Khuynh Tẫn Thiên Hạ – Loạn Thế Phồn Hoa

Chương 4



Trăng sáng.

Tiếu viện.

Tiểu viện.

Dưới ánh trăng, có Tiếu Khuynh Vũ.

Ở tiểu viện, có công tử Vô Song.

Lúc này, Tiếu Khuynh Vũ ngồi một mình một góc sân, thổi tiêu. Tiếng tiêu không liền lạc, đang thổi, bỗng đứt, rồi tiếp tục, lại đứt quãng… Dường như người thổi không có chủ định, nhưng tiêu âm cứ theo gió mà ngân lên, thành vần thành điệu.

Tiêu thanh u oán, êm ái du dương, thật động lòng người.

Tiếng tiêu mang theo tịch mịch cùng sầu thương, ẩn hiện trong đó là sự chống chọi cô độc, bế tắc cùng sự vùng vẫy tranh đấu tuyệt vọng đến tóe máu tươi. Người bình thường nghe một lúc, không hiểu sao chợt thấy nổi da gà, kinh tâm động phách. Nhưng mà, trong sự bi thống đau thương, cũng thoáng mơ hồ một chút âu lo, hoảng hốt.

Này phong hoa tuyết nguyệt, này gió xanh đùa giỡn, này mưa hoa tuôn rơi, này sông băng núi tuyết.

Tiếng tiêu kia như oán, như thương, như than, như khóc, lúc thắt ngặt, khi bình thản, nửa như đoạn tuyệt, nửa còn vấn vương, tình tang tha thiết, nhấn nhá ngân nga, mong manh như sợi tơ mành, tĩnh lặng tựa chỗ hồ sâu, mơ hồ tiếng sênh hòa nhịp, thấp thoáng bóng dáng múa ca, thì thầm chuyện viên khuyết tam sinh, vui buồn tan hợp.

Đang lúc cao trào, tiêu rời khỏi môi, ngưng bặt.

“Công tử, đêm đã về khuya, nên về phòng nghỉ thôi!” – Một đại hán đến bên cạnh Tiếu Khuynh Vũ. Người cao bảy thước, tráng kiện cao lớn, gương mặt chất phác hiền từ, tròn trịa mà đôn hậu. Hai thái dương nhô cao, hơi thở đều đặn, chân bước nhẹ nhàng dường như không chạm đất, bước đi không nghe ra đến nửa tiếng động nhỏ, thật sự là cao thủ hiếm thấy trên đời! Tiếu Khuynh Vũ trầm ngâm suy tư, bàn tay phải quấn vòng kim tuyến chậm rãi vuốt lọn tóc dài, tư thế ung dung mà tịch mịch. “Công tử…” – Đại hán muốn nói gì đó, lại thôi. “Lao thúc, đêm nay trăng sáng quá, ta muốn ngắm thêm một chút nữa!”. Y xem người hầu này như phụ thân, như huynh trưởng, do vậy ngữ khí cũng khách khí dị thường. Lao thúc thấy dường như đêm nay, ánh mắt Tiếu Khuynh Vũ ngắm trăng càng thêm cô tịch…

“Công tử, người phải chăng đang nghĩ đến Phương tiểu hầu gia?” – Lao thúc từ tốn hỏi, “Phương tiểu hầu gia là nhân tài hiếm có đương thời. Còn công tử bên cạnh không có mấy bằng hữu thân thiết, giả như Phương tiểu hầu gia có thể cùng công tử kết thành tri âm, lão bộc thật sự là mừng thay cho người!”, “Loại ý nghĩ này có nghĩ cũng chớ nói ra, mà tốt nhất là đừng nên nghĩ tới…”. Khuôn mặt Tiếu Khuynh Vũ trở nên lãnh đạm, trầm giọng: “…nếu không sau này chúng ta ngay cả chết như thế nào cũng không biết đâu!”

Tiếu Khuynh Vũ thoáng chau mày, bộ dáng y khi chau mày suy tư cũng phảng phất như minh nguyệt rọi thiên nhai.

