Khúc Cầu Hồn

Chương 39-2



Họ nhảy qua con mương và chui vào những bụi cỏ, cong gập người, súng ngắn rút ra nòng hạ xuống. Cỏ dại mọc cao ngất ngưởng và thò những cành lá dài ẩm ướt đụng vào họ khi họ di chuyển. Sấm chớp ầm ĩ. Con đường mòn ướt đẫm và trơn trượt.

Họ dừng ở một mái che nhỏ trước cái sân trơn bao quanh nhà gã Meechum. Một mùi gì đó vương trong không khí, mùi nồng nặc hoá chất không rõ xuất xứ từ đâu.

Họ lao nhanh một đoạn ngắn chừng bảy mét cuối cùng, tựa lưng vào bức tường dưới cái cửa sổ to nhất. Nước ào thoát xuống từ những máng xối bị nghẽn. Mùi hóa chất nồng nặc, cái gì đó đang cháy. Hunt thò đầu ngó vào trong cửa sổ. Rèm cửa kéo đóng kín nhưng có một khoảng hở ở giữa. Đó là phòng khách, một khoảng không gian tăm tối với bàn ghế cũ kỹ và trần nhà thấp lè tè. Thảm màu vàng cam, tường ốp gỗ thông rẻ tiền. Meechum hệt như Steve diễn tả. Mình dây và khòm khòm, y ngồi cong người trước máy tính, áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi. Trong lò sưởi, nhiều đĩa máy tính xếp thành chồng và đang bốc cháy. “Gã ta đốt huỷ tang chứng,” Hunt nói, khom người xuống, lao nhanh ra cửa sau. “Anh ra cửa trước. Chúng ta sẽ xông vào trong sáu mươi giây.”

Yoakum di chuyển ra phía đằng trước, để Hunt một mình trong trời mưa. Ông mạo hiểm nhìn một lần nữa xuyên qua cửa sổ. Tóc tai dựng đứng hoang dại trên đầu Meechum. Y đập tan bàn phím, rồi đập mạnh vào thành máy tính, đập một lần nữa. Hunt không thấy cây rìu cho đến khi Meechum với lấy nó. Nó dựa vào bàn, cán gỗ mại châu và lưỡi rìu rỉ sét đen ngòm ngoại trừ dọc phần lưỡi sáng lấp lánh. Cây rìu được giơ lên và mặt Meechum đanh lại, môi trề ra, hai mắt nhắm nghiền; sau đó cái rìu rơi xuống cái rầm, nhựa vỡ, và kính bay tung toé.

Máy tính.

Tổ cha.

Hunt tụt xuống khỏi cửa sổ, lao nhanh đến cửa ra vào. Ông thử núm vặn cửa. Khóa cứng. Ông kê vai vào gỗ, cảm thấy nó mỏng mảnh và rẻ tiền. Khung cửa bật tung dằm đâm tua tủa dưới sức nặng của ông, và ông lao vào trong nhà bếp, sàn nhựa trơn trượt dưới đôi chân đầy bùn của ông. Một dấu hiệu chuyển động qua cánh cửa vào phòng khách và súng của Hunt đưa lên khi ông lao vào phòng. “Cảnh sát! Cảnh sát đây. Mẹ kiếp!”

Máy tính bị chọc thủng trên đỉnh, Meechum đứng trên nó, rìu vung lên và đông cứng người khi y nhìn chòng chọc vào cái nòng súng đang chĩa về hướng mình. Ông thấy sự thất kinh trong đôi mắt của y. “Đứng im!” Hunt bước sâu vào bên trong căn phòng, đường bắn vuông góc với đối tượng. Căn phòng hôi nồng nặc mùi nhựa cháy. Meechum lắc đầu, lưỡi thò ra như lưỡi kỳ nhông.

“Hãy buông cây rìu xuống.” Hunt tìm kiếm Yoakum, sau đó nghe tiếng kính vỡ ở ngoài cửa trước.

