Tĩnh Uyển tiễn Trình Tín Chi về, trái
tim mới đập bình thường trở lại. Ngày hôm sau, vì là ngày đại hỷ cho nên hai vợ chồng họ Doãn đều bận chuẩn bị hôn lễ, trong nhà người đông việc nhiều, mấy người chị em họ của Tĩnh Uyển đều đến, ở trên lầu cùng cô.
Một đám người nói nói cười cười, bỗng nghe thấy bác Phúc từ ngoài đường
hô vọng vào trong, trên tay cầm tờ báo nói: “Đại thắng đại thắng, đánh
một trận thắng lớn rồi!’’.
Tĩnh Uyễn vội vàng đi lên hai bước, quả
nhiên nhìn thấy hàng tít màu đỏ lớn trên trang báo: “Dư Gia Khẩu đại
thắng”, cô không kịp nghĩ nhiều, chỉ mãi đọc nội dung bên dưới, chiến
đấu kịch liệt hơn mười ngày, Thừa quân cuối cùng không địch được Dĩnh
quân, toàn tuyến phía đông tan vỡ. Tĩnh Uyển đọc đến mấy chữ: “Dĩnh quân chiếm đóng Dư Gia Khẩu”, trong đầu “ầm” một tiếng, định thần lại mới
nghĩ Dư Gia Khẩu là vùng trọng yếu của Thừa quân, sau Dư Gia Khẩu là
Vĩnh Tân, Vĩnh Tân là đại bản doanh phía Nam của Thừa quân bóp chặt yết
hầu đường sắt Thừa Dĩnh, bây giờ lại để mất Dư Gia Khẩu, e rằng Vĩnh Tân nguy hiểm chỉ một sớm một chiều. Cô sững sờ đứng đó, Minh Hương vội cầm lấy tờ báo, rót cho cô tách trà nóng.
Một người chị họ cười nói: “Tĩnh Uyển
nhà ta từ nhỏ đã giống con trai, cho nên không chịu thua kém đấng mày
râu, lúc nào cũng quan tâm tin tức quốc sự, e rằng sau này Kiến Chương
còn phải chịu lép vế với em ấy”. Một người em họ khác nói: “Báo thì có
gì hay, ngày ngày chỉ nói chuyện đánh nhau, nhưng em nghe cha nói, trận
đáng này sẽ chóng kết thúc thôi. Tin tức trang đầu hôm nay nói nước Nga
tuyên chiến với Thừa quân. Cha nói , Thừa quân lần này trước sau đều có
địch, chỉ có thể thua thảm hại”.
Chỉ nghe thấy “choang” một tiếng, tách
trà trong tay Tĩnh Uyển vỡ tan. Minh Hương giật bắn mình, vội vàng hỏi:
“Tiểu thư có bị bỏng không?”. Tĩnh Uyển sắc mặt trắng bệch, nhưng dáng
vẻ vẫn trấn tĩnh: “Không”. Minh Hương vội thu dọn mãnh vỡ, miệng còn
nói: “Rơi xuống đất nở hoa vinh hoa phú quý”. Một tay Tĩnh Uyển ấn lên
ngực, trên mặt đang cười ngẩn ngơ , lẩm bẩm nói: “Em học ai thế, lải
nhải như vậy”. Minh Hương bĩu môi: “Còn không phải là bác Ngô, nói trong nhà có việc hỷ, những câu tốt lành nhất định phải nhớ”.