Lao thúc than thầm, ông hiểu rất rõ công tử của mình. Y sở hữu trí tuệ tuyệt đỉnh, có thể đổi thay thế sự, đồng thời là ý chí mãnh liệt, kiên định quật cường, vậy mà từ nhỏ hai chân đã có biến, di chuyển bất lợi, làm sao khiến người ta không khỏi tiếc cảm mà thở dài?

Tiếu Khuynh Vũ hai tay đan vào nhau, ngồi lặng lẽ, cô độc một góc, ngẩng đầu vọng nguyệt.

Dưới trăng, y im lìm lặng lẽ.

Thanh tĩnh.

Thần thái cao ngạo mà đoan trang, y phục thanh nhã chỉnh tề.

Kiên định đường hoàng, không chút xao động bối rối.

Y nhìn trăng tròn vành vạnh, đột nhiên se sẽ thở dài…

“Đêm dài dăng dẳng, chẳng có lòng dạ nào dỗ giấc. Ta còn tưởng chỉ có mình ta lo âu phiền não không thể ngủ được, nào ngờ cả Tiếu huynh cũng theo ta, đồng bệnh tương lân. Chẳng rõ điều gì khiến Tiếu huynh vọng nguyệt thở dài?” – Một nam tử hồng cân rực rỡ, phong thái tiêu cuồng xuất hiện giữa ánh trăng. Hắn tà tà ngồi trên nóc nhà. Áo trắng, choàng bên ngoài một lớp hắc sa, hồng cân thật dài tung bay trong gió. Ánh trăng thật lớn và tròn lẳng lặng tỏa ra thứ ánh sáng yêu dị phía sau nam tử ấy, có cảm giác hắn từ trong ánh trăng mà bước ra vậy.

“Thiếu gia!” – Lao thúc có vẻ căng thẳng, nhưng Tiếu Khuynh Vũ đã khoát tay ngăn lại, y bất động thanh sắc, lên tiếng: “Nửa đêm, gió thổi trên ấy rất lạnh, Tiểu hầu gia không lạnh sao?”, “Hahaha…” – Phương Quân Càn cười ha hả chẳng chút hảo ý, trên người hắn toát ra sức cuốn hút mê hoặc khó ai bì kịp. Vẻ đẹp của hắn có lẫn nét tà mị, nhưng không phải kiểu đẹp của phấn son, mà ngược lại, phong thái đường hoàng mà kiêu dũng. Chân hắn khẽ nhún, người tung lên khỏi mái nhà, ung dung phiêu diêu, thân vừa rơi xuống đất liền xoay người, loáng cái đã di chuyển đến trước mặt Tiếu Khuynh Vũ. Chỉ thấy hắn tóc đen tung bay, hồng cân nhảy múa, trên khuôn mặt cố hữu nụ cười có thể điên đảo chúng sinh. Tiếu Khuynh Vũ không thể không thừa nhận, nam nhân này quả có thừa mị lực.

Phương Quân Càn cung tay, mỉm cười: “Ta đến đây thật đã quấy rầy nhiều quá!”

“Đã muộn như vậy, Tiểu hầu gia thật nhã hứng!” – Tiếu Khuynh Vũ mời hắn vào thư phòng, “Lao thúc, pha trà đón khách! Tiểu hầu gia, hôm nay lầu Lý Tân vừa mang đến trà Long Tĩnh, thật hữu duyên.” Phương Quân Càn phát hiện, Tiếu Khuynh Vũ ở trong tiểu lâu này, các phòng đều không có bậc cửa, có lẽ để tiện cho y ra vào, nếu có bậc cửa, luân y di chuyển quả gặp khó khăn không ít.

Xông hương trừ tạp niệm, rửa chén bỏ cặn dơ, ấm ngọc ủ nước nóng, cam lộ tinh khiết nhuận trà… (1)

Động tác của bạch y thiếu niên như mây trôi nước chảy, nhất cử nhất động đều lộ ra cốt cách tao nhã xuất trần, khí chất phi phàm thế gian hiếm thấy.

Để nước sôi hai lượt, thiếu niên vén tay áo, nghiêng ấm ngọc, chỉ thấy một dòng nước mảnh chậm rãi dội lên, hòa quyện cùng những lá trà xanh, trên chiếc tách sứ trắng, làn khói mỏng màu xanh lục cất mình uốn lượn.