“Hãy buông cây rìu xuống,” Hunt nói.

Khuôn mặt gã đàn ông co giật. Lồng ngực y phập phồng khi khói đen ngòm bốc lên từ ống khói. Hunt nhìn thấy sự quả quyết hằn rõ trên khuôn mặt của Meechum, ngay cả khi đằng sau cánh cửa y đứng phát ra tiếng lục đục. Hunt thấy ánh lên sắc kim loại, và Yoakum với khẩu súng giữ trên cao lao vào trong căn phòng.

Cái đầu rìu nâng lên khi xương sống của Meechum cong gập.

“Đừng,” Hunt hét lên, nhưng lúc đó đã quá trễ.

Meechum vung cái rìu, và Yoakum bắn gã xuyên thấu tim. Thi thể rớt mặt úp xuống, một cái giật nhẹ ở hai ngón tay cong. Hunt bước ngang phòng đến lò sưởi và đá những cái đĩa nhựa văng ra xa khỏi ngọn lửa. Chụp cái cây khều lửa, ông đào bới sâu hơn, xổ tung mớ nhựa đang cháy dở dang và cố gắng cứu vãn được cái nào có thể. Cuối cùng, Yoakum giúp ông ta. Năm đĩa không bị thiệt hại gì, một chục cái khác bị cháy xém. Mười cái đĩa bị cháy toàn bộ không còn cơ hội cứu vãn.

Hunt lùi bước. Giầy của ông đen ngòm, cổ họng đắng khét. Ông nhìn Yoakum, khuôn mặt ông ấy điềm tĩnh. “Ông có cần thiết phải giết gã không?” Hunt hỏi. Yoakum nhìn thi thể. “Gã định bửa ông bằng cây rìu.”

“Gã định bửa cái máy tính.”

Khuôn mặt Yoakum không hề có biểu hiện hối hận hoặc nhận lỗi. “Góc nhìn quá tệ. Tôi không nhìn thấy ông. Tôi không thể thấy ông rút súng ra đưa lên hay không. Khi tôi vừa vào phòng thì lưỡi rìu vung xuống. Tôi nghĩ gã ta bửa ông.”

“Tôi ước gì ông không giết gã.”

“Phát đạn bắn đúng lẽ.”

Hunt ngừng, rất yên lặng. “Tôi chưa bao giờ nói nó không hợp lý.”

“Nó là phát đạn đúng lẽ.” Mùi máu bốc lên trong căn phòng. Yoakum tra súng trở vào bao, hai mắt đen và bóng loáng như kính. “Hết chạy,” ông nói, và quay đi.

Năm phút sau, tiếp viện đổ đến, đi chung trong đám họ có ông Cảnh sát trưởng, và những câu hỏi, không câu nào dễ dàng. Cớm tràn ngập căn nhà. Cơn giông vẫn nặng hạt. Khi mặt trời lặn, thi thể đã được chuyển đi, những cái đĩa nhựa được gói chặt và chuyển giao cho chuyên viên kỹ thuật máy tính thượng thặng thuộc nha cảnh sát. Cảnh sát trưởng gọi thám tử Hunt và Yoakum vào trong nhà bếp. “Một lần chót. Cho tôi biết đây có phải là hắn không?”

“Chúng tôi nghĩ hắn ta có liên can với Burton Jarvis.”

“Tại sao?”

“Biển số ăn cắp. Mèo chết từ thương xá. Tờ ghi chú của Johnny Merrimon...”

“Đừng nói với tôi về tờ ghi chú của anh nhóc đó.”

“Những điểm nhận diện của gã trùng hợp,” Hunt cả quyết. “Tuổi tác, chiều cao, màu tóc. Chúng ta đã từng trải qua chuyện này ba lần.”

“Nói lại một lần nữa.”

Và Hunt giải thích mọi chuyện. Cảnh sát trưởng không hề ngắt lời. Ông ta hiếm khi chớp mắt.