Mấy người chị em họ xúm lại coi của hồi
môn của cô, khăn trùm đầu, đồ trang sức hết thảy đều mang ra, cầm thứ
nào lên là tấm tắc khen thứ ấy, toàn con gái trẻ tuổi tụ tập với nhau
nên rất náo nhiệt, huống hồ đang xem trang sức, khen cái này tinh xảo,
cái kia quý, trên trán Tĩnh Uyển lấm tấm mồ nôi lạnh, tiếng cười nói ồn ã cả căn phòng, vang lên trong tai như xa như gần vo ve như tiếng ong. Cô trấn tĩnh vì tổ chức hôn sự nên cả phòng đều treo trướng hỷ và hoa màu, bốn bề đều là màu sắc rực rở, trong căn phòng chất đầy các loại gấm
vóc, rương hòm, đều là đồ cưới chuẩn bị cho ngày mai, trên bàn trang
điểm có chiếc đồng hồ Tây nho nhỏ, dưới đồng hồ có quả cầu thủy tinh di
chuyển không ngừng, lắc qua lắc lại, cô nhìn đến chóng mặt, dường như cả căn phòng đang chuyển động.
Vợ chồng họ Doãn đều bận tiếp khách đến
ba bốn giờ chiều, Doãn phu nhân mới có thời gian lên lầu, xem con gái,
còn đám chị em họ của Tĩnh Uyển đều đi xuống bên dưới nghe kịch một mình Tĩnh Uyển ngồi ở đó, sững sờ thẩn thờ. Doãn phu nhân xót xa hỏi: “Nghe
bác Ngô nói trưa nay con không ăn gì, sao mặt đỏ thế”. Tĩnh Uyển đưa tay sờ sờ mặt, má cô nóng hầm hập, giống như sốt, nhưng trong tim cô dường
như có một ngọn lửa đang hừng hực cháy, ánh mắt đượm về xa xôi, cô khẽ
gọi một tiếng “mẹ”.
Doãn phu nhân nhẹ nhàng vuốt tóc cô, mắt cô bỗng ngấn lệ: “Mẹ,con sợ lắm”. Doãn phu nhân sững lại một lát, lập
tức cười nói: “Con bé ngốc này, có gì sợ chứ, con gái lớn đều phải gả
chồng mà”. Tĩnh Uyển lại giống như sắp bật khóc, cắn chặt môi, cố ngân
nước mắt. Doãn phu nhân hoảng hốt, vội nói: “Con ngoan trên dưới Hứa gia con đều quen thuộc, giống như nhà mình vậy, hơn nữa đều ở trong thành,
sau này con muốn về cũng rất thuận tiện mà”.
Tĩnh Uyển cuối cùng không kìm được nữa,
nước mắt trào ra, Doãn phu nhân thấy cô như thế, không hiểu vì sao cũng
thấy vô cùng xúc động, đưa tay ra ôm con gái vào lòng. Tĩnh Uyển vừa nói vừa nấc nghẹn ngào: “Mẹ con xin lỗi”. Doãn phu nhân vỗ lưng cô: “Nói
linh tinh, con có lỗi gì với mẹ chứ, chỉ cần con sống vui vẻ mẹ vui lắm
rồi”. Bà lại nói tiếp: “Xưa nay con luôn hiểu chuyện, hôm nay phải vui
vẻ, hôm nay là đại hỷ mà”. Tĩnh Uyển “vâng”một tiếng, vùi mặt vào mẹ, ôm chặt lấy eo mẹ rất lâu không chịu buông ra. Doãn phu nhân nghĩ chỉ có
một cô con gái độc nhất này, ngày mai phải gả về nhà người khác, trong
lòng cũng ngàn lần, vạn phần không nỡ, nên bà cứ dặn dò mãi mấy đạo lý
làm dâu, rồi an ủi rất nhiều.
Theo lễ tiết, trước khi kết hôn Kiến
Chương và Tĩnh Uyển không được gặp mặt, cho nên chiều muộn hôm đó, Kiến
Chương gọi điện tới. Tĩnh Uyển nhận điện, trong lòng cô có cảm giác rối
ren phức tạp, nhưng không biết nên nói gì với anh, Kiến Chương chỉ coi
như cô mệt, nói mấy việc hôn lễ ngày mai, cuối cùng dặn dò: “Vậy em ngủ
sớm đi”. Cô “ậm ừ” một tiếng, anh sắp dập điện thoại, bỗng nghe cô gọi
“Kiến Chương”.Anh hỏi: “Sao thế?”. Trong ống nghe chỉ có tiếng ù ù, hơi
thở anh chậm và đều, cô dịu dàng nói: “Không có gì, chỉ nuốn gọi anh một tiếng thôi”.