Y không rót trà thẳng một lượt vào chén, mà từ tốn, nhịp nhàng nghiêng ấm ba lần, dừng ba lần nhưng dòng chảy vẫn không bị ngắt quãng, hương thơm thanh khiết u nhu của trà bắt đầu thoát ra, thấm vào gan vào ruột.

Đợi những lá trà thấm nước trĩu nặng, từ từ chìm xuống đáy chén, bạch y thiếu niên khoát tay, môi cười ôn nhu: “Trùng thủy, Phượng hoàng tam điểm đầu (2), Tiếu mỗ kính gửi lời chào hỏi khách viếng thăm!”

Phương tiểu hầu gia nóng lòng nói: “Bổn hầu nghe hương trà thơm ngát đã thấy trong người không thể chờ đợi, Khuynh Vũ mau đến ‘Phụng trà Quan Âm phủng ngọc bình’ (3) đi!” (Chú thích: Chuyện nhà Phật kể rằng, Quan Thế Âm Bồ Tát luôn mang bên người một chiếc Bạch Ngọc tịnh bình, trong bình là cam lộ có thể tiêu trừ tai ương, chữa trị bách bệnh, cứu khổ cứu nạn. Khi chủ nhân đem trà ngon thiết đãi quan khách, ta thường gọi “Quan Âm phủng ngọc phẩm” tức là muốn chúc khách quý khang thái an lành, trọn đời bình an)

Tiếu Khuynh Vũ hai mắt sáng ngời: “Thì ra Tiểu hầu gia cũng là người am hiểu trà!”

“Quá khen rồi!” – Phương Quân Càn hai tay tiếp nhận chén sứ trắng từ tay Tiếu Khuynh Vũ, từ tốn đưa lên mũi hít sâu một hơi hương trà, hương thơm quyến rũ chưa từng ngửi qua khiến cho kẻ từ nhỏ đã từng nếm qua trăm loại trà như hắn cũng không nén được ngưỡng mộ.

Tiếu Khuynh Vũ nghiêm nghị nói: “Trà đức có bốn chữ ‘lý, kính, thanh, dung’, thưởng thức trà có thể khiến cho con người tĩnh tâm bình khí, trữ định thanh hòa. Cổ nhân từng nói ‘Trà là loại vật chất cực kỳ tinh tế, hấp thụ tú khí của đất Âu, đất Mân, khí hậu vùng thung lũng tạo ra hồn trà cũng như phẩm chất tuyệt vời của trà, giúp tiêu trừ tạp niệm, rửa sạch vướng bận, trí thanh đạo hòa, không phải người quá đỗi tầm thường cùng trẻ con thì đều phải biết. Bên trong sự yên tĩnh, thanh đạm, thuần khiết là ý vị cao độ, đạt đến sự thanh tịnh tuyệt đối.’ (Tống Huy Tông Triệu Cát) (4). Quả là rất chí lý!”. Lời vừa dứt, nâng chén nhấp một ngụm, rồi nhắm mắt lại thưởng thức.

Phương Quân Càn cũng dần tĩnh tâm lại, nối bước làm theo, nâng chén lên, nhắm mắt hưởng thụ.

Chỉ thấy một làn hương cực kỳ thanh khiết, thuần túy, chậm rãi tuôn chảy từ trên xuống dưới, quyện vào phủ tạng, thấu triệt nội tâm. Phương Quân Càn trong một thoáng chốc tưởng như vừa được tắm mình trong tinh hoa của Phật pháp.

Tâm hồn lâng lâng bay lướt qua không gian bao la rộng lớn, tinh thần giao hòa sâu sắc với tự nhiên, người và trà như tan biến trong nhau, trở lại chỗ hư không vô cùng.

“Tuyệt! Tuyệt! Thật là tuyệt!” – Mở to mắt ra, Phương Quân Càn không khỏi luôn miệng tán thưởng, nhưng đột nhiên sầm mặt lại: “Không được rồi!”

“Sao?” – Tiếu Khuynh Vũ ngẩng lên nhìn hắn.