“Chúng tôi thu giữ được vài cái đĩa,” Hunt kết luận. “Ổ cứng nhìn còn nguyên. Nó sẽ cho chúng ta biết nhiều hơn.”

Ông Cảnh sát trưởng nhìn từ người này đến người kia. “Tôi muốn hai ông trở về sở cảnh sát,” ông nói. “Tôi muốn cả hai ông viết báo cáo. Ngoài chuyện đó, tôi không muốn bất cứ ai trong hai ông nói một lời nào cho bất cứ ai về chuyện này, cả giữa hai ông, cả bạn gái các ông hoặc những cảnh sát khác - cho đến khi nào tôi có trong tay bản báo cáo của hai ông. Chúng ta rõ ràng rồi chứ?”

“Nghe rõ.”

Cảnh sát trưởng chỉ cái cửa. “Báo cáo. Ngay bây giờ.”

“Tôi đang muốn đi uống bia,” Yoakum đáp lời. “Chúng tôi làm báo cáo ngày mai được chứ?”

Cảnh sát trưởng không hề thích thú. “Báo cáo,” ông nói. “Từ cả hai ông. Riêng biệt. Sau đó tôi muốn hai ông về nhà và ngủ vài tiếng. Ngày mai tôi cần phải nghĩ đến chuyện làm sao giải quyết cái đống xà bần này.”

“Đống xà bần,” Yoakum nhắc lại, giọng không bằng lòng.

“Vậy theo ông phải gọi là gì?” Cảnh sát trưởng không hề lùi bước.

“Phát súng chính đáng.”

Cảnh sát trưởng chống nạnh hai tay, hếch cái cằm nhẵn thín, cong môi. “Một gã đàn ông bị bắn gục ở ngay phòng khách nhà ông ta. Nó thực sự chính đáng hơn cả lý và lẽ.”

Hunt lái xe riêng của ông nhưng Yoakum bị buộc phải đi cùng với một cảnh sát trên xe tuần tiễu. “Tôi không thích cái cảm giác này chút nào,” Yoakum nói và cả hai ông đều hiểu. Cảnh sát trưởng không muốn họ bàn bạc về bản báo cáo khi họ lái xe. Ông ta muốn họ bất ngờ và không chuẩn bị tinh thần. Hunt không thấy Yoakum khi ông đến. Ông được đón ngay tại cổng bởi một sĩ quan an ninh nội vụ tên là Matthews. Ông ta là người mới được chuyển đổi phụ trách khu vực, do vậy Hunt chỉ biết ông ta qua hình dáng và danh tiếng. Ông ta hẳn là người thông minh, tử tế. Ông ta có đôi mắt mệt mỏi và cái mồm phản đối; chân đi hơi cà nhắc khi ông ta dắt thám tử Hunt vào một căn phòng họp khác thường. Trước tiên là những câu hỏi bình thường, loại câu hỏi đặt ra sau một lần liên quan đến súng nổ, và nếu nó dài hơn bình thường, chi tiết hơn, là vì hành động nổ súng gây tử vong. Hunt tiếp nhận câu hỏi dễ dàng. Ông đã từng qua cửa ải này trước đây.

Những câu hỏi bất thình lình khác thường sau ba mươi phút.

“Ông và Thám tử Yoakum là bạn, điều đó đúng không?”

“Chúng tôi là cộng sự.”

“Câu trả lời không đáp ứng, Thám tử.”

“John Yoakum là bạn tôi.”

“Ông có bao giờ thấy Thám tử Yoakum rút súng bắn trong cơn bực tức không?”

“Không. Dĩ nhiên là không.”

“Ông ta có bao giờ dùng vũ lực quá mức không?”

“Vũ lực áp dụng như thế nào là chuyện giải pháp tình huống. Thám tử Yoakum là người luôn cẩn thận phán đoán không chê trách vào đâu được.”

“Theo nhận định của ông?”