Thỉnh thoảng cô lộ ra vẽ trẻ con đó,
nhưng Kiến Chương lại thấy ngọt ngào nói: “Ngủ sớm chút đi, ngày mai gặp mặt rồi”. Tĩnh Uyển yên lặng hồi lâu, cuối cùng mới nói: “Anh cũng nghĩ sớm đi, tạm biệt”.
Cô dập điện thoại, đứng dậy. Phía trước
bắc sân khấu, đang biểu diển, tiếng chiên trống truyền đến như xa như
gần, réo rắt réo rắt…trái tim cô còn đập nhanh hơn tiếng trống, cô kiểm
tra tất cả mọi thứ trong túi xách: ảnh cha mẹ và mình, hai tập tiền giấy dày, một nắm tiền lẻ, còn cả chiếc đồng hồ quả quýt đó. Cô nghĩ một lúc lấy khăn tay bọc viên “thần châu”, nhét vào đáy chiếc túi xách.
Khách khứa đều nghe kịch ở phía trước,
cô lặng lẽ xuống lầu, vì sắp mở tiệc nên mọi người đều bận túi bụi, nhất thời không ai chú ý đến cô. Cô ra khỏi hoa viên từ cửa sau, trong vườn
yên lặng không một bóng người, chỉ có mấy chiếc cờ màu nhỏ treo trên
cây, tung bay trong gió, reo lên “:ật phật, lật phật”, tiếng chiêng
trống huyên náo phía trước, cô lờ mờ nhận ra khúc “Ngọc Liên Minh”, đang hát đến câu: “Ta không cần gấm vóc tram ngọc, chỉ cần áo vải tram gai,
mưa gió có nhau, bên nhau tron đời”….Lời thề son sắt đó như một lời an
ủi kì lạ, khiến cô không thấy quá sợ hãi, chỉ là bước chân không kìm
được hơi chùn lại, may mà suốt dọc đường không gặp ai. Cửa sau vốn không khóa, ông Lý canh cửa ngồi ở ghế mây, ngẩng đầu há miệng ngồi ở đó,hóa
ra đã ngủ quên trong cơn gió mát, ông Lý nuôi một con chó vàng lớn, thấy cô nó lười nhác vẫy đuôi, cô lặng lẽ đi ra khỏi cửa.
Xuyên qua con phố liền nhìn thấy mấy
chiếc xe kéo, đang đợi khách, cô lên đại một chiếc nói với phu xe: “Đến
phía nam thành mau lên…”. Phu xe đó thấy dáng vẻ cô biết là tiểu thư con nhà giàu, hơn nữa lại không mặc cả, rõ ràng là khách sộp, lập tức hăng
hái kéo nhanh như bay, không lâu sao đã đưa cô đến phía Nam thành.
Cô biết hành động này của cô khiến người đời kinh hãi, ngay cả Nghiêm tiên sinh đó thấy cô cũng rất bất ngờ. Cô
không nhiều lời chỉ nói ngắn gọn một câu: “Tôi muốn đến Vĩnh Tân”.
Nghiêm tiên sinh đó lập tức trấn tĩnh,
ánh mắt đầy vẻ khâm phục, miệng lại nói: “Bây giờ hai bên chiến sự gay
go, giao thông đứt đoạn, tiểu thư không thể mạo hiểm như thế”.