Phương Quân Càn vẻ mặt đau khổ: “Uống trà này xong, thiên địa chẳng còn thứ gì hạp khẩu, sau này không còn được uống nữa thì làm sao?”. Hắn nhăn trán rồi lập tức mặt dày cười tà: “Chi bằng mỗi ngày ta đều đến, chúng ta cùng thưởng trà tâm giao, tĩnh tâm dưỡng thần, đó chẳng phải là nhân sinh khoái hoạt ư?”

Tiếu Khuynh Vũ bực bội. Trên đời kẻ không biết xấu hổ y từng gặp qua không ít, nhưng chưa bao giờ gặp kẻ không biết xấu hổ nào đến như hắn! Ngặt nỗi không thể đắc tội, lập tức lảng chuyện: “Tiểu hầu gia sao hôm nay lại có hứng thú quang lâm hàn xá vậy?”

Phương Quân Càn vẻ mặt buồn bã, đặt chén trà xuống bàn: “Thiên Tấn xâm phạm bờ cõi, Đại Khánh ta đường đường là một nước lớn mà tuyệt không ai dám chủ động nghênh chiến, ta buồn bực không ngủ được, nghe nói Tiếu công tử thường thổi tiêu thưởng nguyệt, ta lần theo tiêu thanh mà đến.”

Tiếu Khuynh Vũ thở dài, tự giễu: “Sung sướng lâu càng trở nên khiếp nhược. Võ tướng thế hệ sau ngày càng thua kém cha anh, trong triều lại khiếm khuyết hiền tài, vũ không đủ an bang, quốc gia sẽ sớm suy vong.” Phương Quân Càn giận dữ: “Sáng nay ta đệ trình lên Bệ hạ 《Sĩ tốt đề bạt tấn thăng thập nhị sách》, kết quả bị một đám cựu thần phê phán chỉ trích, công kích tơi bời, nói nào là sách này làm thay đổi căn bản quốc gia, còn nói Đại Khánh có suy tàn cũng là tại ta, Phương Quân Càn, bọn họ không tiếc sống chết, quyết ngăn cản thi hành sách đó.”

Tiếu Khuynh Vũ cả kinh: “《Sĩ tốt đề bạt tấn thăng thập nhị sách》?, phải chăng là chính sách chọn lựa binh sĩ mà dân gian đang đồn đại, phàm là kẻ ra trận lập công, lập tức thoát khỏi thân phận ti tiện. Binh lính tác chiến có công, bất luận xuất thân, đều luận chiến công mà phong quan ban tước?”

“Đúng vậy!” – Phương Quân Càn mặt trầm như nước, “Huynh không phải cũng thấy ta đại nghịch bất đạo chứ? Quốc gia đương thời đều theo thể chế kế thừa, coi quý tộc là quốc gia căn bản, là chỗ phát sinh nhân tài tinh anh, lịch đại tướng lĩnh đều từ đó mà chọn lựa ra, đối với vương triều mấy trăm năm qua đều rất trung thành. Sách này mà chuẩn, quý tộc quyền thế tất bị suy giảm thế lực, hoàng quyền không người ủng hộ, vương vị tất dao động. Mà trong dân gian kẻ có thực tài theo đường đó mà tiến thân, cùng con cháu quý tộc cạnh tranh công bằng, phân tranh bằng ý chí cùng tài năng, địa vị ngang nhau… Đến lúc đó rõ ràng thành mối họa!”

“Vớ vẩn!” – Tiếu Khuynh Vũ vỗ vỗ vào tay vịn luân y, ánh mắt sắc như điện, “Chính đó mới là tạo phúc vạn dân, công lao vạn đại!”

Phương Quân Càn kinh ngạc. Lẳng lặng dò xét, trong mắt Phương Quân Càn chợt nổi lên một cảm xúc mơ hồ không tên.

Hắn cười cười, trong nụ cười có ý cảm ơn, thần sắc cũng có điểm tươi tỉnh hơn: “Chỉ có huynh… Chỉ có huynh muốn ta duy trì chính sách này thôi!”