“Đúng.”

“Như là bạn ông ta.”

“Là thám tử chỉ huy trong những vụ án lớn.” Hunt cảm thấy sức nóng dưới lớp áo. “Là một sĩ quan với mười bảy năm kinh nghiệm. Chúng ta xong chưa?”

“Thêm vài câu hỏi nữa.”

“Bắt đầu đi.”

Matthews gõ nhịp đầu bút chì xuống bàn và bật ngửa người trên ghế.

“Thám tử Yoakum có mặt ở văn phòng ông hồi sớm hôm nay?”

“Đúng.”

“Các ông thảo luận chuyện gì?”

Sự kiên nhẫn của Hunt bốc hơi. “Gần đây chúng tôi có hơn một vài thứ để thảo luận.”

Đôi môi Matthews mấp máy, nhưng nụ cười không đồng bộ với ánh mắt. “Dĩ nhiên.” Cây bút chì gõ nhịp. “Tiffany Shore. Những đứa trẻ bị thảm sát.” Ông có thể nói về một gã đầu nậu xì ke hoặc cái bẫy tốc độ bắt người.

“Tôi sẽ cho ông đúng một phút,” Hunt nói. “Sau đó tôi sẽ bước ra khỏi đây.”

Matthews nghiêng người về phía trước. “Trong khi ở văn phòng của ông ngày hôm nay, Thám tử Yoakum có nói ai đó phải đền mạng cho những gì đã xảy ra với những đứa trẻ không?”

Hunt không hề nói gì.

“Ông ta có nói như vậy không?”

“Tôi nghĩ chúng ta xong rồi.” Hunt đứng dậy.

“Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi.”

Hunt gằn giọng. “Những gì đã nói hoặc không nói ở văn phòng tôi không liên can gì đến chuyện xảy ra ngày hôm nay. Meechum cầm cây rìu. Yoakum đã làm những gì ông ta nghĩ ông ta phải làm.”

“Ông có chắc về điều đó không, Thám tử?” Matthews ngả cái ghế ra đằng sau tựa vào tường, và Hunt không thấy điều gì vui vẻ trên khuôn mặt của gã đàn ông. “Hãy nghĩ về điều đó.”

Hunt không nói chuyện với ai khi ông rời văn phòng nha cảnh sát. Đồng hồ của ông chỉ bảy giờ khi ông bước ra ngoài văn phòng và đụng phải một cơn giông nặng hạt. Ông bước bộ, không cảm giác gì, đến xe ô tô của ông. Bên trong, không khí ẩm ướt, ngột ngạt, hai tay tìm vô-lăng, ổ khóa. Ông nhìn quanh tìm các nhóm phóng viên săn tin tức nhưng không gặp ai. Có lẽ vì thời tiết.

Ai đó đã nghe được.

Mặc dầu ông đóng cửa, nhưng ai đó đã nghe những gì Yoakum nói.

Hunt ôm chặt vô-lăng và nhớ lại cú bắn xuyên tim của Yoakum. Cây rìu vung cao, Yoakum lăn xả vào căn phòng khi lưỡi rìu vung xuống. Nhìn thì giống nhau, nhưng cảm giác thì khác biệt.

Hay cảm giác cũng giống nhau?

Sau một phút, Hunt gọi anh con trai ở nhà. Bảy tiếng chuông reo, sau đó tiếng nhạc cất lên. Hunt cố gắng che giấu sự mệt mỏi cùng tính bồn chồn tự nhiên của ông. “Này, Allen.”

“Chuyện gì đó?”

“Con ăn cơm tối chưa?”

“Con đang hút thuốc và xem phim trần truồng. Bố quan tâm gì ba chuyện này?”

Hunt cắn răng che giấu cảm xúc. “Bố sẽ về nhà trong chốc lát. Muốn bố mua gì mang về không?”

