Không Có Ngày Mai

Chương 69



SANSOM VÀ SPRINGFIELD trở nên im lặng, tôi biết họ sẽ thế mà. Trí não họ đang quay ngược lại một phần tư thế kỷ trước, tới một căn lều có ánh sáng lờ mờ nằm trên nền thung lũng Korengal. Họ cứng người rồi lại thẳng ra, vô thức lặp lại những tư thế trang trọng. Một ở bên trái, một ở bên phải, tay chủ nhà ở giữa hai người. Các ống kính máy ảnh chĩa vào họ, lấy hình, thu gần lại, điều chỉnh, lấy nét. Nhấp nháy, nạp điện, rồi tiếng tách, trùm ánh sáng lên khung cảnh xung quanh.

Chính xác thì máy ảnh đã thấy gì?

Sansom nói, “Tôi không nhớ.”

“Có lẽ là chúng tôi,” Springfield nói. “Đơn giản thế. Có thể bây giờ những cuộc gặp với người Mỹ có vẻ giống như nghiệp chướng vậy.”

“Không,” tôi nói. “Đó là cách đánh bóng tên tuổi tốt. Nó khiến bin Laden có vẻ đầy quyền lực và đắc thắng, đồng thời khiến chúng ta trông như những thằng khờ. Nó phải là điều gì đó khác.”

“Trong đó là một vườn thú. Lung tung lộn xộn.”

“Nó phải là thứ gì đó không phù hợp đến mức nguy hiểm chết người. Các bé trai, bé gái, thú vật.”

Sansom nói, “Tôi không biết những thứ nào bị chúng coi là không phù hợp. Ở đó chúng có cả ngàn luật lệ. Thậm chí có thể là thứ gì đó hắn đang ăn khi ấy.”

“Hoặc hút.”

“Hoặc uống.”

“Ở đó không có rượu,” Springfield nói. “Tôi nhớ điều đó.”

“Phụ nữ?” tôi hỏi.

“Cũng không có phụ nữ.”

“Phải là gì đó. Ở đó có vị khách khác không?”

“Chỉ có người của bộ tộc.”

“Không có người nước ngoài à?”

“Chỉ chúng tôi thôi.”

“Phải là gì đó khiến hắn trông có vẻ nhún nhường, hay yếu đuối, hay lạc lối. Hắn khỏe mạnh không?”

“Có vẻ khỏe.”

“Vậy còn gì khác nữa?”

“Lầm đường lạc lối so với các luật lệ của chúng hay lầm đường lạc lối theo ý ta muốn nói?”

“Đại bản doanh al-Qaeda,” tôi nói. “Nơi đàn ông là con người còn đám dê hoảng sợ.”

“Tôi không nhớ. Đã lâu rồi. Chúng tôi mệt mỏi. Khi ấy chúng tôi vừa cuốc bộ một trăm dặm xuyên qua chiến tuyến.”

Sansom trở nên im lặng. Như tôi biết ông ta sẽ im lặng. Cuối cùng ông ta nói, “Chuyện này thực là khốn nạn.”

Tôi nói, “Tôi biết nó là thế.”

“Tôi sẽ phải đưa ra một quyết định lớn.”

“Tôi biết ông sẽ như thế.”

“Nếu bức ảnh đó gây tổn hại cho hắn nhiều hơn cho tôi, tôi sẽ phải công bố nó.”

“Không, nếu nó có gây tổn hại cho hắn, dù chỉ chút ít thôi, ông sẽ phải công bố nó. Và ông sẽ phải chấp nhận và đối mặt với hậu quả.”

“Nó đang ở đâu?”

Tôi không trả lời.

“Được rồi,” ông ta nói. “Tôi sẽ yểm trợ anh. Nhung tôi biết những gì anh biết. Và anh đã luận ra. Nghĩa là tôi có thể luận ra. Nhưng chậm hơn. Bởi vì nó chẳng phải khoa học cao siêu gì. Nghĩa là mẹ con nhà Hoth cũng có thể luận ra. Chúng sẽ chậm hơn chứ? Có thể không. Có thể ngay bây giờ chúng đang cầm nó lên.”

“Đúng,” tôi nói. “Có thể chúng đang cầm nó lên.”