Tiếu Khuynh Vũ thản nhiên châm trà, thật tình nói: “Việc làm này chỉ có ích nước lợi dân, có công với xã tắc, kẻ nào phản đối chứng tỏ tầm nhìn thấp kém, Tiểu hầu gia không cần để trong lòng. Tối nay ta lấy trà thay rượu, kính Tiểu hầu gia một ly.”, “Không, là ta phải cảm tạ huynh. Trừ huynh ra, còn ai đủ năng lực thấy được cái chân chính tinh túy trong chính sách này chứ?”. Phương Quân Càn nâng chén, một hơi uống cạn “Ngay cả gia phụ đối với chuyện này cũng phản cảm dị thường…”

“Vương gia nói như thế nào?”

“Người nói, rồng sinh rồng, phượng sinh phượng. Tiện dân chỉ là tiện dân, làm sao có tài cán gì, muốn tìm phượng hoàng trong bầy chim sẻ, quả thật chỉ là vọng tưởng…”

Tiếu Khuynh Vũ miết nhẹ ngón tay lên miệng chén trà, nói: “Vương gia nói như vậy không khỏi võ đoán rồi. Tục ngữ có nói một câu ‘Anh hùng chớ hỏi xuất thân’ mà!”

“Tuyệt diệu!” – Phương Quân Càn mạnh miệng cười lớn, vỗ tay tán tưởng, đoạn nói: “Câu này thực sự là tinh hoa. Haha, Tiếu Khuynh Vũ, chỉ có huynh mới nói được một câu xác đáng đến vậy. Ta vẫn muốn tìm một câu ngắn gọn mà khái quát hết ý tứ của mười hai sách này, nhưng đáng tiếc nếu không phải quá ư dài dòng khó hiểu thì cũng lộn xộn vô nghĩa, chẳng thể nào có được một lời đích đáng như huynh.”. Nhìn chăm chú Tiếu Khuynh Vũ, hai mắt hắn sáng như sao, vô hạn cảm kích.

Tiếu Khuynh Vũ tiếp tục nói: “Tiểu hầu gia tầm nhìn trác tuyệt, thể hiện ở chính xuất phát điểm của thập nhị sách này”

Phương Quân Càn nghiêm túc: “Thỉnh các hạ nói kỹ càng hơn!”

“Bởi vì xuất phát điểm suy nghĩ của Tiểu hầu gia không phải là từ cách nhìn nhận vấn đề của vua quan Đại Khánh, mà là cách nhìn của kẻ có chí bá chủ thiên hạ, tìm kiếm nhân tài.”

Lời vừa nói ra không khỏi khiến Phương Quân Càn giật mình.

Tiếu Khuynh Vũ thần thái điềm tĩnh, nói tiếp: “Nếu phạm vi tuyển cử quan lại tướng lĩnh được mở rộng, sâu sát đến tận giới bình dân cùng nô lệ, vậy thì quốc gia càng có nhiều cơ hội hấp thụ nhân tài… Nếu Đại Khánh ta quyết thi hành chính sách này, thì không chỉ con dân Đại Khánh, sợ là cả nhân tài lân bang cũng ùn ùn phó hội. Đến lúc đó Đại Khánh không tốn một binh một tốt, binh sĩ không cần đổ một giọt máu cũng có thể trở thành bá chủ thiên hạ.”

“Thật là kỳ lạ… Chúng ta rõ ràng chỉ mới quen biết vài ngày, vậy mà có cảm giác như đã hiểu nhau cả đời người…”, Phương Quân Càn nhìn trân trân Tiếu Khuynh Vũ, thành thật: “Người ta nói kẻ hữu duyên chỉ một lần gặp cũng như cố tri, ta vẫn không tin. Nhưng bây giờ, ta tin…”

Khi hắn đã tắt đi nụ cười mạn bất kinh tâm trên đôi môi nghiêm nghị mà khinh bạc, có cảm giác như một luồng ánh sáng rạng rỡ lóa mắt vừa lướt qua trên đôi đồng tử trong suốt cương nghị. Cử động của con ngươi vô cùng linh hoạt, ánh mắt thong dong mà uy lực, nhất cử nhất động toát ra khí độ tiêu sái, điềm tĩnh tự nhiên. Cả người hắn giống như một ngọn đuốc rực cháy, luôn luôn tồn tại một loại mị lực cuốn hút người khác gần như là yêu dị. Nhìn thần thái hàm ẩn của Phương Quân Càn, Tiếu Khuynh Vũ không ngăn được mình muốn tán thưởng một tiếng.

