Kẻ Trộm Sách

Chương 61



KẺ TRỘM SÁCH – DÒNG CUỐI CÙNG ›

Tôi đã ghét những từ ngữ và tôi đã yêu chúng, và tôi hy vọng rằng mình đã viết chúng ra một cách đúng đắn.

Bên ngoài, thế giới đang huýt sáo. Cơn mưa đã để lại những vết bẩn.

NƠI ṬẬN CÙNG THẾ GIỚI

(Phần II)

Hầu như tất cả từ ngữ lúc này đều đang rơi xuống. Quyển sách màu đen đang tan rã dưới sức nặng những chuyến đi của tôi. Đó là lý do vì sao tôi kể lại câu chuyện này. Trước đó chúng ta đã nói gì, bạn có còn nhớ không? Cứ nói một điều gì đó đủ nhiều, và rồi bạn sẽ không bao giờ quên được nó nữa. Bên cạnh đó, tôi có thể nói cho bạn nghe điều gì đã xảy ra sau khi những từ ngữ của kẻ trộm sách đã ngừng lại, và làm sao mà tôi lại biết được câu chuyện của con bé ngay từ đầu. Như thế này đây.

Hãy hình dung ra cảnh bạn đang bước đi trên phố Thiên Đàng trong bóng tối. Tóc bạn ướt đẫm, và áp lực không khí đang sắp sửa thay đổi rất mạnh. Quả bom đầu tiên rơi trúng khu chung cư mà Tommy Muller sống. Gương mặt của thằng bé đang co rúm lại một cách hồn nhiên khi tôi quỳ bên cạnh giường nó. Tiếp theo là em gái nó. Hai chân của Kristina đang thò ra từ bên dưới tấm chăn. Những ngón chân nhỏ xíu của con bé. Mẹ chúng đang ngủ cách đó vài mét. Bốn điếu thuốc đang nằm xiêu vẹo trong cái gạt tàn của bà, và cái trần nhà không mái có màu đỏ của mặt bếp điện. Phố Thiên Đàng đang cháy…

Còi báo động bắt đầu rú lên.

“Bây giờ thì đã quá trễ rồi,” tôi thì thầm, “cho cái hành động nhỏ bé ấy,” bởi vì tất cả mọi người đã bị lừa, và bị lừa một lần nữa. Ban đầu, quân Đồng minh đã giả vờ oanh kích Munich nhằm tấn công vào Stuttgart. Nhưng rồi mười chiếc máy bay đã ở lại. Ồ, và dứt khoát là đã có những lời cảnh báo. Ở Molching, chúng đến cùng những quả bom

š ĐIỂM DANH NHỮNG TÊN PHỐ ›

Phố Munich, phố Ellenberg, phố Johannson, phố Thiên Đàng.

Con đường lớn + ba con đường nữa,

trong khu vực nghèo khổ hơn của thị trấn.

Trong khoảng thời gian vỏn vẹn vài phút, tất cả đều biến mất.

Một ngôi nhà thờ bị đốn gục.

Đất đã bị phá hủy nơi Max Vanderburg từng đứng trên đôi chân của mình.

Ở nhà số 31 phố Thiên Đàng, bà Holtzapfel có vẻ như đang đợi tôi trong bếp. Một cái tách vỡ đang ở trước mặt bà, và trong khoảnh khắc cuối cùng bà còn tỉnh, gương mặt bà có vẻ như đang hỏi tôi làm cái quái gì mà đến muộn thế.

Trái lại, mụ Diller ngủ thiếp đi rất nhanh. Những ô cửa kính chống đạn của mụ ta vỡ tan tành đến tận giường. Cửa hàng của mụ bị phá hủy hoàn toàn, quầy tính tiền nằm chắn ngang con đường, và bức ảnh Hitler lồng khung của mụ bị giật ra khỏi tường và đập xuống sàn nhà. Gã đàn ông ấy rõ ràng là đang nhăn mặt và bị đập thành một đống bùn nhão vương đầy kính vỡ. Tôi bước lên hắn trên đường đi ra.

