SPRINGFIELD MẶC BỘ
COM LÊ lần trước tôi đã gặp. Chất vải len nhẹ mùa hè, dệt kiểu giống lụa và hơi óng. Nó có vết nhăn và dúm, kiểu như anh ta cứ mặc thế mà đi
ngủ. Có khi anh ta đã làm thế thật.
Springfield nói, “Ông nghĩ đây là nơi ấy hả?”
Tôi không trả lời. Tôi đang bận kiểm tra xung quanh. Tôi nhìn vài trăm
người và vài chục chiếc xe hơi. Nhưng không thấy gì đáng lo ngại.
Springfield chỉ có một mình.
Tôi quay lại.
Springfield lặp lại câu hỏi, “Ông nghĩ đây là nơi ấy hả?”
Tôi hỏi, “Sansom đâu?”
“Ông ấy ở nhà.”
“Tại sao?”
“Vì kiểu công việc này khó khăn, tôi làm tốt hơn ông ấy.”
Tôi gật đầu. Mình giỏi hơn sĩ quan là một tín điều của các hạ sĩ quan. Và
thường thì họ đúng. Chắc chắn tôi hài lòng với các hạ sĩ quan của mình.
Họ đã làm rất nhiều việc tốt cho tôi.
Tôi hỏi: “Vậy thỏa thuận là gì?”
“Thỏa thuận nào?”
“Giữa ông và tôi ấy.”
“Chúng ta chẳng có thỏa thuận nào,” anh ta nói. “Vẫn chưa có.”
“Chúng ta sẽ có thỏa thuận chứ?”
“Có lẽ ta nên nói chuyện với nhau.”
“Ở đâu?”
“Tùy ông,” anh ta nói. Đó là dấu hiệu tốt. Nghĩa là trước mắt nếu có cái bẫy nào hay vụ phục kích nào chờ đợi tôi, nó sẽ diễn ra theo kiểu tùy cơ
ứng biến, do đó sẽ không đạt hiệu quả tối ưu. Thậm chí đến mức còn chẳng triển khai được.
Tôi hỏi, “Ông biết về thành phố rõ đến mức nào?”
“Cũng ở mức chấp nhận được.”
“Hãy rẽ trái hai lần và đến số 57 phố 57 Đông. Tôi sẽ đến sau ông mười phút. Ta sẽ gặp nhau bên trong.”
“Đó là địa điểm kiểu gì thế?”
“Ta có thể uống cà phê ở đó.”
“OK,” anh ta nói. Rồi Springfield nhìn một lần nữa căn nhà có nhà hàng ở tầng trệt rồi cắt chéo phố qua làn xe cộ và rẽ trái sang đại lộ Madison. Tôi đi theo đường khác, đến ngang cửa sau khách sạn Four Seasons. Cửa sau
của khách sạn Four Seasons nằm ngay đây, trên phố 58. Đây là một tòa nhà thông hết cả dãy. Nghĩa là cửa trước nằm trên phố 57. Chính xác là số
57 phố 57 Đông. Tôi sẽ vào trong trước Springfield chừng bốn phút. Tôi
sẽ biết liệu anh ta có đi cùng một đội nào hay không. Tôi sẽ biết liệu
có kẻ nào vào trước, đi cùng hoặc bám theo anh ta không. Tôi từ phía sau đi qua sảnh, bỏ mũ và kính rồi đứng trong một góc yên tĩnh, chờ đợi.
Springfield bước vào một mình, đúng giờ, nghĩa là sau bốn phút. Không có thời gian
để triển khai vội vàng trên phố. Không có thời gian để bàn bạc. Có lẽ
thậm chí chẳng đủ thời gian để gọi một cú bằng máy di động. Phần lớn
người ta đều đi chậm lại một chút khi vừa bấm số vừa nói chuyện.
Có một người đàn ông mặc lễ phục buổi sáng ở gần cửa. Áo đuôi tôm đen, nơ
bạc. Không phải nhân viên trực cổng, cũng chẳng phải trưởng đội trực
khuân vác. Một kiểu nhân viên chào đón khách, dù có thể chức danh của
anh ta lớn hơn. Người này bắt đầu bằng việc hướng về phía Springfield,
Springfield liếc người này một cái, anh ta né ngay về hướng khác như thể bị tát. Springfield là người có kiểu mặt đó.
Anh ta dừng lại một chút, lấy lại tác phong và hướng về phía phòng trà, nơi tôi đã gặp mẹ
con nhà Hoth một lần. Tôi vẫn đứng trong góc quan sát cửa thông ra phố.