Tĩnh Uyển cố chấp ngẩng mặt lên: “Anh ấy đã có thể đến được, anh nhất định có cách đưa tôi đi. Cửa thành sắp
đóng rồi, nếu không đi hôm nay thì cả đời này tôi cũng không có cách nào đi”. Nghiêm tiên sinh do dự: “Tiểu thư thân đáng ngàn vàng, tiền tuyến
lửa đạn không phải là chuyện chơi. Trên đường chẳng may có tổn thất gì,
Nghiêm Thế Xương tôi mặt mũi nào đi gặp cậu Sáu”. Tĩnh Uyển giậm chân:
“Tôi không sợ, anh sợ cái gì?”. Nghiêm Thế Xương suy nghĩ một lúc lâu,
cuối cùng hạ quyết tâm, ngẩng đầu lên nói: “Vậy xin tiểu thư đợi lát.
Tôi đi bố trí”.
Anh ta làm việc rất nhanh lẹ, một lúc
sao liền quay lại, hai người ngồi xe ra khỏi thành, bên ngoài thành đã
có một người thuê xe ngựa đón ở đó, trời đã muộn hai người ngồi trên xe
ngựa lắc lư đi khoảng mười cây số. Tĩnh Uyển một nửa hồi hộp một nửa sợ
hãi, xen lẫn sự vui mừng khó tả, ngồi trong chiếc ống xe ngựa lọc cọc
lọc cọc. Trái tim cô ấp ủ một sự nồng nhiệt không thể khống chế. Lần này gần như đi cả nửa đêm, từ con đường nhỏ xe ngựa đi lắc lư rẽ vào con
đường hẹp hơn nữa, cuối cùng đi vào một khuôn viên, nhờ vào chút ánh
sáng ở đầu xe Tĩnh Uyển lờ mờ nhận thấy một hộ gia đình bình thường.
Nghiêm Thế Xương xuống xe trước, giúp cô kéo mành che nói nhỏ: “Tiểu thư tối nay ở tạm đây, sáng sớm mai lại lên đường”. Tĩnh Uyển tuy to gan, Nhưng đến nơi không quen biết này vẫn
không khỏi thấy sợ hãi. Trong lòng vẫn nhớ cha mẹ, lúc này chắc họ lo
lắng đến phát điên rồi, nhưng bản thân khi ra đi, đã không màng tất cả,
sau này chỉ có thể cầu xin họ tha thứ.
Chủ nhà là một cặp vợ chồng tươi cười ra đón. Ở đây không có đèn điện, vẫn thắp đèn dầu, Tĩnh Uyển thấy có nữ
chủ nhà mới thở phào nhẹ nhõm. Dưới ánh sáng ảm đạm, chỉ thấy một căn
phòng dọn dẹp gọn gàng, bà chủ nhà giúp cô kéo chiếc mành, bên trong
cũng là giường đất. Tĩnh Uyển nửa đêm bôn ba, nay thấy chiếc giường sạch sẽ đó liền ngồi xuống trước. Nghiêm Thế Xương nói: “E rằng ngày mai
tiểu thư phải khổ rồi”. Anh ta nói rõ tất cả kế hoạch cho cô: Tiền tuyến tuy đang đánh nhau, nhưng ở đây rất gần núi Kỳ Phong, chúng ta đã chuẩn bị gia súc, sáng sớm ngày mai sẽ khởi hành, đi qua con đường nhỏ trên
núi, dự tính phải đi mất bốn năm ngày, chỉ cần đến phạm vi núi Kỳ Phong, thì chúng ta có thể kiểm soát được rồi. Có điều đường đi đều là đường
nhỏ qua núi vượt đèo, nhà dân thưa thớt, chỉ sợ việc ăn ở của tiểu thư
sẽ gặp khó khăn nhiều”
Tĩnh Uyển nói: “Không sao, tôi đã đi là đã chuẩn bị khổ rồi”.
Nghiêm Thế Xương gặp mặt cô có mấy lần,
trong lòng rất lo lắng, cô là đại tiểu thư yếu đuối như thế chỉ sợ trên
đường rất khó chăm sóc. Sáng sớm ngày hôm sau Tĩnh Uyển thay bộ đồ cũ
của bà chủ nhà, lấy vải xanh quấn lên tóc, nhìn rất giống thôn nữ. Cô
tuy trẻ tuổi nhưng trong lòng đầy tâm sự, biết rõ con đường phía trước
rất vất vả, soi mình vào mặt nước vẫn không nhịn được cười thành tiếng.