Nhà Fiedler được tổ chức rất tốt, tất cả đều nằm trên giường, tất cả đều đắp kín chăn. Pfiffikus thì trùm chăn kín đến tận mũi.

Ở nhà Steiner, tôi lướt những ngón tay của mình trên mái tóc được chải chuốt rất đáng yêu của Barbara, tôi lấy đi sự nghiêm trọng khỏi gương mặt tuy đang ngủ mà vẫn rất nghiêm trọng của Kurt và, từng đứa một, tôi hôn những đứa nhỏ hơn để chúc chúng ngủ ngon.

Sau đó là Rudy.

Ôi, lạy đức Chúa bị đóng đinh trên cây thập ác, Rudy…

Nó nằm trên giường cùng với một trong những đứa em gái của nó. Hẳn là con bé đã đá nó hay chen chúc với nó để giành phần lớn không gian trên giường, bởi vì thằng bé đang nằm sát cạnh giường, một tay vẫn quàng qua người em gái nó. Thằng bé đã ngủ. Mái tóc lập lòe như ánh nến của nó làm cái giường như bừng sáng, và tôi nhặt linh hồn của nó và Bettina lên khi linh hồn của chúng vẫn còn quấn trong chăn. Nếu không gì khác, thì chúng chết rất nhanh, và linh hồn chúng rất ấm áp. Thằng bé ở chỗ cái máy bay rơi đây mà, tôi nghĩ thầm. Thằng bé có con gấu bông đây mà. Sự thoải mái của Rudy ở đâu cơ chứ? Ai đã ở đó để vỗ về nó khi tấm chăn cuộc sống bị giật ra từ bên dưới đôi chân đang ngủ của nó?

Chỉ có tôi mà thôi.

Và tôi không có tài cán gì lắm trong lĩnh vực an ủi vỗ về ấy, đặc biệt là khi đôi tay tôi lạnh buốt còn cái giường thì rất ấm. Tôi nhẹ nhàng mang nó qua những con đường đổ nát, với một con mắt mặn chát và một trái tim nặng nề, chết chóc. Tôi đã cố gắng hơn một chút với thằng bé. Tôi nhìn nội dung của linh hồn nó một lúc, và thấy một thằng bé tự sơn người mình màu đen đang gọi cái tên Jesse Owens khi nó chạy qua một dải băng tưởng tượng. Tôi thấy nó đứng ngập đến ngang hông trong làn nước buốt giá để đuổi theo một quyển sách, và tôi nhìn thấy một thằng bé đang nằm trên giường, hình dung xem một nụ hôn từ cô bạn hàng xóm sẽ có hương vị tuyệt vời ra sao. Nó đã làm cho tôi một việc, cái thằng nhóc ấy. Lần nào cũng thế. Đó là tổn hại duy nhất mà nó gây ra. Nó đã giày xéo lên trái tim tôi. Nó đã làm tôi bật khóc.

Cuối cùng, là gia đình Hubermann.

Hans.

Bố.

Ông trông rất to lớn trên cái giường của mình, và tôi có thể nhìn thấy màu bạc qua mí mắt ông. Linh hồn của ông ngồi dậy. Nó gặp tôi. Những linh hồn như thế luôn làm vậy – những linh hồn tốt đẹp nhất. Những linh hồn dạng này trỗi dậy và nói, “Tôi biết ông là ai, và tôi đã sẵn sàng. Không phải là tôi muốn đi theo ông, dĩ nhiên, nhưng tôi sẽ đi.” Những linh hồn như vậy luôn rất nhẹ nhàng, bởi vì đa phần con người họ đã thoát ra ngoài. Hầu hết trong số họ đã tìm thấy đường đến những nơi khác. Linh hồn này đã thoát ra ngoài nhờ hơi thở của một cây đàn xếp, vị chát của rượu champange trong mùa hè, và nghệ thuật của việc giữ lời hứa. Ông nằm trong vòng tay tôi và yên nghỉ. Có một buồng phổi ngứa ngáy muốn được hút một điếu thuốc cuối cùng, và một lực kéo dữ dội như có nam châm về phía tầng hầm, về phía đứa bé gái đã trở thành con gái của ông và đang viết một quyển sách dưới đó, mà ông hy vọng một ngày nào đó mình sẽ được đọc.

