương nhìn thấy một chàng thanh niên bệnh hoạn đứng trên vỉa hè. AIDS, hắn nghĩ. Nhưng xương cốt của mày còn mạnh khỏe – và thật hoàn mỹ. Xương cốt của mày sẽ sống mãi... Anh ta không cần đi taxi và khi xe đi ngang qua, Kẻ Tầm Xương thèm thuồng nhìn anh ta qua kính chiếu hậu.
Hắn quay lại đúng lúc để vòng xe tránh một người đàn ông đứng tuổi vừa bước xuống đường, cánh tay gầy gò của ông ta giơ ra gọi xe. Người đàn ông nhảy lui, nhanh hết mức có thể, và chiếc taxi phanh kít, vượt qua ông ta rồi dừng lại.
Người đàn ông mở cửa sau xe nghiêng người vào trong. “Anh phải nhìn xem mình đi đâu chứ.” Ông ta nói câu này như một lời hướng dẫn. Không chút giận dữ.
“Xin lỗi”, Kẻ Tầm Xương nói, vẻ hối lỗi.
Người đàn ông đứng tuổi ngần ngừ một chút, nhìn quanh phố nhưng không thấy chiếc taxi nào khác. Ông ta trèo vào xe.
Cánh cửa đóng sập.
Nghĩ: già và gầy. Da chắc trượt trên xương như lụa.
“Đi đâu đấy?” Hắn nói.
“East Side.”
“Có ngay”, hắn nói trong khi trùm chiếc mặt nạ trượt tuyết lên đầu và đánh tay lái sang phải. Chiếc xe lao về phía tây.
III
III
CON GÁI CỚM TUẦN TRA
Đảo lộn, đảo lộn, đảo lộn! Đó là châm ngôn của New York... Xương cốt của tổ tiên chúng ta không được phép nằm yên trong một phần tư thế kỷ, và một thế hệ con cháu đang cố tình dỡ bỏ tất cả những di vật của những người đi trước.