Không lực lượng hỗ trợ. Không có chiếc xe hơi mui kín thông thường nào
dừng lại phía ngoài. Tôi đợi cho mười phút trôi qua, rồi thêm hai phút
nữa, chỉ để đề phòng. Chẳng gì xảy ra, chỉ có những âm thanh thường thấy của một khách sạn sang trọng. Người giàu đến, người giàu đi. Người
nghèo lăng xăng xung quanh làm việc này việc kia cho họ.
Tôi bước vào phòng trà thấy Springfield ngồi đúng chiếc ghế Lila Hoth đã ngồi.
Cũng người phục vụ già tôn quý đang trực, ông bước tới. Springfield gọi
nước khoáng. Tôi gọi cà phê. Người phục vụ gật đầu mà chẳng ai nhận
thấy, rồi ông lại đi ra.
Springfield nói: “Ông đã gặp nhà Hoth ở đây, hai lần.”
Tôi nói, “Một lần ở đúng bàn này.”
“Thực chất thì đó là rắc rối. Liên quan tới họ bằng bất kỳ hình thức nào cũng bị quy là trọng tội.”
“Vì cái gì?”
“Vì Luật Yêu nước.”
“Chính xác thì mẹ con nhà Hoth là ai?”
“Và băng ngang đường tàu điện ngầm cũng là một tội nghiêm trọng. Cụ thể ông có thể ngồi tù liên bang tới năm năm vì chuyện ấy. Họ đã nói với tôi
như thế.”
“Và tôi đã bắn bốn nhân viên điều tra liên bang bằng tên.”
“Chẳng ai quan tâm tới họ cả.”
“Mẹ con nhà Hoth là ai?”
“Tôi không tình nguyện trao thông tin được.”
“Thế tại sao chúng ta lại ở đây?”
“Ông giúp chúng tôi, chúng tôi sẽ giúp ông.”
“Các ông có thể giúp tôi thế nào?”
“Chúng tôi có thể khiến mọi trọng tội của ông biến mất.”
“Còn tôi có thể giúp các ông thế nào?”
“Ông giúp chúng tôi tìm thứ chúng tôi đã đánh mất.”
“Chiếc thẻ nhớ hả?”
Springfield gật đầu. Người phục vụ đã trở lại cùng một cái khay. Nước khoáng và cà
phê. Ông sắp xếp các thứ trên bàn cẩn thận rồi lùi ra.
Tôi nói, “Tôi không biết chiếc USB đang ở đâu.”
“Tôi chắc chắn là ông không biết. Nhưng ông đã tới gần Susan Mark hơn bất kỳ ai khác. Cô ấy đã rời khỏi Lầu Năm Góc cùng với nó, nó không có trong
nhà, trong xe hay ở bất kỳ nơi nào cô ấy đã tới. Thế nên chúng tôi hy
vọng ông đã trông thấy gì đó. Có thể nó không có ý nghĩa gì với ông,
nhưng lại có ý nghĩa với chúng tôi.”
“Tôi đã trông thấy cô ấy tự sát. Tất cả chỉ có thế.”
“Chắc chắn phải có nhiều hơn thế.”
“Các ông đã cử người đứng đầu đội tham mưu lên tàu. Ông ta đã thấy gì?”
“Chẳng gì cả.”
“Trong chiếc thẻ nhớ có gì?”
“Tôi không tình nguyện trao thông tin được.”
“Vậy thì tôi không thể giúp các ông được.”
“Tại sao ông cần phải biết?”
Tôi nói, “Tôi muốn biết ít nhất là hình thù cơ bản của cái rắc rối tôi sắp dấn thân vào.”
“Vậy thì ông nên tự dành cho mình một câu hỏi.”
“Câu hỏi nào?”
“Câu hỏi ông chưa từng đặt ra, câu hỏi lẽ ra ông nên hỏi ngay từ khi mọi chuyện bắt đầu. Câu hỏi mấu chốt, đồ ngốc ạ.”
“Chuyện này là sao đây? Một cuộc thi à? Hạ sĩ quan thi với sĩ quan hả?”
“Trận đánh ấy qua lâu rồi.”
Thế là tôi lộn lại từ đầu, để tìm câu hỏi mà tôi chưa bao giờ đặt ra. Bắt
đầu là chuyến tàu số 6, với hành khách số bốn, ở mé phải toa, một mình
trên băng ghế dành cho tám người, da trắng, trạc bốn mươi, không trang
điểm, tóc đen, quần áo đen, túi đen. Susan Mark, một công dân, từng là
vợ, người mẹ, người chị, con nuôi, người sống ở Annadale, Virginia.
Susan Mark, nhân viên dân sự làm việc ở Lầu Năm Góc.