Liesel.

Linh hồn của ông thì thầm từ này khi tôi mang ông đi. Nhưng không có Liesel trong căn nhà đó. Dù sao đi nữa, con bé cũng không dành cho tôi.

Phần tôi chỉ có một người đàn bà tên là Rosa, và đúng thế, tôi thật sự nghĩ rằng tôi đã nhặt linh hồn của bà ấy lên giữa một tràng ngáy, vì miệng bà đang há và đôi môi màu hồng bạc phếch như giấy của bà vẫn đang dở dang giữa một chu kỳ chuyển động. Nếu bà nhìn thấy tôi, tôi chắc rằng bà ấy sẽ gọi tôi là đồ con lợn, dù tôi sẽ không lấy làm phiền lòng vì điều này cho lắm. Sau khi đọc quyển Kẻ trộm sách, tôi đã hiểu ra rằng bà ấy gọi mọi người đều bằng cái danh từ ấy. Đồ lợn nọc. Đồ lợn nái. Đặc biệt là những người mà bà ấy yêu quý. Mái tóc như dây thun của bà đang để xõa. Nó cọ sát vào chiếc gối và thân thể như áo choàng của bà cứ phập phồng theo nhịp trái tim bà đập. Không nghi ngờ gì nữa, người đàn bà ấy có một trái tim. Bà có một trái tim lớn hơn người ta tưởng. Có rất nhiều thứ trong đó, được cất giữ, chất cao đến hàng nhiều dặm trên những cái kệ giấu kín. Hãy nhớ rằng bà ấy là người đàn bà với cây đàn xếp được áp chặt vào thân người, trong cái đêm dài đằng đẵng với những tia sáng của ánh trăng cắt dọc ấy. Bà là người cho người Do Thái ăn mà không hề đặt ra một câu hỏi nào vào đêm đầu tiên của anh ở Molching. Và bà là người thò tay vào sâu trong tấm đệm để đưa quyển sổ phác thảo cho một đứa bé gái mới lớn.

š VẬN MAY CUỐI CÙNG ›

Tôi đi từ con phố này đến con phố khác và quay lại vì một người duy nhất tên là Schultz ở dưới đáy cùng phố Thiên Đàng.

Anh ta không thể bám víu lấy cuộc sống trong ngôi nhà đã sập, và lúc đang mang linh hồn của anh đi lên phố Thiên Đàng thì tôi nhận thấy tiếng của những người thuộc đơn vị LSE đang la hét và cười nói.

Có một thung lũng nhỏ trong cái dãy núi được làm từ gạch vỡ này.

Bầu trời nóng bỏng có màu đỏ và đang xoay vần. Những vệt tiêu đã bắt đầu xoáy lại, và tôi trở nên tò mò. Phải, phải, tôi biết tôi đã kể gì với bạn lúc đầu. Thường thì sự tò mò của tôi hay dẫn đến việc tôi phải chứng kiến khung cảnh đáng sợ của một dạng la ó nào đó của con người, nhưng lần này, tôi phải nói rằng mặc dù điều đó đã khiến trái tim tôi tan vỡ, nhưng tôi đã, và vẫn đang, cảm thấy vui mừng vì đã ở đó.

Khi họ kéo nó ra, con bé đã bắt đầu gào khóc và la thét gọi Hans Hubermann. Những người thuộc đơn vị LSE cố gắng giữ chặt lấy nó trong vòng tay trắng phớ bột vữa của họ, nhưng kẻ trộm sách đã làm sao đó mà vùng thoát ra được. Những con người tuyệt vọng có vẻ như luôn làm được điều này.

Con bé không biết mình đang chạy đi đâu, vì phố Thiên Đàng không còn tồn tại nữa. Mọi thứ đều thật mới mẻ và nhuốm màu của sự mặc khải. Tại sao bầu trời lại có màu đỏ? Làm sao có thể có tuyết rơi được cơ chứ? Và tại sao những bông tuyết lại làm bỏng tay nó?

Liesel giảm tốc độ thành những bước đi thất thểu và tập trung về phía trước.