Bên ngoài, Yoakum xuất hiện sau cánh cửa trước nha cảnh sát. Ông nhìn Hunt một lần, rồi giơ một tay và làm ám hiệu cây súng bằng hai ngón tay. Hunt chớp đèn. Yoakum kéo cò súng, rồi bước về xe riêng của ông, không thèm để ý đến trời đang mưa như Hunt.

“Đồ Tàu,” Allen nói, “nhưng một giờ nữa bố hãy về nhà.”

Yoakum mở cửa xe, chui vào, đóng cửa. Cả hai ở hai đầu bãi đậu xe. Đối nghịch nhau.

“Tại sao lại một giờ nữa?”

“Bởi vì con đang bận làm việc.”

Hunt mệt mỏi bởi bức tường giữa họ, sự vững chắc của nó, cái kiểu nó mọc cao hơn mỗi ngày.

Yoakum chui vào trong xe và Hunt cảm nhận được lúc động cơ khởi động. “Bố con mình xem phim sau khi ăn nhé? Như chúng ta vẫn thường làm ấy.”

“Con không nghĩ vậy.”

“Vậy đó hả?”

“Dạ. Thì như vậy đó.”

Yoakum lái xe rời khỏi bãi đậu cùng lúc anh nhóc cúp máy. Hunt cúp điện thoại và nhìn Yoakum lao đi. Họ cần nói chuyện, nhưng Hunt không sẵn sàng. Chưa. Cũng chẳng cần gấp. Ông có một giờ. Katherine chỉ ở cách đây mười phút lái xe. Ông nghĩ về chuyện này, rồi đề máy xe. Ông lái năm dặm dưới vận tốc quy định, chiếc ô tô bám chắc mặt đường trơn bóng như kính, nhưng khi đến gần vùng ven thị xã, ông phóng xe nhanh hơn. Ông muốn tìm gặp bà, ông nhận ra như vậy. Trong giờ phút đó, mưa rơi xuống mặt đường và hắt lên như một dòng sông nước đen ngòm, ông muốn gặp bà hơn bất kì điều gì khác.

Ô tô của ông leo lên ngọn đồi sau đó tụt dốc, đèn xe chiếu xuống, những ngôi nhà nhỏ bé hiện ra ở phía dưới. Khoảng cách giữa chúng được chia đều, ánh đèn đường hắt ra và sắc màu buồn tẻ cuộn vào trong những hàng cây; nhưng căn nhà của Katherine lại khác hẳn. Hunt cho xe chậm lại và hụp đầu xuống nhìn qua kính trước bị hơi nước phủ một lớp màng nhẹ. Đường dẫn vào nhà bà trống rỗng, xe của bà vẫn còn đang bị tạm giam, nhưng những xe tải săn tin tức đậu đầy hai bên đường. Chín chiếc. Chục chiếc.

Hunt quay đầu khi ông lái xe ngang họ. CNN. FOX. WRAL. Cả đống khác. Ông rẽ xe vào đường dẫn, vượt qua sát một chiếc xe tải gần nhất, và cửa mở tung khi một đám đông phóng viên túa ra đường trong cơn giông. Họ dầy dạn kinh nghiệm không tràn vào trong sân nhà bà Katherine, nhưng hò hét đặt câu hỏi trên đường phố ngay sau khi Hunt bước xuống giữa cơn mưa.

Ông tìm được Johnny chưa?

Sự thật có phải cậu ấy dẫn dắt ông tìm được kẻ sát nhân hàng loạt những đứa trẻ?

Những máy thu hình đã chuẩn bị hoạt động trong thời tiết xấu. Giới truyền thông thượng thặng mặc áo mưa nhưng nhanh chóng bị ẩm ướt và dơ bẩn. Những câu hỏi tiếp tục. Không thứ tự. Không rườm rà nghi thức. Họ chờ đợi từ lâu trong cơn mưa, và Hunt sẵn sàng đi vào căn nhà.

Thám tử, sự thật có phải con số tử thi bây giờ là bảy mạng không?