“Và nếu chúng sắp dìm nó đi, có thể tôi nên cứ tự nhiên và để mặc chúng làm thế.”

“Nếu chúng sắp dìm nó đi, thế nghĩa là nó là một vũ khí quý giá có thể sử dụng chống lại chúng.”

Sansom không nói gì.

Tôi nói, “Nhớ trường dự bị sĩ quan không? Điều gì đó về tất cả mọi kẻ thù, dù trong hay ngoài nước chăng?”

“Chúng ta đã có những lời thề như nhau ở Quốc hội.”

“Vậy thì ông có nên để cho nhà Hoth dìm bức ảnh đi không?”

Sansom im lặng một lúc lâu.

Rồi ông ta lên tiếng.

“Đi đi,” ông ta bảo. “Đi tìm mẹ con nhà Hoth trước khi chúng lấy được bức ảnh.”

Tôi không đi. Ngay lúc ấy thì không. Không phải ngay lập tức. Tôi có những điều cần nghĩ, những kế hoạch cần vạch ra. Và những thiếu sót cần khắc phục. Tôi không được trang bị. Tôi đang đi đôi ủng làm vườn bằng cao su và mặc quần xanh. Tôi không có vũ khí. Chẳng có gì là hay ho cả. Tôi muốn đi vào giữa đêm, mặc đồ đen thích hợp. Với đôi giày phù hợp. Và vũ khí. Càng nhiều càng tốt.

Quần áo thì dễ.

Vũ khí thì không dễ lắm. Thành phố New York không phải nơi tốt nhất trên hành tinh này có thể dễ dàng mua một món vũ khí cá nhân. Có lẽ ở vùng ngoại vi có những nơi lén bán vũ khí cũ với giá đắt, nhưng ở vùng ngoại vi cũng có những nơi bán xe đã sử dụng, và các tài xế khó tính được khuyến cáo tránh thật xa những nơi đó.

Rắc rối.

Tôi nhìn Sansom nói, “Ông không thể chủ động giúp tôi, đúng không?”

Ông ta nói, “Đúng.”

Tôi nhìn Springfield mà bảo, “Giờ tôi sẽ đến một cửa hiệu bán quần áo. Tôi tính mua quần đen, áo phông đen và giày đen. Cùng một chiếc áo gió đen, có lẽ cỡ XXXL, loại lùng thùng ấy. Ông nghĩ sao?”

Springfield nói, “Chúng tôi chẳng quan tâm. Lúc ông trở lại thì chúng tôi sẽ đi khỏi rồi.”

Tôi đến cửa hiệu ở Broadway, nơi tôi đã mua chiếc sơ mi ka ki trước hôm diễn ra bữa trưa gây quỹ của Sansom. Nơi này làm ăn khá, có sẵn rất nhiều đồ. Tôi tìm thấy mọi thứ mình cần ngoài giày và vớ. Quần jean đen, áo phông trơn màu đen, một chiếc áo gió màu đen bằng cô tông kéo khóa may cho một gã to con hơn tôi nhiều. Tôi thử chiếc áo gió và đúng như mong muốn, nó vừa hai cánh tay và phần vai, phần trước phồng lên như áo bà bầu.

Hoàn hảo, nếu như Springfield đã hiểu mách nước của tôi.

Tôi mặc các thứ trong ô thay đồ, ném bỏ các thứ cũ và trả cho nhân viên bán hàng năm mươi chín đô la. Rồi tôi theo chỉ dẫn của cô ta, đi thêm ba dãy nhà tới cửa hàng giày. Tôi mua một đôi giày chắc khỏe màu đen buộc dây, một đôi tất đen. Mất gần một trăm đô. Đầu tôi vang lên giọng nói của mẹ tôi, từ lâu lắm rồi: Với cái giá như thế, nên dùng cho lâu. Đừng có giậm mạnh. Tôi bước khỏi cửa hiệu, giậm chân xuống vỉa hè vài lần cho chắc chân. Tôi dừng ở một cửa hàng bán thuốc mua chiếc quần đùi lót màu trắng. Tôi nghĩ rằng, do mọi thứ khác đều mới, tôi nên làm thế cho đồng bộ.

Rồi tôi bắt đầu trở lại khách sạn.

Được ba bước, điện thoại trong túi tôi bắt đầu rung.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.