Nghiêm Thế Xương cũng thay quần áo vải
cũ, chủ nhà chuẩn bị cho anh hai con lừa lớn, lại bảo một đứa cháu của
mình tuổi tầm mười bốn gọi là Thặng Nhi, giúp Tĩnh Uyển kéo gia súc. Tuy Tĩnh Uyển cưỡi ngựa rất khá nhưng cũng chưa từng cưỡi lừa, cô đứng ở
một chiếc cối bên cửa do dự một lúc lâu, cuối cùng lấy hết can đảm cưỡi
lên, Nghiêm Thế Xương vốn cũng rất lo lắng, thấy cô ngồi chắc chắn trên
yên mới thở phào.
Khi cưỡi quen con lừa đó rồi thì đi vừa
nhanh vừa chắc. Tháng tám lúa kê trong núi đang chín, Tĩnh Uyển ngắt một chiếc lá cọ che lên đầu tránh nắng, cô đã thay đổi giày da bằng đôi
giày vải cũ bà chủ nhà mới khâu, trên đó thêu một cặp bướm ngũ sắc, dưới ánh mặt trời đôi giày lắc qua lắc lại, cặp bướm sống động như muốn bay
lên. Cô nghiêng người ngồi trên lưng lừa, hai bên con đường nhỏ điều là
cỏ dại xanh rì, thỉnh thoảng giữa khúc quanh của núi hiện ra một mảnh
ruộng, gió thổi qua đám cao lương rậm rì, cách chiếc lá cọ, ánh mặt trời nóng bỏng tỏa ra hơi thơm thanh mát. Đi rất lâu mới nhìn thấy hai ba hộ gia đình lác đác ở sườn núi, khói bếp màu xanh ngọc bốc lên lưng chừng
trời. Con đường núi ngoằn ngoèo, như thể đi mãi không hết vậy. Tĩnh Uyển lúc đầu vẫn lo lắng về cha mẹ, thỉnh thoảng có cảm giác áy náy, đến lúc này cũng đành cố gắng quên đi, cô nghĩ việc đã đến nước này nghĩ nhiều
cũng chẳng ích gì. Trong lòng hễ nghĩ đến ngày gặp Mộ Dung Phong là cả
trái tim và đầu óc đều thấy vui mừng, dù rằng cô chưa bao giờ phải đi
qua đường núi gập ghềnh như vầy.
Thặng Nhi chỉ lo cắm đầu đi, Tĩnh Uyển
vốn có tâm trạng, muốn phân tán sự tập trung, do đó hỏi cậu hết câu này
đến câu khác như mấy tuổi rồi, nhà có bao nhiêu người, đi học chưa, đã
đi đâu ra khỏi làng chưa… Nghiêm Thế Xuơng vốn rất lo lắng, thấy dáng vẻ bây giờ của cô dần dần cũng yên tâm hơn. Tĩnh Uyển hiếm khi được vào
trong núi, thấy cái gì cũng mới mẻ, lúc đầu Thặng Nhi hỏi một câu mới
đáp một câu, sau đó cô hỏi cây đó là cây gì, đó là hoa gì…dần dần cũng
trở nên thân thuộc hơn.
Mùa thu lạnh dần gió thổi rì rào lách
qua cây cối, giữa cây cỏ tiếng côn trùng như đan dệt, bên này đang hát
nên kia đang ca, chít chít rít rít trầm bổng không ngừng, Thặng Nhi
nhanh tay nhanh mắt, bắt ngay một con dế lớn đậu trên cỏ, lấy lá cỏ buộc lại, đưa cho Tĩnh Uyển.Tĩnh Uyển mừng rỡ đón lấy, thắt lá cỏ vào chiếc
lá cọ, cầm đầu ngọn cỏ nhọn chọc choc con dế, vô tình để lộ tính khí trẻ con, Nghiêm Thế Xương thấy thế phì cười.