Cửa hàng của mụ Diller đâu rồi? Đâu là…

Con bé cứ lang thang như thế thêm một đoạn nữa, cho đến khi người đàn ông đã phát hiện ra nó nắm lấy cẳng tay nó và không ngừng nói. “Cháu đang bị sốc, cháu gái ạ. Chỉ là một cú sốc thôi, cháu sẽ ổn.”

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Liesel hỏi. “Đây có phải vẫn là phố Thiên Đàng không?”

“Phải,” người đàn ông ấy có đôi mắt ngập tràn sự thất vọng. Ông ta đã nhìn thấy những gì trong suốt mấy năm qua chứ? “Đây là phố Thiên Đàng. Con phố này đã bị đánh bom, cháu gái của ta ạ. Es tut mir leid, Schatzi. Ta rất tiếc, cháu yêu.”

Miệng của đứa bé gái vẫn tiếp tục lảm nhảm, ngay cả khi lúc này cơ thể con bé đang đứng yên. Nó đã quên mất những tràng khóc lóc gọi tên Hans Hubermann trước đó. Việc này như đã xảy ra nhiều năm rồi – một trận đánh bom sẽ làm được như thế. Con bé nói, “Chúng ta phải đi tìm bố cháu, mẹ cháu. Chúng ta phải mang Max ra khỏi hầm. Nếu anh ấy không có ở đó thì hẳn là anh đang ở chỗ hành lang, nhìn ra ngoài cửa sổ. Thỉnh thoảng, khi có không kích, anh ta vẫn làm thế - anh không có nhiều cơ hội được nhìn thấy bầu trời cho lắm, bác hiểu chứ. Bây giờ cháu phải kể cho anh ấy nghe thời tiết bên ngoài như thế nào. Anh ta sẽ chẳng bao giờ tin lời cháu nói đâu…”

Vào khoảnh khắc đó, thân thể con bé oằn xuống, người đàn ông thuộc đơn vị LSE kịp đỡ lấy nó và giúp nó ngồi xuống. “Chúng ta sẽ đưa con bé đi trong một phút nữa,” ông nói với trung sĩ của mình. Kẻ trộm sách nhìn vào thứ đang đè nặng lên bàn tay nó và khiến nó đau đớn.

***

Quyển sách.

Những từ ngữ.

Những ngón tay của nó đang chảy máu, giống như lúc con bé mới đến đây.

Người thuộc đơn vị LSE giúp nói đứng dậy và bắt đầu dẫn nó đi. Một cái thìa gỗ đang bốc cháy. Một người đi ngang qua, trên tay người đó là một cái hộp đàn xếp vỡ toác, và Liesel có thể nhìn thấy cây đàn xếp bên trong. Con bé có thể nhìn thấy hàm răng trắng của nó và những nốt đen ở giữa. Chúng mỉm cười với con bé, và khởi nguồn một nhận thức về thực tế của con bé. Chúng ta đã bị đánh bom, con bé nghĩ thầm, và lúc này, nó quay sang người đàn ông bên cạnh mình và nói, “Đó là cây đàn xếp của bố cháu.” Một lần nữa. “Đó là cây đàn xếp của bố cháu.”

“Đừng lo, cháu bé, cháu đã an toàn rồi, chỉ cần đi thêm một chút nữa thôi.”

Nhưng Liesel không đi.

Con bé nhìn xem người đàn ông nọ đang mang cây đàn xếp đi đâu, rồi đi theo ông ta. Với bầu trời đỏ ối vẫn đang tưới xuống những cụm tro tàn đẹp đẽ của mình, con bé dừng người lính thuộc đơn vị LSE lại và nói, “Cháu sẽ lấy cái đó nếu bác không phiền – nó là cây đàn của bố cháu.” Nó nhẹ nhàng lấy cây đàn ra khỏi tay của người đàn ông và bắt đầu mang nó đi. Ngay sau đó, con bé nhìn thấy cái xác đầu tiên.

Hộp đàn xếp rơi xuống đất khỏi tay nó. Âm thanh của một vụ nổ.

Bà Holtzapfel đang nằm bắt chéo trên mặt đất.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.