Có lẽ, thái độ ngạo mạn bất cần mà hắn luôn tỏ ra ngoài kia chỉ là một cái mặt nạ để ngụy trang thôi.

“Cái gọi là ‘chỉ cần có tài liền tiến cử’ đã đủ nói lên điểm trọng yếu của việc dùng người. Việc trị quốc là để duy trì đế chế, những người tài giỏi cùng chung tay góp sức nắm giữ toàn cục, quốc gia tự khắc được duy trì lâu bền…”

Đối với Phương Quân Càn, Tiếu Khuynh Vũ là một thính giả hiếm hoi biết lắng nghe người khác, cùng y nói chuyện thực sự có một cảm giác rất thoải mái.

Trước kia, hắn cũng đàm luận với một số người về chính kiến cùng quan điểm của mình, nhưng bọn họ, hoặc là không hề hứng thú nghe hắn giảng giải, thậm chí dè bỉu hắn, hoặc cơ bản không hiểu hắn nói gì nhưng cũng làm ra vẻ thông suốt, vơ vẩn nói góp một vài chuyện chẳng liên can. Thậm chí có những người… bọn họ không hề quan tâm ai đang nói cái gì, như thể toàn bộ cái đúng đều thuộc về mình, khi nói chuyện với ai, họ đều giữ thái độ khăng khăng cố chấp hòng đánh gãy lập luận của kẻ ấy, ngay sau đó dùng lời lẽ để xoay chuyển vấn đề theo hướng mà họ cho là có lý để thỏa mãn cái tôi, cho rằng mình là đúng, là tốt nhất. Bọn họ chỉ cần người nghe mình nói, nhưng ngay bản thân họ lại chẳng bao giờ nghe người khác nói gì.

Những lúc như vậy, Phương tiểu hầu gia luôn luôn tự giác, tự biết thời biết thế mà chuyển từ vị trí người nói sang vị trí người nghe – căn bản vì hắn không muốn những lời nói của mình đâm ra lãng phí vì những kẻ như vậy.

Nhưng, Tiếu Khuynh Vũ không phải hạng người đó, những thứ y thông hiểu thực sự rất nhiều, cơ hồ không gì không nghe, không gì không biết, nhưng y sẽ không bao giờ khoe mẽ chứng tỏ sự xuất sắc của mình khi nói chuyện với kẻ khác. Rất nhiều lúc, Tiếu Khuynh Vũ chỉ mỉm cười mà sắm trọn vai một thính giả hoàn hảo, nhưng đó không có nghĩa là chỉ lắng nghe và thỉnh thoảng gật gù phụ họa, ở rất nhiều vấn đề mấu chốt, y đều có thể nêu vài ý kiến giải tự bản thân cảm nhận một cách sâu sắc thấu đáo, thường thường những lời đó đều rất đúng lúc và đúng trọng tâm của vấn đề. Do đó, hai người thoải mái đàm luận, bất kể đó là vận mệnh triều chính, quốc quân đại sự hay chỉ là những chuyện nho nhỏ thú vị hằng ngày trong chốn nhân gian.

Phương Quân Càn biết y di chuyển không tiện, nhưng mà ngồi đàm đạo cùng y, từ những chuyện thâm cung cố cựu, cho đến những thế lực bí hiểm chốn giang hồ, y đều thông suốt tường tận, lý giải mạch lạc rõ ràng, không chút khó khăn. Phương Quân Càn bỗng nhiên nghĩ, người ngồi trước mặt hắn – Tiếu Khuynh Vũ – rõ ràng là một nam nhân rất có mị lực, rất đặc biệt. Ngồi trò chuyện cùng y, tự nhiên trong lòng phát sinh một cảm giác tín nhiệm, dường như được khơi dậy từ trong tiềm thức, trên người y tỏa ra một khí chất rất khác lạ, chừng nào y còn nghe người ta nói chuyện, chừng đó người ta còn cảm thấy mình được tôn trọng. Thảo luận một vấn đề gì đó với y, tựa như đã tìm được tri âm.