Đó là Băng tần số chín. Hunt biết gã ấy.

Cô bé Alyssa Merrimon có mặt trong con số tử thi không?

Tiếng nói lớn hơn.

Thám tử? Thám tử?

Những câu hỏi đến nhanh hơn, hét vang xuyên qua trời mưa tầm tã. Hunt quay lưng. Katherine mở cửa ở tiếng gõ cửa lần thứ hai, bé nhỏ, xanh xao và xinh đẹp.

Bà Merrimon...

Náo động. Hunt đứng giữa bà và những máy camera ghi hình. Nụ cười của bà không gượng ép như Hunt lo ngại nó sẽ thế. “Tôi được phép vào chứ?” Ông hỏi.

Bà để ông vào nhà, đóng cửa. “Johnny sao rồi?”

“Chưa.”

Bà bước qua một bên và Hunt trút bỏ chiếc áo khoác ướt đẫm. Chỉ một ngọn đèn cháy sáng trong căn nhà. Bà hé tấm rèm cửa và nhìn ra ngoài. Một tách cà phê nguội lạnh trên cái bàn cạnh ghế sofa. “Điều đó có thật không?” Bà nhìn ông bằng một con mắt đen thẫm, sau đó nhìn ra bên ngoài. “Họ nói những gì?”

“Họ nói những gì?”

“Rằng ông tìm được một hố chôn tập thể. Mà nó không thể nào phát hiện được nếu không nhờ Johnny.”

“Điều đó đúng.”

“Tôi không thể nào hỏi câu ấy.”

“Chúng tôi không có lý do nào tin rằng thi thể của Alyssa nằm ở đấy. Nhưng...”

“Nhưng sao?” Bà xoay người khỏi cửa sổ, đôi mắt mong manh, cằm nghiêng.

“Chúng tôi chưa hoàn tất tìm kiếm tất cả các thi thể. Cơn giông buộc chúng tôi phải ngưng tạm thời.”

“Vậy thì ngày mai?”

“Ngày mai, chúng tôi sẽ xem sao.”

Bà khoanh tay ôm lấy cơ thể. “Tôi lấy cho ông tách cà phê nhé? Hay trà? Tôi không có món gì nặng hơn.”

“Cà phê thì rất tuyệt vời.” Giọng bà thiểu não, Hunt nghĩ, nhưng bà cố gắng giữ vững mọi chuyện tươm tất hơn ông hy vọng bà có thể. “Tôi chỉ được phép có vài phút.”

“Cà phê.” Bà xoay người.

“Cảm ơn, Katherine.”

Bà rót cà phê vào tách và trao cho ông. “Vậy thì không có gì cả? Không một lời nào cả?”

Bà hỏi về Johnny. “Không,” ông nói. “Tôi xin lỗi.” Bà nhìn ra cửa sổ và cơn giông tít đằng xa, rồi sau đó ngồi xuống ghế sofa và Hunt ngồi cạnh bên. “Cậu bé là đứa trẻ cứng cỏi,” Hunt nói. “Chúng tôi đang tìm kiếm.”

“Ông có thể làm gì hơn được không? Bất cứ điều gì? Lệnh báo động chẳng hạn?”

“Những cái đó không bao giờ áp dụng ngoại trừ có chứng cớ rõ ràng là một vụ bắt cóc, và chúng tôi không tin cậu bé bị bắt cóc. Tất cả những chứng cớ cho thấy cậu bé tự ý bỏ đi. Ở một nơi nào đó. Căn cứ trên những gì đã từng làm trong quá khứ...”

Bà nhắm mắt, vỗ tay trên đùi. “Johnny...” Bà lắc đầu. “Tổ cha, Johnny. Giờ này con ở đâu?”

“Cậu bé là đứa trẻ thông minh, Katherine. Cậu bé sẽ không sao. Chúng tôi sẽ tìm được cậu bé.”