Đi đường như thế suốt ba bốn ngày liền,
con đường họ đi rất hẻo lánh, ngoài người bản địa rất ít người biết. Cho nên tuy chặng đường rất cực nhọc nhưng bình yên thuận lợi. Nghiêm Thế
Xương rất kính phục cô,nói: “Tiểu thư quả thật không thua đấng mày râu”. Tĩnh Uyển cười đáp: “Anh coi tôi là thiên kim đại tiểu thư, hẳn là có
phần coi thường tôi rồi”. Nghiêm thế Xương liên tục nói: “Không dám”.
Tĩnh Uyển phì cười nói: “Anh đừng vâng vâng dạ dạ thế, anh tuy là thuộc
hạ của Cậu Sáu, nhưng đâu phải thuộc hạ của tôi”. Nghiêm Thế Xương nói:
“Thế Xương phụng mệnh bảo vệ tiểu thư, cho nên hiện tại chính là thuộc
hạ của tiểu thư”.
Tĩnh Uyển cười nói: “Lần này may nhờ có
anh, nếu anh cứ vâng vâng dạ dạ như thế tôi phạt anh đấy”. Nghiêm Thế
Xương lại “vâng” một tiếng, lần này đến Thặng Nhi cũng cười, Tĩnh Uyển
nói: “Vừa mới nói xong, lại phạm lỗi, phạt anh hát”. Nghiêm Thế Xương
theo Mộ Dung Phong từ nhỏ, lên ngựa quản quân, xuống ngựa quản dân, sống trong rừng gươm bão đạn cho đến ngày hôm nay, bình thường những đồng
bào mà anh chung sống đều là đàn ông hào khí vời vợi, xưa nay không coi
trọng phụ nữ yếu đuối, nhưng đồng hành cùng vị Doãn tiểu thư này lại
thấy cô phóng khoáng, bình dị dễ gần, không chỉ không hề kiêu ngạo mà
còn kiên nhẫn, đến đàn ông bình thường cũng không bì được. Đáng quý nhất là một đương kim tiểu thư, suốt dọc đường ăn lương khô uống nước lạnh,
chân tay phồng rộp cả lên nhưng không hề chau mày. Trong lòng anh tôn
trọng cô, nghe cô nói muốn phạt anh hát, cảm thấy khó xử mặt mày đỏ bừng lên điều này xưa nay chưa từng xảy ra với anh: “Tôi không biết hát”.
Tĩnh Uyển vỗ tay cười nói: “Nói dối,
người nào trên thế giới này mà chẳng biết hát, mau hát một bài, nếu
không tôi và Thặng Nhi đều không chịu”. Nghiêm Thế Xương không biết làm
thế nào, anh cũng không biết hát nhiều bài, đàng hát một câu dân ca quê
nhà: “Trước núi sau núi trăm hoa đua nở, hái một nhành cây cài lên tóc,
người trước người sau quay đầu nhìn lại, có ai đến hái hoa, yêu hoa
yêu…”. Giọng anh khàn khô nhưng thấy Tĩnh Uyển cười, chăm chú lắng nghe, nên lại hát tiếp: “Trước núi sau núi trăm hoa đua nở, hái một nhành hoa cài lên tóc, người trước người sau quay đầu lại nhìn, có ai đến lấy chị yêu chị, bướm hồng cũng biết hoa yểu điệu, bay đến bên cạnh chị chẳng
lẽ anh cứ đờ đẫn như thế, đờ đẫn như thế, còn muốn anh nhét vào tay anh, nhét vào tay anh…”
Móng lừa gõ trên con đường đá, âm thanh
trong trẻo, làm kinh động mấy chú chim non phía xa xa, chúng phành phạch vỗ cánh bay lên trời. Những ngày tháng trước đây của anh, hoặc là liếm
máu trên bang súng đầu dao, hoặc là uống rượu cá tiền với anh em hoặc là say đắm trong nhà thổ ngõ nhỏ, chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ ngồi trên lưng lừa cất cao tiếng hát giữa núi rừng thế này, nhưng thấy khuôn mặt cô tươi cười, trong lòng dù như thế nào cũng không làm phật lòng cô.