Tri âm…

Đêm càng khuya, trăng đã chếch góc tường, đào hoa ngoài sân tiểu lâu bay lả tả trong gió, hương hoa cùng ánh trăng tàn hòa quyện, mờ mờ ảo ảo.

Phương Quân Càn nhẹ nâng chén trà, ánh mắt ôn hòa bình thản mà thẳng thắn thành khẩn nhìn thẳng Tiếu Khuynh Vũ: “Ta vẫn có ý muốn xem huynh là bằng hữu.”. Hắn nói “Không ngờ rằng huynh cũng có thể trở thành tri âm!”

—oOo—

(1), (2), (3): Đối với mỗi loại trà, người Trung Hoa cũng có mỗi cách thưởng thức khác nhau. Trà Long Tĩnh, để cảm nhận được trọn vẹn hương vị cần phải chuẩn bị đầy đủ trà cụ gồm: 1 chén tống thủy tinh, 1 thẻ hương (nhang), 1 ấm trà bằng sứ màu trắng, 1 lư hương,1 khay trà bằng gỗ sơn mài có khe hở, 2 bình nước sôi, một hộp đựng trà, 1 bộ dụng cụ pha trà, 1 cái khăn, mỗi người uống tối đa ba chung và phải trải qua 12 bước như sau:

1. Điểm hương – phần hương trừ vọng niệm: đốt hương tiêu trừ tạp niệm, tĩnh tâm.

2. Tẩy bôi – băng tâm khứ phàm trần: dùng nước sôi rửa chung trà cho sạch bụi.

3. Lương thang – ngọc hồ dưỡng thái hòa: châm nước sôi (khoảng 80ºC) vào ấm sứ.

4. Đầu trà – thanh quan nghênh giai nhân: cho trà khô vào chén tống thủy tinh.

5. Nhuận trà – cam lộ nhuận liên tâm: rót nước ấm từ ấm sứ vào khoảng 1/3 chén tống, vừa đủ ngập trà, nước này sau đó sẽ đổ đi, có tác dụng làm sạch lá trà.

6. Trùng thủy – Phượng hoàng tam điểm đầu: rót nước ấm từ trên cao vào chén tống thủy tinh, không rót liền một lần mà ba lần nghiêng, ba lần đứng sao cho không để cho dòng chảy của nước bị đứt đoạn, giống như chim phượng gật đầu chào hỏi khách thưởng trà.

7. Phao trà – Ngọc bích trầm thanh giang: dùng dụng cụ pha trà khuấy cho trà hòa vào nước ấm, lá trà thấm nước sẽ từ từ chìm xuống đáy.

8. Phụng trà – Quan Âm phủng Ngọc Bình: Phật Quan Âm trong truyền thuyết bên người luôn mang theo một chiếc Ngọc Bình cam lộ, cam lộ trong bình có thể tiêu tai khứ bệnh, cứu khổ cứu nạn. Chủ nhân đem trà đã pha (ví như cam lộ trong bình ngọc) mời quan khách, mang ý nghĩa chúc phúc khách nhân cả đời bình an.

9. Thưởng trà – xuân ba triển kỳ thương: đây là bước thú vị nhất trong toàn bộ quá trình ẩm trà, quan sát hình dạng lá trà nở ra trong nước, nếu là một lá một mầm thì gọi là Kỳ thương, một mầm hai lá gọi là Tước thiệt (lưỡi chim sẻ), tùy theo hình dạng mà bàn về vận khí của mỗi người.

10. Văn trà (nghe trà) – tuệ tâm ngộ trà hương: thưởng trà tức là thấy, nghe và phẩm vị trà. Nghe trà là dùng cả tâm linh để cảm nhận hương trà thanh u thanh nhã, nghe được sự tuần hoàn của thiên nhiên, vũ trụ…

11. Thưởng trà – đạm trung phẩm trí vị: lục trà tuy thanh đạm nhưng có vị ngọt thanh khiết, thuần túy, dùng lưỡi để cảm nhận hương vị dịu dàng của trà.

12. Tạ trà – tự châm nhạc vô cùng: khách nhân tự rót trà để uống.

(Nguồn: baike.baidu)

(4): Trích ‘Đại quan trà luận’ của Tống Huy Tông

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.