Khi bà mở mắt, mặt bà bóng như gương soi, và Hunt thấy rằng bà sẵn sàng chuyển hướng câu chuyện sang đề tài mới. “Gã Ken đến đây ba lần trong hôm nay.”

Hunt giấu sự lo lắng bất thình lình. “Tôi lại nghĩ gã ta bỏ qua rồi. Gã nói như vậy mà.”

“Đó không phải là chuyện Ken Holloway làm. Nếu gã nói với ông như vậy, gã nói láo.”

“Có đe dọa gì không?” Hunt hỏi.

“Gã đập cửa, thều thào nói những lời xấu xa.”

“Gã có nói bất cứ lời đe dọa nào không?” Hunt gặng hỏi. Ông có thể truy tố Holloway về chuyện buông lời hăm dọa. Nó sẽ rất hợp với việc truy tố về cản trở công lý. Chúng chỉ là những truy tố quá tầm thường đối với người như gã Holloway, nhưng sẽ khiến gã bị tống giam ngay dù chỉ là một thời gian ngắn. Chúng sẽ giúp cách ly gã khỏi Katherine.

“Chúng ta có thể ngồi không?” Bà hỏi. “Chúng ta có thể chỉ ngồi trong yên lặng được không?”

Hunt bỏ qua sự bực tức và lo lắng. “Được,” ông nói, và họ ngồi trong khi tách cà phê của ông nguội dần, và nhóm phóng viên săn tin tức buông tay và trèo trở vào trong xe. Sau một lúc, Hunt để ý bà ta ôm chặt cái gì ở giữa hai tay, ép hai bàn tay vào với nhau và nhét vào giữa cặp đùi.

“Tôi ở trong phòng Johnny hồi sớm ngày hôm nay. Ông biết...”

Bà bỏ lửng và Hunt có thể thấy bà vào trong ấy, sờ mó đồ vật của con trai, khó khăn vất vả dìm nén nỗi sợ hãi và nghi ngờ.

“Tôi tìm thấy những cái này.” Bà mở lòng bàn tay và Hunt thấy một xấp danh thiếp. Chúng nhăn nhúm và ẩm ướt. Bà nhìn lên, chạm ánh nhìn của ông. “Cả thảy mười chín cái.”

Một cú sốc rõ ràng hiện trên khuôn mặt bà và Hunt cảm thấy một sự ngượng ngùng bất thình lình và lạ kỳ. “Tôi muốn Johnny biết có ai đó để gọi điện thoại,” Hunt nói. “Nếu chuyện trở nên tồi tệ.”

Bà gật đầu, không ngạc nhiên. “Sau khi tìm được chúng, tôi tìm quanh nhà và tìm tất cả danh thiếp ông đã đưa cho tôi. Tôi đã vứt đi khá nhiều, tôi biết điều đó, nhưng tôi vẫn tìm thấy cả chục cái.”

“Đó là công việc của tôi,” Hunt nói.

Sự rõ ràng không hề do dự. “Thật vậy sao?” Hunt nhìn đi chỗ khác. “Ông lúc nào cũng có mặt bên cạnh chúng tôi.”

“Bất cứ người cảnh sát tử tế nào cũng làm tương tự như vậy.”

“Tôi không nghĩ như vậy.” Một lần, vai của bà chạm vào người Hunt, và ông cảm được một luồng xung điện, một luồng lửa xanh thẫm phập mạnh và đau. “Cảm ơn,” bà nói, và họ ngồi trong yên lặng, hai người, cạnh bên nhau. Bà kéo chân mình lên, đặt hai tay vào trong đùi và tựa đầu bà vào bờ vai của ông. Hunt cảm nhận được cánh tay nhỏ bé của bà ép mạnh vào ông, hơi ấm làn da của bà khi mưa lạnh đang rơi vần vũ ngoài cửa sổ. “Cảm ơn,” bà nói một lần nữa.

Và Hunt ngồi lặng lẽ như tượng đá.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.