Thế Xương hát hết một bài, Tĩnh Uyển cười nói: “Hát hay như thế mà nói
không biết hát”. Chiếc roi trong tay Nghiêm Thế Xương đã dính đầy mồ
hôi, anh yên lặng vài giây rồi cười nói: “Giọng cậu Sáu mới hay, thỉnh
thoảng nghe cậu ấy gọi một phách, còn vang hơn mấy diễn viên nổi tiếng
nữa đó”
Tĩnh Uyển cười mỉm nói: “Tôi thật sự
không biết, phải bắt anh ấy hát mới được”. Cô lại thuận miệng hỏi anh:
“Cậu Sáu lúc nhỏ của anh trông như thế nào?”. Nghiêm Thế Xương cười nói: “Lúc đại soái còn sống, Cậu Sáu cũng rất nghịch ngợm, đại soái hễ tức
giận là cầm chổi lông gà đánh cậu ấy, không đánh gãy chổi tuyệt đối
không tha, lúc đó Cậu Sáu tầm mười tuổi, có lần gây chuyện bên ngoài,
biết đại soái sẽ đánh, cho nên cầm dao cắt một vết sâu bảy, tám phân
trên chiếc chổi lông gà mới. Đại soái về đến nhà, quả nhiên cầm chổi
đánh, mới đánh được hai cái đã gãy, đại soái sững lại nói: “Sao loại
chổi này bây giờ lại đểu thế?”. Người ở nhà ai cũng biết là Cậu Sáu bày
trò, đều ôm bụng cười lỉnh ra bên ngoài.
Tĩnh Uyển cũng mỉm cười, mắt nhìn con
đường núi trước măt, hình như hơi thẫn thờ, lúc này mặt trời lặn xuống
núi, ánh sáng như dát vàng, Nghiêm Thế Xương cảm thấy đôi mắt cô như
thủy tinh còn phát sáng óng ánh hơn cả ánh chiều tà rực rỡ đó, cô quay
mặt đi má phớt hồng như ráng chiều,nói: “Nghiêm đại ca, sau đó thì
sao?”. Cô gọi tiếng “đại ca” nghe rất tự nhiên, Nghiêm Thế Sơn không dám trả lời, đương lúc chần chừ lại nghe cô nói: “Tội nghiệp anh ấy từ nhỏ
không có mẹ,haizz!”. Một tiếng than như thế nghe xa xôi bất tận như một
sợi dây lan đến tận sâu thẳm trái tim. Nghiêm Thế Xương không dám ngẩng
đầu nhìn cô nữa, một lát sau mới nói: “Tiểu thư, ngày hôm nay sẽ đến Hà
Gia Bảo rồi, ở đó chỉ cách núi Kỳ Phong một ngọn núi, tuy Dĩnh quân
không đóng quân ở Hà Gia Bảo nhưng binh chiến lạc loạn là khó tránh
khỏi. Cho nên hành trình ngày mai rất nguy hiểm, đến lúc đó nếu xảy ra
chuyện gì, tiểu thư nhất định phải đi với Thặng Nhi trước, nó biết
đường, biết đường nào đến núi Kỳ Phong”.
Tĩnh Uyển tuy hơi sợ hãi nhưng mau chóng lấy lại dũng khí, nói: “Nghiêm đại ca, ba chúng ta nhất định cùng nhau
bình an đến núi Kỳ Phong”. Nghiêm Thế Xương cười nói: “Tôi chỉ sợ là bất trắc, tiểu thư là người phúc trí vẹn toàn, nhất định có thể bình an,
thuận lợi đến gặp Cậu Sáu.